Luật thuế Bảo vệ môi trường (BVMT) chính thức có hiệu lực từ ngày
1/1/2012. Hầu hết các doanh nghiệp ngành nhựa đều cho rằng áp dụng thuế
BVMT với túi ni lông là đúng. Nhưng theo phản ánh, một số doanh nghiệp
hiện vẫn còn lúng túng, gặp khó khăn khi áp dụng thuế đối với loại sản phẩm
này.
Cần có tiêu chí cụ thể hơn
Theo Luật Thuế BVMT, túi ni lông không thân thiện với môi trường phải đóng
thuế 40.000 đồng/kg. Do chưa có tiêu chí, quy định cụ thể để xác định thế nào là
túi ni lông thân thiện với môi trường nên một số doanh nghiệp sản xuất túi ni lông
chưa nắm được có thuộc đối tượng chịu thuế BVMT hay không và phải chịu như
thế nào.
Ông Phạm Hoàng Việt, Ủy viên HĐQT, phụ trách kinh doanh nội địa Công ty cổ
phần nhựa và môi trường xanh An Phát cho biết, Công ty của ông chuyên sản xuất
bao bì nhựa tự phân hủy sinh học, nhưng do giá thành sản phẩm loại này hiện nay
vẫn ở mức cao nên Công ty chủ yếu sản xuất hàng để xuất khẩu.
Đối với thị trường trong nước, Công ty chỉ xuất bán nếu có đơn đặt hàng. Tuy
nhiên, các sản phẩm bao bì nhựa tự phân hủy khi xuất hóa đơn bán trong nước
Công ty vẫn phải đóng thuế BVMT. Bởi theo quy định, các sản phẩm không phải
chịu thuế là những sản phẩm đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường nhưng
hiện chưa có quy định cụ thể để xác định thế nào là sản phẩm thân thiện môi
trường, nên sản phẩm của Công ty ông chưa được cấp chứng nhận.
Khoản 3 Điều 2 Luật thuế BVMT quy định, túi ni lông thuộc diện chịu thuế là loại
túi, bao bì được làm từ màng nhựa đơn polyetylen, tên kỹ thuật là túi nhựa xốp.
Theo quan điểm của ông Nguyễn Văn Hợi, Giám đốc Công ty TNHH Bao bì Liên
Hoàn Phát (TP. Hải Phòng), túi xốp chỉ nên hiểu là loại túi thường chỉ sử dụng một
lần, dùng cho hàng hóa ngoài chợ, được người dùng phân tán nhỏ lẻ, không được
tái sinh. Việc áp thuế với các sản phẩm túi loại này là hợp lý, để hạn chế việc sử
dụng.
Nếu hiểu túi nhựa xốp bao gồm tất cả các loại túi, trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hoá
và túi ni lông đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường, thì việc áp thuế với các
sản phẩm túi ni lông dùng trong công nghiệp (như túi lót HD, LLPE, LPE dùng để
đóng hàng hóa công nghiệp, thức ăn chăn nuôi, lúa gạo, phân đạm…) sẽ không
hợp lý, bởi các loại túi này ít tác động đến môi trường, có giá trị tái sử dụng cao.
“Đã đến lúc cần thiết phải có những quy định để làm rõ thế nào là túi nhựa xốp
thuộc diện chịu thuế, tiêu chí túi ni lông thân thiện với môi trường, tránh gây hiểu
nhầm cho doanh nghiệp, giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp ổn định và có tính cạnh tranh trên thị trường, đồng thời có chế tài đánh
mạnh vào việc sản xuất, sử dụng các loại túi ni lông hàng chợ”, ông Hợi kiến nghị.
Lo ngại sản phẩm có thể bị đánh thuế hai lần
Theo khoản 4, Điều 5, Chương 3 Nghị định 67/2011/NĐ-CP ngày 8/8/2011 của
Chính phủ, thuế BVMT chỉ phải nộp một lần đối với hàng hóa sản xuất hoặc nhập
khẩu nhưng thực tế, các doanh nghiệp lo ngại sẽ phải đóng 2-3 lần thuế trên cùng
một mặt hàng.
Ông Nguyễn Việt Hà, Giám đốc Công ty TNHH Bao bì nhựa Tiến Phát tại tỉnh
Bình Dương cho biết, theo hướng dẫn của Cục thuế Bình Dương, khi Công ty của
ông bán sản phẩm màng nhựa, túi nhựa cho một đơn vị nằm trong khu chế xuất
Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh), Công ty của ông phải cộng thuế BVMT vào giá bán
và kê khai nộp thuế tại Cục thuế Bình Dương.
Tuy nhiên, khi nhập khẩu vào khu chế xuất, đơn vị nhập khẩu lại phải kê khai nộp
thuế BVMT cho Hải quan TP. Hồ Chí Minh. “Cục thuế Bình Dương và Hải quan
TP. Hồ Chí Minh đều yêu cầu chúng tôi phải nộp thuế trước, sau đó có hướng dẫn
sẽ hoàn thuế sau khiến chúng tôi gặp khó khăn khi bán hàng”, ông Hà chia sẻ.
Cùng chung vướng mắc này, ông Hitoshi Saito, Tổng Giám đốc Công ty TNHH
Bao bì Nhật Bản, hiện đang đóng tại Khu chế xuất Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh)
đề xuất cần thống nhất một đơn vị thu thuế.
Ông Hitoshi Saito kiến nghị đưa ra hai cách thu loại thuế này, như chỉ cần thu thuế
BVMT tại nhà sản xuất túi PE, không thu khi xuất – nhập túi vào khu chế xuất,
không thu khi đơn vị trong nước nhập khẩu bao giấy có lồng túi PE từ khu chế xuất
trở lại trong nước; hoặc không thu thuế BVMT khi nhà sản xuất phát hành hóa đơn
bán vào trong khu chế xuất, chỉ đóng thuế BVMT khi khách hàng trong nước nhập
khẩu bao giấy có lồng túi PE từ khu chế xuất.
Ngoài ra, việc trên hóa đơn bán hàng gộp chung thuế BVMT vào giá bán, không
tách ra một cách cụ thể khiến các doanh nghiệp có thể gặp vướng mắc.
Cụ thể, đơn vị mua mặt hàng túi bao bì nhựa về làm thêm một vài công đoạn, sau
đó bán cho một đơn vị khác cũng ở dạng túi bao bì thì lại phải kê khai đóng thuế
BVMT thêm một lần nữa, còn nếu không muốn đóng thuế thì phải chứng minh.
“Tuy nhiên, việc chứng minh không đơn giản vì trên hóa đơn đầu vào của đơn vị
không cho thấy đơn vị đã chịu thuế BVMT đầu vào”, ông Nguyễn Việt Hà, Giám
đốc Công ty TNHH Bao bì nhựa Tiến Phát khẳng định.
Ông Hà cũng đưa ra trường hợp doanh nghiệp tái chế nhựa mua phế liệu, phế phẩm
màng nhựa, túi nhựa (đã chịu thuế BVMT) về tái sinh thành hạt nhựa tái sinh, sau
đó bán cho các doanh nghiệp nhựa để sản xuất ra các túi bao bì nhựa tái sinh và
bán ra thị trường, đồng thời phải chịu thuế BVMT một lần nữa. “Nếu áp dụng như
vậy sẽ dẫn đến sản phẩm túi bao bì nhựa tái sinh đắt hơn túi bao bì nhựa nguyên
sinh, như vậy không hợp lý”, ông Hà nói.
Túi ni lông nội cũng gặp khó, đợi hướng dẫn
Công ty cổ phần Thủy sản và Thương mại Thuận Phước (TP Đà Nẵng) là một
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản, vì thế túi ni lông để bao gói sản
phẩm là thành phần không thể thiếu.
Ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc Công ty cho biết, hàng năm, Công ty ông sử
dụng một lượng túi ni lông rất lớn, trước đây giá túi ni lông nhập vào chỉ khoảng
35.000 đồng/kg, nhưng từ khi áp thuế BVMT, giá túi ni lông đã tăng hơn gấp đôi
khiến chi phí sản xuất bị đội lên nhiều. Hơn nữa, sau khi tính giá túi ni lông vào
giá thành sản phẩm Công ty lại chịu thêm một lần thuế giá trị gia tăng khiến sản
phẩm xuất khẩu của Công ty phải tăng giá bán, đồng nghĩa với việc giảm tính cạnh
tranh trên thị trường.
Từ đó, ông Lĩnh đề nghị cơ quan có thẩm quyền nên xem xét tách dòng thuế
BVMT đối với túi ni lông ra khỏi sản phẩm và thực hiện việc hoàn loại thuế này
cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Còn ông Nguyễn Văn Hợi, Giám đốc Công ty TNHH bao bì Liên Hoàn Phát chia
sẻ: “Hiện nay có những đơn hàng của Công ty chúng tôi bị tạm dừng lại do khách
hàng không chịu cộng thêm vào giá thành 40.000 đồng/kg túi ni lông, kể cả những
đơn hàng dài hạn, đã ký trước khi Luật thuế BVMT có hiệu lực”.
Trong khi đó, theo Điều 2 Thông tư số 152/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính, túi ni
lông PE nhập khẩu vào Việt Nam lại không phải chịu thuế BVMT nếu tạm nhập
khẩu và tái xuất khẩu trong thời hạn quy định của pháp luật.
“Vì quy định trên mà nhiều doanh nghiệp mua túi ni lông để đóng gói hàng hóa
xuất khẩu đã lựa chọn phương pháp tạm nhập tái xuất khiến các doanh nghiệp sản
xuất túi ni lông trong nước phải đối mặt với nguy cơ đóng cửa hoặc sản xuất cầm
chừng”, ông Hợi nói.
Còn ông Nguyễn Việt Hà, Giám đốc Công ty TNHH bao bì nhựa Tiến Phát cho
hay, từ cuối năm 2011 đến nay, Công ty ông phải sản xuất cầm chừng và bán hàng
tồn kho từ năm trước để đợi hướng dẫn của cơ quan chức năng.
Ông Hà cũng cho biết thêm, một số doanh nghiệp nhỏ đã né thuế bằng cách bán
sản phẩm và không xuất hoá đơn. Cũng đã có những đối tác mua hàng yêu cầu
công ty sản xuất bao bì “lách” thuế bằng cách thay đổi tên đơn hàng trên hóa đơn.
Để chủ trương hạn chế sử dụng túi nilon thực sự đi vào cuộc sống, các doanh
nghiệp mong muốn cơ quan chức năng sớm ban hành những hướng dẫn cụ thể đối
với các quy định về thuế BVMT, để nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc này.
( theo báo doanh nhân sài gòn online)
Ví dụ
Doanh nghiệp A sản xuất hoặc nhập khẩu 100 kg túi ni lông đa lớp, trong đó trọng
lượng màng nhựa đơn HDPE, LDPE, LLDPE có trong túi ni lông đa lớp là 70% và
trọng lượng màng nhựa khác (PA, PP,..) là 30%.
Như vậy, số thuế bảo vệ môi trường của doanh nghiệp A phải nộp đối với 100 kg
túi ni lông đa lớp là: 100 kg x 70% x 40.000 đồng/kg = 2.800.000 đồng.”
Màng co POF được sản xuất từ nhựa Polyolefin, an toàn với thực phẩm và thân
thiện với môi trường, trong quá trình sử dụng và tái chế không tạo ra chất độc hại,
nên không phải chịu thuế bảo vệ môi trường.
- Tuy nhiên trong thực tế, khi sản xuất màng co pof, người ta thường sản
xuất màng pof 3 lớp, màng pof 5 lớp... trong đó có 1 lớp nhựa LLDPE nằm trong
danh sách tính thuế. Chính vì vậy, màng co pof cũng phải nộp thuế bảo vệ môi
trường, các tính như sau:
Vd: sản xuất 10kg màng co pof 3 lớp trong đó trọng lượng lớp giữa bằng LLDPE
chiếm 50%, và thuế suất bảo vệ môi trường theo quy định hiện tại là 40.000đ, thì
thuế phải nộp dược tính theo công thức:
Tiền thuế phải nộp = 40.000x10x50% = 200.000 (đ)
Tuy đã tiến hành sửa đổi bổ sung, và ban hành các văn bản hướng dẫn nhưng có
thể nói, Luật Thuế bảo vệ môi trường của Việt Nam vẫn còn rất nhiều bất cập:
- Cả các cơ quan thi hành luật, và các doanh nghiệp thực hiện đóng thuế theo luật
cũng bối rối, không biết sản phẩm nào thì phải đóng thuế, và đóng bao nhiêu.
- Thuế suất (40.000đ) quá cao so với giá trị sản phẩm (khoảng 50.000đ).
- Việc đánh đồng thuế suất của các loại nhựa là không hợp lý vì giá của chúng sau
khi tái chế tạo hạt nhựa là hoàn toàn khác nhau (nhựa LLDPE giá hạt sau tái chế là
12 - 16.000đ, còn hạt LDPE là 23 - 26.000đ). Hơn nữa việc phân hủy của các loại
màng đơn dễ dàng hơn màng ghép rất nhiều, không thể đánh thuế bảo vệ môi
trường 2 loại màng như nhau được.
- Xem thêm -