P H A N C ự ĐỆ - T R Ậ N Đ ÌN H H Ư Ợ U
NGUYỄN TRÁ C - N GUYÊN H O À N H KH UNG
LÊ C H Í D Ũ N G - H À V Ă N Đ Ứ C
w
(1900 - 1945)
rr TT-TV * ĐHQGHN
895.92209
VAN
2010
V-G2
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
PHẠN Cự ĐỆ - TRẦN ĐÌNH Hượu - NGUYÊN TRÁC
NGUYỄN HOÀNH KHUNG - LÊ CHÍ DŨNG - HÀ VĂN ĐỨC
VAN HỌC VIẸT NAM
(1900 - 1945)
(Túi bủn lần thứ mười bu)
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
• VIỆT
■ NAM
Công ty CP sách Đại học - Dạy nghề - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
giữ quyền công bố tác phẩm.
19-2010/CXB/604-2244/GD
_______________
Mã sô': 7X093h0-DAl
LÒI NHÀ XUẤT BẨN
Tập Văn học Việt Nam (1900 - 1945) xuất bản lần này là cồng trình
tập th ể dược hìn h th àn h trên co sỏ sủ a chữ a, c h in h lý các cuốn Văn
học Việt Nam gỉai đoạn giao thời ỉ 900 - 1930 của Trần Đ ình Hượu, L ê
C hí Dũng và cuốn Văn học Việt Nam (1930 - 1945) (2 tập) của P h an
Cự Đệ, N guyễn TrảCy N guyễn H oàn h K h u n g , H à Văn Đức do N h à xuát
bản Dại học và trung học chuyên n ghiệp xuát bản trước đây.
Đây là tập thứ ba sau tập Văn học dân gian Việt Nam (N hà xuất
bản G iáo dục, 1997) và tập Văn học Việt Nam (thẽ kỷ X - hẽt thẽ kỷ
XIX) (N hà x a á t bản G iảo dụ c, 1997) trong chương trình Văn học Việt
N am của k h o a Ngữ văn trường Đại học K h o a học xă h ội và n hân
văn ở Việt N am .
Ò tập này, cấc tác g iả trình bày k h ả dầy đủ và sáu sả c các khuynh
hướng, các trào lưu văn học xu át hiện từ những năm đ à u th ế kỷ XX
dến C ách m ạn g thản g Tám 1945. B a trào lưu văn học chủ d ạ o ỏ g ia i
đ o ạn này là :
- Trào lưu vấn hạc hiện thực có m ầm m óng từ trong các sán g tác
thơ của Tú Xương, N guyễn K hu yến, truyện và tiéu thuyết của P h ạm
Duy Tốn, Hò Biéu Chánh, kịch của Vũ Dinh Long, v.v... và dược
k h ả n g d ịn h ỏ m ột lo ạ t tác p h ẩ m nổi tiếng củ a N guyễn Cồng H oan,
N am C ao, Vủ Trọng P hụng, N gô T át Tố, N guyên H òng, v.v...
- TYào lưu văn học lãng mạn với các tác g ia văn xuôi tiêu biéu như
Tản Đà, H oàn g N gọc P h á c h , Đồng HÒf Tương P hó, N h át L in h , K h á i
Hưng, T h ạ ch L a m , N guyễn Tuân, v.v... và với các n h à thơ trong p h o n g
trào T hơ m ói như T h ế Lữ, Huy T hôn g , N guyẻn N hược P hảp, Xuàn
Diệu, Huy C ận, C h é L a n V iên, H àn M ặc Tùy T é H an h, Vủ H oàng
Chương, N guyễn B ín h , v.v...
- T rào lưu văn học yêu nước và cách mạng m ỏ đ à u bàng các tác
p h ẩ m của P h an B ội C hău (như Hái ngoại huyết lệ tân thư, Trùng Quang
tâm sù), củ a P h an C hâu T rinh, của N guyẻn An N inh, H uỳnh Thúc
K h ả n g ? P h an Vàn Trường Võ L iêm Sơn U . Ư . . .
,
,
5
T ro n % khuynh hướng n ày, c á c túc g ia đ ặ c b iệ t đ án h g iá c a o n ộ i
duni> h iện thực p h ê p h á n và g iá trị c á c h tân tron g n g h ệ thuật ừ r á i ’
tá c p h ẩ m củ a N guyễn Ái Q u ốc như B ả n á n c h ê đ ộ th ự c d â n P h á p ,
N h ậ t k ý c h ìm tà u , C o n r ồ n g tre (k ịc h ), V i h à n h , L ờ i th a n vãn c ủ a
B à T rư n g T r ắ c , N h ữ n g trò l ố h a y là V a r e n n e và P h a n B ộ i C h á u ,
N h ậ t k ý tro n g tù và th ơ T ố Hữu tron g tập T ừ ấy. Đ iều đủng chú ỷ là
c á c túc g ia , b ằ m ' n h iều nguồn tư liệu k h ú c n hau đ ã trình b à y vù p h á n
tích k h á sâu s ắ c h ố i c a n h x ú h ộ i —tủm Ịý —thẩm mỹ đ ã lủm xuất h iện
c á c t r à o lưu vân h ọ c V iệt N am ở g ia i đ o ạ n 1 9 0 0 — 1 9 4 5 , giúp hqư ờ i
đ ọ c c ó c ơ s ỏ đ ể x á c lậ p m ô i qu an h ệ giữ a t h ế g iớ i qu an củ a tá c g iả với
n ộ i d u n ạ tư tưởng cũtìíị n hư d ặ c trưng n g h ệ th u ật củ a tá c p h ẩ m ở từng
tá c 1ịiả và từnif tr à o lưu vân h ọ c cụ thể.
N g o à i ra , tập s á c h cũ n g đ ề c ậ p đến m ột sự kiện vân h ọ c qu an
trọn ạ, rấ t m ới m ẻ là sự xu ất hiện cú c tá c g ia và túc p h ẩ m , p h ê hình
vân h ọ c th eo khuynh hướng m ủcxit với h a i đ ạ i h iểu xu ất s ắ c là H ải
T riều và Đ ặng T h a i Mưì.
C ó t h ể n ói, trừ m ột v ài c h ỗ trình b à y ch ưu thật 1>ọn, như c á c
p h á n viết v ề b ố i c à n h x ã h ộ i củ a vân h ọ c 1930 - 1 9 4 5 , tập V ăn h ọ c
V iệt N a m xu ất bản lần n ày đư ợc c o i như là m ột tài liệ u c ơ bản m ang
tính k h o a h ọ c , dùỉĩịi c h o sin h viên k h o a N gữ vân c á c trường Đ ụi h ọ c
K h o a h ọ c x ã lìội vù nhún vân ỏ V iệt Num.
N h à xu ất han G iá o d ụ c V iệt N am trân trọn g g iớ i th iệu với c á c sinh
viên, g iá o viên c á c trường đ a i h ọ c , trường p h ổ thônị> và đ ôn g đ ả o bạn
đ ọ c cu ốn V ăn h ọ c V iệt N am (1 9 0 0 — ì 9 4 5 ) ấn h à n h nhún d ịp kỷ niệm
40 năm ngày thành lậ p N h à xu ất bản G iá o d ụ c V iệt N a m .
Hà Nội, tháng 6 năm 1997
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
6
PHẦN THỨ NHẤT
VAN HỌC VIẸT NAM
GIAI ĐOẠN GIAO THÒI
1900
1930
-
Chương I
VẢN HỌC VÀ CUỘC SỐNG
CỦA BUỔI GIAO THÒI Âu - Á
I - CUỘC SỐNG TRÊN ĐẤT Nước THựC DÀN NỬA PHONG KIẾN
DẦU THẾ KỶ XX
1. C h ế độ th ự c dân nửa ph on g kiến
Với cái chết của Phan Đỉnh Phùng (1896), phong trào chống Pháp
dưới lá cờ Cấn vương rầm rộ hàng chục năm ở hẩu khắp các tỉnh đã
chấm dứt. Trước cảnh thôn xóm bị triệt hạ, nhân dân xiêu tán, các văn
thân khởi nghĩa người thỉ bị giết, người thì bị tù đày, người thì trốn
tránh không dám vé, người thì "bốc bản đạo chạy sang Xiêm, sang Lào”,
trước cảnh hoang váng điêu tàn của đất nước ta, quân xâm lược đã có
thể khấp khởi nhìn ra cảnh tượng "thái bình" mà chúng mong ước.
Cả bộ máy vua quan, hào lý từ triều đỉnh, tinh, huyện đến làng xã
biến thành tay sai cho bọn xâm lược. Chính quyền bản xứ đã nằm gọn
trong tay thực dân Pháp.
Danh giáo, cái cột sống của chế độ phong kiến trước đây đã sụp
xuồng. Bộ máy cai trị được tổ chức lại theo lối hiện đại, chặt chẽ hơn,
có quyến lực hơn, chi phối sâu và toàn diện mọi hoạt động, phá dần
cái thế tự trị của làng xã ngày trước.
Để tuyên truyền cho "hòa bình", "chiến thắng", cho "văn minh" của
nước Pháp, ngay từ nãm 1886 Paul Bert đã bày tấn tuồng "Hội đồng
tư vấn", láp cho nước bị xâm lược một mặt nạ dân chủ, lập Hàn lâm
viện Bác Kỳ, quét cho nđ một nước sơn phát triển văn hổa. Đến đẩu
thế kỷ XX cuộc "bỉnh định” đã thành công, chúng tổ chức hội chợ thuộc
địa, xây dựng một số công trình lớn để trang sức cho cảnh "thái bỉnh”.
Nhưng cái mà thực dân để tâm nhất, nóng ruột thực hiện nhất là
khai thác xứ Đông Dương giàu có để bđc lột, vơ vét tài nguyên.
Chính sách kinh tế thực dân của chúng có thể được tóm tắt như
sau : bán hàng hóa, khai thác nguyên liệu và cho vay lãi. Công nghiệp
chỉ được phát triển trong giới hạn không hại đến công nghiệp chính
9
quóc, đổng khung trong phạm vi cung cấp cho chính quốc những nguyên
liệu hay những sản vật mà Pháp thiếu. Cụ thể là :
- Độc chiếm thị trường, mua rẻ nông phẩm (chủ yếu là gạo, tơ tằm)
và bán đắt công nghiệp phẩm cho nhân dân, độc quyển ngoại thương ;
- Độc quyền các ngành kinh doanh quan trọng từ khai mỏ, giao
thông đến làm muối, nấu rượu. Độc quyển ngân hàng đấu tư vào các
ngành lợi cho việc vơ vét tài nguyên, hàng hóa để xuất khẩu ;
- Lợi dụng quyền thống trị về chính trị, thực dân duy trì bộ
quan liêu, cường hào và những luật lệ, chính sách sưu thuế phong
để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tạo ra các vùng sản xuất hàng
khẩu (cao su, cà phê, gạo...), tăng cường bổc lột tô thuế, sưu dịch,
phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ
phục vụ cho các công trình xây dựng, khai thác của chúng.
máy
kiến
xuất
làm
mạt
Kết quả của chính sách đổ là nền kinh tế tự nhiên cổ xưa bị phân
giải, sự lưu thông hàng hóa phát triển, tỷ trọng kinh tế tư bản chủ
nghỉa tăng nhanh, nước ta bị kéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản, nhưng
không được công nghiệp hda mà lại biến thành một thị trường tiêu thụ
và cung cấp nguyên liệu, hàng xuất khẩu cho thương nghiệp Pháp. Lợi
nhuận vào túi tư bản Pháp còn nhân dân ta thỉ bị bẩn cùng hóa, phá
sàn trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn,
các chủ thấu, chủ đổn điên của Pháp. Trong điểu kiện ruộng đất bị
chiếm đoạt tập trung trong tay thực dân Pháp và quan lại tay sai, nhân
công thừa, rẻ mạt và công nghiệp ở thành thị không đủ phát triển để
thu nạp hết, kinh doanh theo lối phong kiến vừa tốn ít vổn, vừa thu
được nhiều lợi, vừa nhàn rỗi, vừa chắc chắn. Phụ thuộc vào một nước
tư bản, nước ta không được giải thoát khỏi sự trì trệ của nển kinh tế
phong kiến. Tuy nước Pháp là một cường quốc tư bản chủ nghĩa nhưng
chủ nghỉa thực dân Pháp không phá hoại kinh tế phong kiến mà ngược
lại nđ duy trì thậm chí là củng cố nén sản xuất đố trên cơ sở phân
phối ruộng đất mới, phân bố sản xuất mới.
Chế độ thực dân nửa phong kiến hỉnh thành, tiếp tục kìm hãm sự
phát triển của đất nước ta. Tuy vậy đối với tình hình trì trệ lâu đời
của một xã hội phương Đông, không phải nò không gây ra những biến
đổi lớn.
Việc mở mang giao thông, buôn bán, phát triển kinh tế hàng hđa
tạo ra một thị trường thống nhất từ Bắc chf Nam, khách quan tạo
thêm cơ sở để củng cố sự thống nhất của dân tộc đã hình thành từ
lâu nhưng chưa thật vững chắc. Đi ngược xu hướng đđ, thực dân Pháp
lại ra sức thực hành chính sách chia rẽ : đặt ra chế độ chính trị, ban
hành luật pháp khác nhau giữa ba kỳ.
Nổ phá chính sách bế quan tỏa cảng của triéu đình nhà Nguyễn,
làm cho Việt Nam tiếp xúc với thế giới, trước hết là Đông Á và châu
10
Au, đưa nước ta hòa vào cuộc sống chung hiện đại của thế giới. Ngược
lại xu hướng đó, thực dân Pháp chăng một hàng rào quan thuế làm
cho Việt Nam phụ thuộc vào Pháp, thành cái đuôi của tư bản Pháp.
Sự phát triển buôn bán và giao thông như thế làm mọc lên nhiều
thành thị tư bản chủ nghỉa. Tuy nhiên chính sách kìm hãm công nghiệp,
duy trì kinh tế phong kiến làm cho thành thị chi thành những trung tâm
thương nghiệp và tiêu thụ, không có tác dụng tích cực đẩy mạnh kinh tế
nước ta theo hướng tư sản hđa.
Sự xuất hiện thị trường thống nhất, sự xuất hiện các thành thị đông
đúc đóng vai trò trung tâm kinh tế, sự tiếp xúc với phương Tầy là
những nhân tố rất mới. Tuy bị chính sách phản động của thực dân kìm
hãm, những nhân tố đó, khách quan ngoài ý muốn của thực dân, vẫn
gây tác dụng tích cực đến sự phát triển của nước ta.
2. S ự biến đ ộng tro n g k ế t cấu x á hội
Nhừng điều kiện kinh tế chính trị trên đây gây ra một sự biến động
trong kết cấu xã hội Việt Nam.
Xã hội Việt Nam, trước khi Pháp sang xâm lược là một xã hội phong
kiến phương Đông. Trong xã hội đó con người sống gắn bó với họ hàng,
làng xóm. Họ hàng nội ngoại không nhừng gắn bó với nhau bằng tình
máu mủ mà bằng cả một tổ chức có thứ bậc chặt chẽ, bằng cả một
đạo lý có tính chất tôn giáo. Họ hấu như thành đơn vị của làng xã.
Làntf xã có ruộng đất riêng, thành hoàng riêng, phong tục luật lệ riêng.
Người trong xóm, trong làng đi lại với nhau "tắt lửa tối đèn", ma chay
cưới hỏi dựa vào nhau tạo thành mộtthứ tình làng nghĩa xđm cố kết
nhau lại. Làng xã có tính chất tự trị, là đơn vị vể kinh tế và hành
chính của chính quyén trung ương. Chính quyền trung ương tập trung
chuyên chế, dựa vào bộ máy quan liêu và quân sự để duy trì sự thống
trị, bát thán dân theo đơn vị làng xẫ nộp thuế và đi phu, đi lính.
Chính quyền thuộc vể một dòng họ. Triéu đình quan lại là thần
thuộc, tôi tớ của dòng họ cầm quyển. Vua, quý tộc và quan lại chia
nhau hưởng số tô thuế và các quyền lợi chính trị, tinh thấn khác
được
phân phối theo thứ bậc thân, sơ, trên, dưới.
Cả hệ thống đổ - vể mặt nhà nước là chính quyền, vé mặt xã hội
là đẳng cấp, về mặt máu mủ là họ hàng - thống trị "tứ dân", bốn tầng
lớp nhân dân : sĩ, nông, công, thương.
Nỏng, công, thương mà quan trọng nhất vể số lượng củng như vể
vai trò kinh tế là nông dân, cách này hay cách khác đều bị khinh rẻ,
áp bức, bóc lột. Đố là những từng lớp bị trị. Tứ dân do sĩ đứng đầu.
Sỉ - nhà nho - co' thể coi như một đảng cấp đặc biệt. Họ tự nhận, và
được xã hội thừa nhận, là kẻ "cầm chích đạo", truyền bá "giáo hốa" của
11
triều đình cho nhân dân. Trong một nước tôn giáo không có giáo hội,
không có nhà thờ, không có từng lớp giáo sĩ có đặc quyẽn (Phật giáo
và Đạo giáo chỉ cđ các chùa quán, có tính chất địa phương, có ảnh
hưởng từng vùng và không gán một cách hợp pháp với chính quyền),
thì nhà nho, trong đời sống tinh thần của nhân dân, eđ trách nhiệm
"chăn dắt" như người giáo sỉ. Nhà nho đỗ đạt thì làm quan, được hưởng
những đặc quyển về kinh tế và tinh thấn, nếu khống làm quan cũng
trở thành thân hào. Sĩ là từng lớp không cd những đặc quyển nhưng
không thuộc nhân dân lao động. Địa chủ và phú nông là những từng
lớp bóc lột và trong điễu kiện ruộng đất ít, chúng bđc lột bằng nhiễu
cách rất nặng, nhưng, nếu không phải là có học, thuộc gia đình dòng
dõi, có quyền thế của thân hào mà chỉ là "trọc phúMthì không những
không có đặc quyền gì, mà nhiều khi còn trở thành đối tượng bóp nặn
làm tiền của thân hào và quan lại. Sự đối lập chủ yếu về xã hội là sự
đối lập về quyển thế, địa vị giữa vua, quan với dân. Ruộng đất vé danh
nghĩa là của vua, về thực tế một số khá lớn là ruộng công. Quyén thế,
địa vị là điều kiện để được phân phói hưởng thụ rộng rãi quyền lợi
ruộng đất. Đđ là công cụ chủ yếu để áp bức, bóc lột.
Trong xã hội đó cđ sự đối lập giữa nông thôn và đô thị nhưng không
phải là sự đói lập giống như trong xã hội tư sản. Kháp nước là nông
thôn, là những làng bản ẩn nấp trong lũy tre xanh có cổng làng đóng
kín, là vô số những đám ruộng đất manh mún, là những đình chùa đén
miếu, thẩn hộ vệ dân làng. Đô thị là nơi thủ phủ về chính trị, văn
hóa, nơi tập trung kho lẫm, quân đội. Ở đô thị có cung thất, dinh thự,
phủ đệ của quý tộc. Đô thị cũng là nơi tập trung những thợ thủ công
khéo tay, những con buôn, sống thành phố phường. Nhưng đây chỉ là
những chợ lớn trao đổi hàng hòa có tính chất địa phương, những mặt
hàng tinh xảo được sản xuất chi để phục vụ cho một nhóm nhỏ quý
tộc, quan lại. Sinh hoạt đô thị có khác nông thôn, nhưng nhàn vạt
trung tâm trong cuộc sống ở đó vẫn là các nhà quyển quý, các công
tử, tiểu thư cành vàng lá ngọc, xe kiệu võng lọng cao đạo, oai nghiêm,
cậy quyền cậy thế, đi lại có kẻ bẩu, người hạ rậm rịch, chứ không phải
là người tư sản hợm hĩnh cậy của.
N hữ ng con buôn chạy việc cung cấp thức ãn vật dùng cho trại lín h,
chạy việc m ua h àn g bán h à n g , những thông ngôn ký lục giúp việc g ia o
th iệp , g iá y tờ, những m e Tày, những ông thầu khoán , những người học
trò các trường thông ngôn, hậu bổ là lớp thị dân đẩu tiên của các thành
phố nhượng địa. Kinh tế hàng hóa kích thích sự phát triển của công
thương nghiệp, làm cho thành thị phát triển, làm xuất hiện nhiéu nhu
cầu mới, nhiều nghể mới. Thành thị thu hút ngày càng nhiều những
người dân chạy loạn, những người nông dân phá sản và cả những người
khác bỏ nông thôn ra thành thị mong kiếm ăn dễ dàng hơn. Lớp thị
12
dân trong các thành phố nhượng địa - ngoài quyển hạn của triều đinh
- là những lớp dân mới ngoài "tứ dân", có quan hệ với chính quyén
khác trước và quan hệ với nhau cũng khác trước. Họ đã thành những
cá nhân trước pháp luật bảo hộ, ít nhiều có quyền tự do của đời sống
thành thị tư sàn. Đối với lớp dân mới đó họ hàng, làng xã, đảng cấp
không còn nhiếu ý nghĩa nữa. Chính sách kinh tế của thực dân tuy cò
kích thích, nhưng chủ yếu lại là kìm hãm công nghiệp phát triển. G iai
cáp tư sán từ các từng lớp thị dân p h á t triển dần lên khôn g thàn h
những nhà công thương dàn tộc.
Sự xác xơ của làng xóm, sự phá sản của nông nghiệp, sự xuất hiện
các thành thị đổi chiếu hướng lưu tán của người nông dân, xô đẩy họ
ùn ra thành thị. Nhưng ở thành thị, đông đúc, người khôn của khó, có
nhiều nghề cũng không dễ kiếm ãn. Những người nông dân, thợ thủ
công bị phá sàn, đáng lẽ làm đội quân hậu bị cho công nghiệp thì ngoài
một sô nhỏ trở thành công nhân nhà máy, hẩm mỏ, hoặc đi phu làm
đường, làm đốn điến, phần lớn còn lại biến thành những anh bổi, anh
xe, những vú em, con sen, những người buôn thúng bán mẹt và không
ít trở thành gái điếm, lưu manh. Một tầng lớp tiểu tư sản dân nghèo
đông đảo. phình to mãi ra, sống một cách bấp bênh ở thành thị.
Đó là nét biến động cơ bàn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hai kiểu kết cấu xã hội đđ cùng tổn tại, cùng được cả thực dân
và phong kiến chấp nhận, được thực dân bảo vệ vỉ quyển lợi của
chúng. Nhưng những giai cấp, đẳng cấp đó không ngừng xâm nhập
lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, biến động, tùy thuộc vào những chính
sách cụ thể của thực dân và theo hướng tư sản hóa của cả đất nước
nói chung.
Muốn nám chặt thuộc địa, thực dân cần nắm chắc chính quyển các
cấp và kiểm soát chặt chẽ nhân dân. Chúng cấn có một bộ máy cai trị
trung thành và đác lực, cấn tạo được một cơ sở xã hội thích hợp với
chế độ của chúng. Tuyệt đại đa số nông dân ở nông thôn xưa nay vẫn
chịu ảnh hưởng tinh thần của thân sĩ, nho sĩ, đã từng là lực lượng
chống đối lại sự xâm lược của thực dân Pháp một cách ngoan cường
trong nhiếu năm. Không những thực dân đã đàn áp, chém giết để khuất
phục, chiếm đoạt ; tăng cường bđc lột để giảm nhẹ chi phí cho chính
quốc, tăng thu nhập cho ngân sách thuộc địa ; đã bẩn cùng hốa, làm
phá ổản nồng dân, mà còn cần phải ly khai nông dân khỏi ảnh hưởng
của thân sỉ, nho sĩ. Thực dân Pháp vừa mua chuộc vừa hạ uy thế, vừa
uy hiếp khuất phục tầng lớp thân sĩ, nho sĩ là tấng lớp có cội rễ và
cđ tín nhiệm lớn ở nông thôn, có uy quyễn cả với bọn hương lý, thân
sỉ, nho sĩ là lực lượng hậu bị của bộ máy quan lại gán bó với Nam
triểu. Phắn lớn họ vỉ thế đã mang tâm lý thất bại chủ nghĩa, thất vọng
đầu hàng và mất tín nhiệm. Để thay thế họ trong bộ máy nhà nước,
13
thực dân m ỏ các trường hậu bổ, trường P háp - Việt, trường cao dằn g,
d à o tạo những người Tầy học, cải cách th ề lệ thi hương, thi hội, tạo
điều kiện cho bọn tay sai, cho những người có Tầy học chiếm lấy các
danh vị ông nghè, ông cử. Những ông thông, ông phán, nhừng người
đậu đạt Tầy học, những ông nghè, ông cử "mới" được triéu đình phong
tặng, hưởng những ưu đãi vể vật chất và tinh thần mà các danh vị ấy
cho phép, thay thế dẩn vị trí của văn thân xuất thân từ Nho học. Chính
sách của thực dân tác động đến lớp quý tộc, thân hào. Muốn giữ chặt lấy
quyén lợi, địa vị, bọn chúng ra làm việc cho Pháp, cho con học trường
Pháp, gửi con du học tận bên Pháp, bỏ tién mua cổ phán, mở cửa hiệu
buôn bán và dẩn dần cũng có cả hai chân ở nông thôn và thành thị.
Nếu tấng lớp thượng lưu trước đây trong xã hội là những cụ Thượng,
quan Bố, ông Nghè, ông Thám "hèo hoa gươm bạc, tán tía lọng xanh",
thì tầng lớp thượng lưu trong xã hội thuộc địa là những quan Tham,
những cô Tư Hổng, những ông ký Bưởi, rồi đến ông Chù bút, nhà "học
giả kính tráng" Phạm Quỳnh ; và ở nông thôn thấy Chánh, thấy Lý ít
lâu trước đó còn là người chạy việc, khúm núm, vâng dạ nghe theo các
thân sĩ nay bỗng trở thành người có quyền hành thực sự, được quan
Sứ, quan Đốn bênh vực, giúp cho tậu ruộng, chiếm vườn, xây dựng dinh
cơ, chảng bao lâu nữa cũng sẽ thành ông Nghị cầm ba toong, đội mũ
dạ, mặc Âu phục và... đi ô tô hòm. Trong xã hội đđ người tư sản biết
quý mảnh sắc phấn hoàng của triêu đỉnh và cả cái thủ lợn ở chốn đình
trung, nhà quý tộc cũng biết kính trọng cái túi căng phồng mà tìm
cách ve vãn. Cả nông thôn và thành thị đi đến nhất thể hớa, mà nhất
thể hóa theo hướng tư sản.
Xã hội Việt Nam chuyển mình một cách đau đớn, nhục nhã sang
hướng tư sản, một hướng tư sản kém lành mạnh nhất, què quặt nhất,
để lại những hậu quả tai hại nhất, nhưng điểu đó cũng lôi kéo các mặt
khác phát triển : thay đổi bộ mặt thành thị, biến nd thành những trung
tâm kinh tế, dần dán quy tụ nông thôn quanh thành thị, thay đổi kết
cấu xã hội, làm mất thế lực nhiều lực lượng bảo thủ trì trệ, tạo điéu
kiện cho cái mới - sau khi đã thay da đổi thịt, biến hóa - có điêu kiện
từ thành thị tỏa về nông thôn, chi phối sự phát triển theo kiểu các xã
hội hiện đại.
3. C u ộc sống, tâm tr ạ n g dổi thay. Nhứng vấn dể củ a x á hội
Những sự đổi thay như thế vể chính trị kinh tế xã hội càng ngày
càng củng có vị trí của thực dân Pháp, khảng định, binh thường hđa
những cái xấu xa, những cái trái mất của quân cướp nước, của phương
Tây, của xã hội tư sản mà thực dân mang vào cuộc sống Việt Nam.
Người ta phải sống với nó, bát buộc phải thích ứng với nđ và không
phải không quen dần.
14
Tú Xương từng chế giễu :
"K hăn là bác nọ to tày rê\
Vảy linh cô k ia quét sạch hè.
Công dức tu hành, sư có lọng,
Xu hào rủng rin h, m án ngòi xe"
Cái lô lãng, hợm của, trái tôn ti trật tựấy chướng tai gai mắt, gây
ra bất binh, phản ứng cho cả xã hội vốn tôn trọng tục lệ, tôn trọng lể
giáo, phân vị trên dưới. Nhưng vé sau, khi quyển của "kẻ có của” được
thừa nhận, sự hưởng thụ thú vui vật chất được coi là quyén lợi tự
nhiên, khi lễ giáo, tục lệ lùi bước, thì cái ngon, cái đẹp, cái tiện lợi,
cái hào nhoáng trở thành có sức hấp dẫn.
Nhửng người luống tuổi đua nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục
con cái đi học, kiếm lấy ít vốn liếng chừ lầ y và hãnh diện vé cái chức
thông phán. Cà những cái còn xa lạ hơn sâm banh, sữa bò, kiếm được
bàng những cách nhục nhã hơn, tội lỗi hơn, đã lại gây ra thèm muốn,
ước ao. Cái quan trọng không phải chỉ là ở chỗ thay đổi sự thích thú,
ở chỗ bình thường hóa việc ăn bơ, sữa, mặc ngắn gọn, bắt tay để chào
hỏi nhau, mà còn là đỗng thời với sự thay đổi trong đời thường đó, là
sự thay đổi của cả cuộc sống tinh thần, cả tâm lý, cách suy nghĩ. Trong
xâ hội xuất hiện những vấn để mới và cách nhỉn, cách giải quyết các
vấn đề đố theo cách khác.
ở thành thị mới : "người đủ hạng người, trò đủ trò, đua nhau thanh
lịch cùng lám lối" ; những của ngon vật lạ hàng ngày tràn về, những
nhà hát lộng lẫy, những quán trà lịch sự lôi cuốn, báo chí không ngớt
đăng giá cả, tin tức kinh doanh. Người ta cẩn hưởng thụ, cấn tiển, cần
tính toán, chạy vạy. Cuộc sống sôi động, chen chúc, phức tạp đòi hỏi
người ta phải nhanh chóng, gọn ghẽ, luôn luôn động.
Hàng hóa châu Âu từ thành thị tràn vể nồng thốn. Chiếc đèn Hoa
Kỳ, rồi chiếc đèn măng sông chói sáng bên cạnh cọc đèn dầu lạc leo lết.
Bàn tiện tủ chè chạm cành nho con sóc thay thế dần những phản gụ,
sập lim. Bộ xalông, cái đống hồ quả lắc chiếm chỗ trong gian giữa nhà
trên, được gọi thành "phòng khách” của ông bá hộ ở nông thôn. Những
bộ đổ mới lạ ấy dón chỗ nhừng hương án bàn thờ, câu đối, hoành phi,
đuổi thẳng cái án thư, bộ tràng kỷ xuống nhà xép, nhà ngang. Cái mới
tập trung ở thành thị nhưng không chỉ đống khung ở thành thị, nó đổi
thay cả cuộc sống ở nông thôn, căn cứ địa của nhà nho và người nông
dân, những người vốn trung thành với cái cổ truyền nhất.
Không phải người ta chấp nhận dễ dàng sự thay thế
và người nông dân, dẩu càng ngày càng thất thế, càng
không ngừng phàn kháng. Họ có nhiều cách chống lại.
những người Cấn vương sống sốt vẫn ẩn nấp trong nhân
mật như những kẻ du hiệp, mong thổi lại đốm lửa trong
đó. Nhà nho
bi quan, vẫn
Ở nhiều nơi,
dân, đi vể bí
đống tro tàn.
15
ở Yên Thế, Hoàng Hoa Thám vẫn xây dựng đốn lủy. ỏ Quàng Nam,
Nguyễn Hàm vẫn giữ một cái trại, ngấm thu nạp hào kiệt. Người thi
đỗ cổ từ không chịu ra làm quan. Người làm quan từ chức. Dáu vua
Hàm Nghi đã bị đày, Đổng Khánh rối Thành Thái đã lên ngôi từ lâu,
không ít người vẫn dùng niên hiệu Hàm Nghi để tính năm tháng, Người
ta bài bác bộ Âu phục "cộc lốc”, đôi giày Tầy "lộp cộp" lấc láo, chữ Tầy
khó theo, không cđ nghĩa lý, không trang nhã, người đi học phải "liếm
đít bát cho mỏng lưỡi đi mới đọc được", những nhà gia giáo cấm con
cháu mặc đổ Tây, nòi tiếng Tầy trước mặt cha anh.
Nhưng cái mới, cái đẹp, cái tiện lợi vẫn có sức mạnh của nó. Ưu
thế của cái dân tộc, của tình cảm thiêng liêng với cha ông, với đạo
nghỉa thánh hién cũng không lấn át được. Dấn dấn cái mới chinh phục
được cả những người khđ tính, nệ cổ. Không ai có thể đuổi nó hay tính
đến chuyện đuổi nđ ra khỏi cuộc sống mà ngược lại chỉ tính chuyện
sửa đổi mình cho thích hợp trong cuộc sống với những cái mới đó.
Những người nông dân bị phá sản chạy ra thành phố, các nhà nho
cũng đi ra thành phố. Dấn dần họ thành thị hóa, tiểu tư sản hóa. Cái
ranh giới của địa vị, gia thế bị xóa bớt. Một ông nghè có thể ra đứng
chủ trì một hội buôn. Một ông quan ctí thể ra ngồi bốc thuốc ở hiệu,
một cậu ấm có thể ra viết tuổng, đạo diễn tuổng, mà không cảm thấy
mất thể diện. Dắn dấn chính họ lại tập hãnh diện với những mánh
khóe trong nghé buôn bán làm ăn. Họ quan niệm nghể buôn, việc làm
giàu theo triết lý cạnh tranh sinh tồn, chứ không phải vối thái độ khinh
bỉ nghé "trục mạt" như lời thánh hiềnngày trước. Lớp nhà nho trẻ mới
lớn lên,
sống cuộc sống mới đó, cđ phương
tiện "vừa ra Bác đó lại vào
Nam", dán dấn mở rộng tầm mắt, thấy ra nhiểu cái mới lạ không phải
chi của nước khác mà cả của đất nước mình ; họ thấy được cái chật
hẹp, những chỗ yếu của chính mình. Trong số đổ xuất hiện những người
xồng xáo - có chí "hồ hải" - trái với bản tính Nho gia, như Phan Bội
Châu, Đặng Thái Thân... Trước khi nhừng người tư sản dân tộc cđ ý
thức giành lấy quyén làm chủ cuộc sống đáng lẽ thuộc vể họ, thì những
nhà nho này, nhờ sự tín nhiệm xã hội, nhờ khả năng về vản hóa đã
đổng hộ họ vai trò nhà tư tưởng của giai cấp mới. Theo quan niệm
của minh và với phương tiện mình cđ, họ nhìn và giải quyết những vấn
đề mới của thời đại.
Thực tế lớn nhất của cuộc sống là đất nước đã mất vào tay quân
giặc, làm nghẹt thở cà dân tộc. Một thực tế nữa cũng lớn - nhất là
nếu ở thành thị thỉ càng thấy rõ là đất nước đang đi vào con đường
tu sản hđa. Cho nên thực tế đặt ra vấn để chống Pháp, cứu nước, giành
độc lập,mà cũng đặt ra vấn đễ duy
tân, đi theo Âu - Mỹ, theo kịp
các nước văn minh. Vấn đề cứu nước, vấn đê duy tân đều được đặt ra
từ thế kỷ trước, nhưng đến nay phải nhìn lại trong hoàn cảnh mới.
Không những kinh nghiệm thất bại vừa qua cho phép rút ra nhiéu bài
16
học, mà những điều tai nghe mát thấy ở thời đại cũng cung cấp cho
người ta nhiều điều kiện để thấy vấn đễ thiết thân hơn. Phải có dân
đứng lên mới cứu được nước. Phải duy tân mới giành độc lập được.
Nhưng với vốn tri thức và cách suy nghĩ của nhà nho lúc đđ chưa ai
có điều kiện để hiểu cái mới thật sâu xa mà mỗi người nhìn một cách.
Theo cái mới là theo con đường của kẻ thù. Thực dân Pháp chảng đà
khoe khoang những việc làm của chúng nhầm mục đích khai hóa, truyền
bá vãn minh, ban ơn cho thuộc địa đó sao ? Quá nửa những việc chúng
làm là xấu xa, tàn ác, và háu hết là trái với phong tục tập quán của
dân tộc. Không phải duy tân và yêu nước dễ kết hợp với nhau. Không
dễ dứt bỏ cái của cha ông, của dân tộc, của thánh hién, để theo cái
mới. Có người ghét Pháp mà cự tuyệt mọi cái mới. Có người cho duy
tân là tất cả, lầm lẫn những việc Pháp làm củng là duy tân. Duy tân
là cả một cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa dân tộc và phàn
dân tộc. ơ giữa hai thái độ cực đoan đó là những quan niệm 111Ơ hỗ
yêu nước và duy tân ở những phạm vi khác nhau, ở mức độ khác nhau.
Kết hợp yêu nước và duy tân trong thực tế không phải là chuyện dễ
dàng và xác định cái mới nào mới là cái mới cán cho dân tộc cũng
không phải một lúc đã làm ngay được.
Nhưng cái mới vẫn cứ thâm nhập, bất chấp mọi sự chọn lựa. Nó
chi phối sự suy nghĩ, tác động đến tâm lý xã hội.
Trong cuộc đổi thay như vậy - một cuộc đổi thay mà bất cứ một
cuộc bể dâu nào trước đây cũng không thể so sánh - xuất hiện nhiều
con người khác trước, nhiều quan hệ khác trước, nhiểu chuyện khác
trước. Cuộc sống tràn ra ngoài khuôn khổ luân thường và nhân tình
thế thái, trở thành một cuộc sống xã hội cụ thể, đa dạng và sôi động.
Sự êm ấm của lòng từ hiếu, cung thuận trong gia đình không giữ được
người con dưới gối cha mẹ ; tình làng xóm quê hương với cái rộn ràng
của hội hè, đình đám không giữ chân được chàng trai sau lũy tre xanh.
Bước ra khỏi khuôn khổ chật hẹp, yên lặng, họ hàng, làng mạc, người
ta phải tỉnh táo, tính toán, vật lộn trong tình thế "khôn sống, mống
chết" của một quan hệ lạnh lùng "tiền trao cháo múc". Người ta phải
tự ý thức, phải sống, suy nghỉ, mơ ước cho riêng mình trong những
điéu kiện của một xã hội phức tạp, rộng lớn.
Chính sự đổi thay, sự đấu tranh ấy tạo ra những con người khác
trước, đặt ra những vấn đề thành đé tài văn học khác trước, những
nhân vật văn học, những suy nghĩ, cảm xúc mà ta sẽ gặp trong văn
học thời kỳ này. Những bài thơ ngâm chậm rãi từng câu bên chiếu
rượu, những câu hò hát khoan thai của những đêm trăng khố gây hào
hứng, quyến
người cụ thể
v à của một X
ì .1
17
II - TÌNH HÌNH CHUNG CỦA s ự PHÁT TRlỂN
văn học
Xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành qua một quá trình dáu
tranh giữa ta và địch, tranh chấp giữa cái mới và cái củ. Tương ứng
với quá trinh đó là một cuộc cạnh tranh Âu - Á trong văn học. Thực
dân Pháp du nhập văn hóa Pháp để đẩy lùi, chiếm chỗ, thay thế văn
hóa cổ truyền của ta, mà ta phản kháng lại sự xâm nhập, nô dịch đó
để bảo vệ văn hóa của dân tộc, đổng thời củng bát chước, chọn lọc,
tiếp thu cái mới, chịu ảnh hưởng của cái thống trị, dần dán hướng theo
nền vãn hóa mới một cách không cưỡng lại được.
Kết thúc giai đoạn đấu tranh quân sự và chính trị, một bên chi còn
một vũ khí là văn học và một bên phải chuyển sang dùng vũ khí văn
học để tiếp tục chinh phục. Hai bên đếu sử dụng văn học và đều muốn
giành giật lấy vũ khí đó. Những nhân tố đối lập nhau cùng tác động,
ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghỉ của mọi người trong cuộc sống, ảnh
hưởng đến người sáng tác, quá trình sáng tác. Bên cạnh những nhà
nho vẫn tiếp tục làm thơ, làm phú, người nông dân vẫn tiếp tục ca,
vè, hò, hát, nền văn học củ vẫn tổn tại kháp nước, là sự xuất hiện một
lớp nhà vãn kiểu mới, một nền văn học có tính chất khác trước, tạo
thành một cảnh tượng giao thời giữa hai nén vãn học.
Cả giai đoạn 1900 - 1930 có nhiều sự kiện văn học, nhiéu tác già,
tác phẩm đánh dấu từng bước của quá trỉnh đấu tranh, phát triển,
tranh chấp giữa hai nén vần học củ và mới trong giai đoạn có tính
chất giao thời đó.
1. M ột giai đ o ạ n v ăn h ọc có tín h c h ấ t giao thời
Trước thế kỷ XX trong lịch sử văn học Việt Nam cò hai dòng rõ
rệt : bác học và bình dân. Mỗi dòng đéu cổ người sáng tác, công chúng,
đề tài, đời sống, phương thức truyền bá riêng, đều được sáng tác theo
những quan niệm văn học, những lý tưởng thẩm mỹ riêng, và theo
những thể loại nhất định.
Vản chương bác học là vần chương của nhà nho, từng lớp trí thức
tự coi mình là thần tử của triéu đình, kẻ hướng đạo nhân dân, kẻ bảo
vệ đạo lý thánh hiển. Nhà nho viết vản không phải để biểu hiện cái
đẹp, không phải để mua vui. Văn gán liên với "đạo", bảo vệ đạo lý
cương thường. Có thể đò là thứ vãn chương ca tụng vua hiền tôi giòi,
giảng giải đạo lý nhàm treo gương, thuyết phục, răn dạy. Có thể đó là
thứ văn chương mượn cảnh nối tinh, biểu đạt tâm, chí, bộc bạch tấm
lòng trung trinh, tiết tháo. Trong nhà nho cũng có nhiểu người chán
cái gò bố, khát khe, chật hẹp của khuôn khổ lễ giáo, viết một thứ văn
18
chương ca tụng thiên nhiên, ca tụng sự phóng khoáng, sự thanh cao
của người ẩn sĩ, ca tụng cái hào hoa phong nhã của người tài tử. Lý
tưởng thẩm mỹ có thể khác nhau, nội dung tư tưởng có thể khá khác
nhau, nhưng văn chương ván là thơ, vẫn là một thứ văn xuôi có vẩn,
có điệu, mỗi thể loại đễu phải tuân theo những luật lệ nghệ thuật chặt
chẽ, hạn chế sự đa dạng của sáng tạo cá nhân. Đời sống của nó là ở
triều đình giữa vua tôi và đổng liêu, trong trường học, thi xă giữa thầy
trò, bè bạn, trong gia đình giữa cha con, anh em. Văn chương viết ra
là để cho mình, viết vào văn tập, thi tập, lưu lại cho con cháu, để "cất
vào danh sơn". Nhừng áng vãn hay vẫn được phổ biến, truyền tụng,
nhưng đd là sự trao đổi bàng cách đọc cho nghe, chép cho xem giữa
những người giống mình. Người viết không hề nghĩ đến chuyện công
bố tác phẩm, không hé quan tâm đến công chúng. Viết văn, người ta
chú ý trước hết không phải là thực tế khách quan, mà là đạo lý cương
thường. Cái đẹp, cái hay của nó trước hết là nghĩa lý. Hình thức của
nó chuộng cân đối, hài hòa, trang nghiêm. Văn chương phải được viết
cd kỹ xào, gọt rũa, hoa mỹ, thay cho từ ngữ thông thường là điển tích,
nhưng không phải vi thế mà người ta chuộng sự cẩu kỳ, khó hiểu.
Người ta vẫn quý sự bỉnh dị, tự nhiên, nhưng là thứ bình dị, tự nhiên
trang nhã. Văn chương trang nhã, tránh cái thố cái tục vừa không quan
tâm biểu đạt thật đúng thực tế, vừa không coi trọng cuộc sống của
nhân dân mà họ cho là tầm thường, thấp kém. Nhà nho viết văn không
để cho nông dân đọc, mà đọc văn cùng không nhằm cho nông dân nghe.
Văn học bình dân là văn chương của nhản dân lao động. Đó là lời
ca tiếng hát bộc lộ những xúc cảm trong cuộc sống thôn dã, trong
khung cảnh cùng nhau lao động sàn xuất, trong cảnh hội hè đinh đám
tụ tập đông người ; kể những chuyện trong xóm, trong làng làm họ
xúc động, những chuyện ngang trái mà họ muốn phê phán. Khi họ hát
hay kể vè, họ không coi đđ là văn chương, nghệ thuật, nhưng vãn
chương bình dân vẫn có cái đẹp tự nhiên, giản dị như tâm hổn người
sáng tác ra nò, như khung cảnh thiên nhiên bao quanh họ. Người bình
dân hò hát, làm vè cũng không nhàm vào một công chúng nào. Cái đẹp
chất phác của nó cũng xa lạ đối với nhà nho.
Nhà nho coi thường, ít quan tâm đến bài vè, câu hát của nhân dân
và nhân dân cũng giữ thái độ "kính nhi viễn chi" đối với văn chương
bác học cao đạo, xa lạ. Hai thứ vản chương đò căn bàn đéu là trữ tỉnh,
ra đời trong cùng một khung cảnh, một thời đại. Nhưng là của hai loại
người sáng tác khá xa nhau. Tuy vậy giữa vần chương bác học và văn
chương bình dân cũng ctí chỗ gặp nhau. Đó là trường hợp những nhà
nho có tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa quan tâm đến thực tế cuộc sống,
đến con người, viết những truyện Nôm, tỏ sự đổng tỉnh với những kẻ
19
chịu cảnh bất công, áp bức, gặp cảnh ngộ ngang trái, chịu số phận hẩm
hiu. Suy nghĩ, cảm xúc của họ vé cuộc đời không phải hoàn toàn giống
người nông dân, nhưng người nông dân cũng thích thú tìm được trong
câu chuyện, trong lời thơ của truyện Nôm cái gi đó là đồng điệu mà
ca dao, hò vè không nói lên được. Khi dùng những thể loại dân tộc,
ngôn ngữ dân tộc để viết truyện, các nhà nho tự nhiên phải đi sâu vào
tiếng nói, tâm tình của nông dân và khi truyền miệng ngâm đọc loại
truyện đó người nông dân cũng chia sẻ phẩn đồng tình, đồng cành,
phẩn con người nhất trong xúc cảm của nho sĩ. Thứ văn chương ở giữa
văn chương bác học và văn chương bình dân đđ làm dấu nối giữa hai
loại người, cđ tác dụng to lớn đại chúng hòa văn chương bác học, nghệ
thuật hóa văn chương bình dân, là những cái mốc quan trọng trên bước
đường phát triển văn học dân tộc.
Việc gặp nhau, học nhau như thế vẫn không xổa bỏ được sự cách
biệt giữa văn chương bác học và văn chương bình dân. Kinh tế và xã
hội một nước nông nghiệp không cđ khả năng khắc phục tính chất phân
tán của nó. Vì vậy nó vẫn giừ nhà nho và nông dân, hai dòng văn học
nói trên - những sản vật của kinh tế nông nghiệp của xã hội phong
kiến - trong tình trạng xa cách, riêng rẽ, không đi đến nhất thể hóa.
Tình trạng đó tổn tại lâu dài cùng với sự trì trệ của xã hội phong kiến.
*
*
*
Sự đổi thay bắt đấu với việc đổi thay vị trí của cung đỉnh và nông
thồn so với thành thị tư bản chủ nghĩa, của nhà nho và người nông dân
- những nhân vật nông thôn - so với người thị dân.
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, cung đình không còn là trung
tâm của cả nước. Quan hệ vua tôi, đổng liêu, trật tự tôn nghiêm của
triều đình bị xáo tung bởi một quan hệ mới : giữa tất cả những cái đó
với chế độ thực dân.
"Chiếc lương Tầy” hậu hĩ đang lôi cuốn đám thanh, thiếu niên đến
cửa các trường Pháp - Việt. Các trường chữ nho xưa kia tấp nập đến
cả nơi thôn cùng xóm vắng, thì nay hiện ra quang cảnh tàn tạ của
buổi chợ chiểu. Trong cảnh loạn ly khồng ai còn nghĩ đến chuyện lập
thi xã. Bạn bè thân thích cũng ngại gặp nhau. Quan hệ thầy trò, bè
bạn không còn chặt chẽ như trước. Nhà nho, người đại biểu tinh thần
của xã hội trước đây, trải qua một sự đảo lộn về số phận. Văn học bác
học, chung số phận với người sinh ra nó, mất cả sinh khí và đất sống,
lặng lẽ tàn lụi.
ở thành thị, càng ngày càng đông đảo những con người mới, sống
hoàn toàn khác trước, có những nhu cáu văn học hoàn toàn khác trước,
ơ thành phố không cđ những buổi hò hát dưới trăng, vả lại thứ văn
20
nghệ thôn dã ấy cũng không thỏa mãn được thị hiếu thị dân. Lớp công
chúng mới ra đời đó đòi hỏi một nén vãn học thị dân.
Trong truyén thống văn học dân tộc chưa có nển văn học thị dân
và thưởng thức một thứ văn học thị dân như vậy củng không phải là
việc dễ dàng, tự nhiên đối với mọi người, bàng con đường này hay con
đường khác, mới từ nông thôn ra thành phố. Vai trò môi giới lúc này
rất quan trọng. Trong nhà trường, người học sinh từ học tiếng Pháp
đến học văn học Pháp. Những giờ phân tích giảng dạy văn học trong
trường có tác dụng cải tạo, giáo dục quan điểm thẩm mỹ làm cho người
học hiểu, thích một thứ văn học rất khác với văn học truyền thống.
Những truyện dịch từ tiếng Pháp, từ tiếng Trung Quốc đảng dấn trên
báo chí, hay in thành sách mỏng là món ăn tinh thần đẩu tiên của lớp
công chúng thị dân mới mẻ ấy.
Khổng phải văn học thị dân đã có thể lấn át ngay vãn học nông
thôn. Nhà nho vẫn tự hào về thơ phú, chữ nghĩa, đạo lý thánh hiền,
vẫn làm thơ phú. Nhiều vị khoa bảng có tiếng tăm, quan lại cao cấp
được thực hiện khuyến khích tổ chức những buổi xướng họa, thi thơ
lớn. Nam triều vẫn tồn tại, vẫn có những ông quan ngổi viết chiếu,
biểu. Người ta vẫn nhai lại thứ văn chương giáo huấn vé vua thánh
tôi hién, về đạo lý cương thường... nhưng không còn ai thích thú văn
chương dối trá, trơ trẽn, viết chỉ để tiêu sấu và kiếm cơm ấy. Những
nhà nho yêu nước, trong sạch vẫn dùng văn thơ để nói khí tiết bất
khuất, để vạch mặt bọn phản bội, ca tụng những người anh hùng hy
sinh. Người nông dân vốn không cố quan hệ gì với những truyện đăng
trên báo chí, những nhà văn giảng dạy trong nhà trường, vẫn bộc bạch
nỗi lòng của mình trong những bài vè, câu hát. Phạm vi tuy có rút lại,
tác động tuy có ít hơn, văn học cũ của nhà nho và của người nông dân
vẫn cứ tổn tại trong địa bàn nông thôn.
Thế là ở hai địa bàn thành thị và nông thôn có hai nén văn học
khác nhau. Bên cạnh nhà nho là lực lượng sáng tác chủ yếu trước đây,
xuất hiện lực lượng sáng tác mới : những người làm báo, trong đó có
cả nhừng nhà cựu học viết bằng chữ Hán. Dần dần bằng con đường
dịch thuật, phỏng tác một số người viết báo chuyển sang viết truyện
ngán, viết kịch, đáp ứng đòi hỏi của công chúng thành thị. Hai lực
lượng sáng tác đđ khác nhau hản vé quan niệm văn học, vể mục đích
sáng tác, về phương pháp sáng tác, về tiêu chuẩn thẩm mỹ.
Trong điểu kiện phương tiện giao thông và giao lưu văn hđa phát
triển hơn, báo chí, nhà xuất bản, nhà hát truyén bá tác phẩm văn học
nhanh chóng và rộng khắp hơn, thành thị và nông thôn liên lạc thường
xuyên hơn, nhân dân ở vào hoàn cảnh giống nhau, cđ tâm tư, nguyện
21
- Xem thêm -