Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở...

Tài liệu Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

.PDF
77
90
127

Mô tả:

BỘ GIAO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGÔ MAI PHƢƠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ TIẾP CÔNG DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC TRUNG ƢƠNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Lý luận chung Nhà nước và lịch sử pháp luật Mã số: 60380101 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi HÀ NỘI - NĂM 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ TIẾP CÔNG DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC TRUNG ƢƠNG Ở VIỆT NAM....................................................................................................... 6 1.1. Khái niệm và các chức năng văn hóa pháp luật ......................................... 6 1.1.1. Khái niệm văn hóa pháp luật .................................................................. 6 1.1.2. Chức năng của văn hóa pháp luật ........................................................ 15 1.2. Khái niệm cán bộ tiếp công dân và văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương .............................................. 19 1.2.1. Khái niệm cán bộ tiếp công dân............................................................ 19 1.2.2. Khái niệm văn hóa pháp luật và các yếu tố hợp thành văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ......................................................................... 21 1.2.3. Yêu cầu về văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam ................................................................... 30 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân . 36 1.3.1. Yếu tố chủ quan ..................................................................................... 36 1.3.2. Yếu tố khách quan ................................................................................. 39 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ TIẾP CÔNG DÂN TẠI CƠ QUAN NHÀ NƢỚC TRUNG ƢƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 47 2.1. Thực trạng văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân .......................... 47 2.1.1. Thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ tiếp công dân ........................ 47 2.1.2. Thực trạng thái độ và hành vi ứng xử của cán bộ khi tiếp công dân ... 50 2.1.3. Thực trạng công tác tiếp xúc, đối thoại của cán bộ tiếp công dân với nhân dân .......................................................................................................... 55 2.1.4. Thực trạng lối sống theo pháp luật của cán bộ tiếp công dân ............. 58 2.2. Quan điểm và giải pháp nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ................................................................................................................... 59 2.2.1. Quan điểm về nâng cao trình độ văn hóa pháp luật và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam ............................................................................................. 59 2.2.2. Một số giải pháp nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam ................................................ 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Cán bộ tiếp công dân được coi là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Từ công tác tiếp công dân, họ trực tiếp tiếp nhận những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống, chuyển tải đến các cơ quan liên quan giúp cho Đảng và Nhà nước đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân. Ngược lại, cán bộ tiếp công dân cũng là người giải thích, tuyên truyền cho người dân những chính sách của Đảng, quy định của pháp luật Nhà nước. Những đóng góp của công tác này dù “âm thầm” nhưng góp phần không nhỏ vào việc ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước. Do đó, đòi hỏi cán bộ tiếp công dân phải có trình độ chuyên môn cao cũng như văn hóa pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân là tổng thể các yếu tố từ nhận thức sâu sắc về bản chất hoạt động nghề nghiệp, vai trò, vị trí của mình, từ đó hình thành quan niệm đúng đắn và thái độ tuân thủ pháp luật. Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân không phải do ai ban cho hoặc sẵn có mà là kết quả của quá trình tu dưỡng bền bỉ, được tích lũy bằng tri thức, các kỹ năng nghề nghiệp và đạo đức của mỗi người thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân. Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ở Việt Nam hiện nay đang được nhìn nhận chưa đúng về chức năng xã hội của người tiếp dân. Một số 2 cán bộ tiếp công dân còn thiếu năng lực, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Ở một số địa phương xảy ra nhiều trường hợp cán bộ không xếp được vào vị trí nào nữa thì “đẩy” vào vị trí tiếp công dân. Chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đội ngũ tiếp công dân thể hiện trong Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26-5-2014 của Bộ Chính trị ban hành với mục tiêu đánh giá những mặt được và chưa được, tích cực và hạn chế về công tác tiếp công dân từ đó đề ra tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo: Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bảo đảm trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo đảm thuận lợi cho công dân và cán bộ, công chức tiếp công dân. Trước yêu cầu rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với sự tiến bộ của xã hội, việc nghiên cứu và xây dựng nền văn hóa pháp luật nói chung và văn hóa pháp luật của cán bộ, công chức tiếp công dân đã và đang đặt ra hàng loạt nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm xây dựng, củng cố và hoàn thiện các chân giá trị văn hóa pháp luật tiếp công dân. Để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ trên đòi hỏi có nhiều hoạt động tích cực khác nhau, trong đó có hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động tiếp công dân, văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình. 3 2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài Việc nghiên cứu văn hóa pháp luật, một bộ phận của văn hóa nói chung được xác định là góp phần thực hiện chủ trương chung của Đảng và xã hội. Trong thời gian qua đã có nhiều các nhà nghiên cứu về văn hóa và văn hóa pháp luật dưới các góc độ khác nhau. “Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của GS.TS. Lê Minh Tâm, đã đề cập đến những vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật ở Việt Nam. Tác giả đã phân tích khái niệm và yếu tố cấu thành của văn hóa pháp luật. Đặc biệt tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh của văn hóa pháp luật từ nhiều góc độ và làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm văn hóa pháp luật. Từ đó, tác giả nêu ra vai trò của văn hóa pháp luật trong các hoạt động pháp luật nói chung và cuối cùng tác giả đưa ra các giải pháp để nâng cao văn hóa pháp luật nước ta. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi trong bài viết về “Ý thức pháp luật và văn hóa” cũng đưa ra khái niệm văn hóa pháp luật. Trong bài viết “Về khái niệm văn hóa pháp luật”, TS. Ngọ Văn Nhân đã điểm qua một số định nghĩa văn hóa pháp luật hiện có, từ đó tác giả đưa ra định nghĩa văn hóa pháp luật riêng theo quan điểm cá nhân, đồng thời lập luận, phân tích nội hàm của định nghĩa này, góp thêm ý kiến xung quanh khái niệm văn hóa pháp luật. PGS. TS. Trần Ngọc Đường đánh giá thực trạng văn hóa pháp lý ở nước ta từ kinh nghiệm thức tiễn cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đi đôi với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bài viết “Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta”. PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan có đề cập đến văn hóa công sở, văn hóa pháp luật trong hoạt động tiếp dân trong cuốn “Thực hiện pháp luật và văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội”. Ngoài ra, một số luận văn thạc sĩ cũng nghiên cứu về văn hóa pháp luật như “Văn hóa pháp luật ở công sở trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả 4 Nguyễn Thị Lê Thu (2003), “Văn hóa pháp luật của luật sư ở Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Thị Ngọc (2015), “Văn hóa pháp luật của thẩm phán trong lĩnh vực tố tụng hành chính” trong hoạt động xây dựng pháp luật” - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Cao Thị Nga (2015). Các công trình nghiên cứu trên đã tạo cơ sở lý luận và thực tiễn bước đầu rất quan trọng cho tác giả khi nghiên cứu về văn hóa pháp luật một cách sâu sắc và toàn diện hơn nhằm góp phần nâng cao và hoàn thiện văn hóa pháp luật trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân các cơ quan nhà nước trung ương ở nước ta hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các yếu tố, thành tố, yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật, thực trạng văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam và các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ở các cơ quan này. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét thực trạng văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ở các cơ quan nhà nước trung ương từ năm 2013 đến nay. Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm: Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ở các cơ quan nhà nước ở trung ương như khái niệm, các yếu tố hợp thành, yêu cầu về văn hóa pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân. 5 Thứ hai, đánh giá được thực trạng văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân ở các cơ quan nhà nước trung ương ở nước ta thời gian qua và xác định những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Thứ ba, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật cho cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương thời gian tới. 5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài là dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa, văn hóa pháp luật, các tri thức khoa học có liên quan để tiếp cận và nghiên cứu các nội dung văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân. Cơ sở thực tiễn là toàn bộ các hoạt động tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương. Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; - Phương pháp phân tích tổng hợp; - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp thống kê. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố trí và trình bày trong 02 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ tiếp công dân tại các cơ quan nhà nước trung ương ở Việt Nam hiện nay 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ TIẾP CÔNG DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC TRUNG ƢƠNG Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và các chức năng văn hóa pháp luật 1.1.1. Khái niệm văn hóa pháp luật Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau, ở trình độ lý luận và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện sức mạnh bản chất của con người. Là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Văn hóa được truyền từ đời này sang đời khác thông qua quá trình xã hội hóa. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là những phương thức và kết quả hoạt động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận, hàm chứa những quan điểm về mục đích và lý tưởng xã hội. Văn hóa hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói đến con người, văn hóa là thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của loài người. Văn hóa là một vấn đề phức tạp bởi vì nó thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ và nhiều lĩnh vực khác nhau. Nguyên nghĩa Latinh, khái niệm “culture” - văn hóa có nghĩa là sự trồng trọt, vun xới. Từ nghĩa gốc của nó, ta có thể hiểu, văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con người. Văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân mình. Với cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh học, từ tri thức khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa cũng đồng thời là phương thức tạo ra các sản phẩm đó. Không chỉ có thế, văn hóa còn hiện diện và thấm 7 sâu vào các quan hệ giữa con người với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo. Theo từ điển tiếng Việt thì văn hóa bao gồm các nghĩa sau: Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội; là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần; là tri thức, kiến thức khoa học; là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Sống có văn hóa. Ăn nói thiếu văn hóa. Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau như văn hóa rìu hai vai, văn hóa gốm màu, văn hóa Đông Sơn1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn2. 1 2 Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431 8 Bản thân tên gọi Ủy ban Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã cho thấy UNESCO xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục, nghĩa là đặt lĩnh vực khoa học và giáo dục bên ngoài khái niệm văn hóa. Theo UNESCO thì: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình3. Qua các quan niệm trên có thể thấy, văn hóa là một phạm trù rất rộng. Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt đời sống của con người, của cộng đồng xã hội trong quá khứ và hiện tại, tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình. Theo cách hiểu đó, văn hóa là một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc, được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi: các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố ý thức); các giá trị vật chất - kỹ thuật do con người lao động, sáng tạo ra trong lĩnh vực đó (hiện thực hóa yếu tố ý thức); năng lực, cách thức sử dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của con người (yếu tố hành vi, lối sống). Các yếu tố này được giữ gìn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế thế hệ khác, phản ánh bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động. Trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa tồn tại với tư cách là sự thăng hoa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị đặc thù. Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật là sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình hoạt động 3 Ngọ Văn Nhân (2014), “Về khái niệm văn hóa pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (04), tr. 24-29, 36. 9 của con người trong quan hệ pháp lý và hiệu quả đối tượng hóa năng lực của con người trong lĩnh vực đó. Do đó, phát triển yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật không những bảo đảm nâng cao hiệu quả của pháp luật mà còn bảo đảm cho sự phát triển nhân cách của con người. Nó biến hoạt động pháp luật với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị thành một lĩnh vực hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Văn hóa pháp luật là thuật ngữ dùng để mô tả mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa các giá trị pháp luật và các giá trị văn hóa, là tổng thể các hoạt động hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn. Xét trên bình diện tổng quát và theo phương pháp tiếp cận hệ thống, GS.TS. Lê Minh Tâm cho rằng: Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lí, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật4. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi cho rằng nếu xem xét văn hóa pháp luật trên cơ sở xem xét về văn hóa thì văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, các tư tưởng, quan điểm, học thuyết về pháp luật, các nguyên tắc pháp luật cho đến các biện pháp, phương tiện, kỹ thuật pháp lý, các kinh nghiệm, thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật5. 4 Lê Minh Tâm (1998), “Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Luật học, (5), tr. 17-24) 5 Nguyễn Thị Hồi (2008), “Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (02), tr. 25. 10 Một định nghĩa khác: “Văn hóa pháp luật là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần về mặt pháp luật mà con người đã, đang sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử của mình, thể hiện ở các lĩnh vực hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật, chứa đựng tính nhân văn, tiến bộ, vận động theo quy luật hướng tới chân - thiện - mỹ nhằm đáp ứng, thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của con người trong đời sống pháp luật”6. Bản thân khái niệm văn hóa pháp luật có nhiều nghĩa, được thể hiện ở trình độ của tư duy pháp lý, trình độ cảm nhận, nhận thức về thực tiễn pháp luật; mức độ tôn trọng pháp luật; trình độ tri thức pháp luật của nhân dân; thực trạng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật có chất lượng; các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ quan pháp luật, kiểm tra hiến pháp; kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp... Một cách tiếp cận khác về văn hóa pháp luật, theo đó, văn hóa pháp luật là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực pháp luật, thể hiện việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị pháp lý. Văn hóa pháp luật của cá nhân chính là trình độ ý thức pháp luật, trình độ của cá nhân về sử dụng pháp luật trong các hoạt động thực tiễn của mình. Văn hóa pháp luật xã hội là trạng thái và đặc thù của ý thức pháp luật, hệ thống thông tin pháp luật, trình độ phát triển của pháp luật, trật tự pháp luật và tình trạng pháp chế trong xã hội. Đối với nhà nước và xã hội, có văn hóa pháp luật nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp - một bộ phận cấu thành của văn hóa pháp luật. Các lĩnh vực của văn hóa pháp luật cũng rất đa dạng, bao gồm: văn hóa lập pháp, văn hóa trong thực hiện pháp luật; văn hóa phổ biến, giáo dục pháp luật; trong khoa học pháp lý và đào tạo luật... 6 Ngọ Văn Nhân (2014), “Về khái niệm văn hóa pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (04), tr. 24-29. 11 Văn hóa pháp luật có các đặc điểm của văn hóa nói chung, các đặc điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hóa khác. Mối tương quan và sự tác động giữa văn hóa pháp luật và các hình thái văn hóa xã hội khác là điều dễ hiểu vì bản thân các quy phạm pháp luật luôn nằm trong mối liên hệ với các loại quy tắc xã hội khác, các quan hệ pháp luật cũng nằm trong hệ thống các quan hệ xã hội khác. Mục đích của văn hóa pháp luật nói riêng và văn hóa nói chung là dẫn dắt con người tới những giá trị cao đẹp, hướng tới chân - thiện - mỹ. Văn hóa giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội, đồng thời hiệu quả pháp luật lại phản ánh trình độ văn hóa pháp luật của xã hội đó. Phát triển văn hóa pháp luật không những góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật mà còn giúp hoàn thiện, phát triển nhân cách con người. Văn hóa pháp luật là một hiện tượng khá phong phú, tùy theo tiêu chí phân loại, thường là tương đối mà có các loại văn hóa pháp luật khác nhau. Nếu xét theo “tính chuyên nghiệp” thì có văn hóa pháp luật của những người hành nghề luật chuyên nghiệp và văn hóa pháp luật của những công dân bình thường. Giữa hai loại văn hóa pháp luật này có ảnh hưởng qua lại với nhau, văn hóa pháp luật chuyên nghiệp của những người hành nghề luật chuyên nghiệp đạt đến mức độ cao của sự tinh vi và có sự tự chủ nhất định nhưng tôn trọng văn hóa pháp luật chung. Văn hóa pháp luật chuyên nghiệp thể hiện trong các học thuyết chung của các lĩnh vực pháp luật khác nhau, bên cạnh đó nó còn thể hiện trong việc giải quyết các quy phạm xung đột, trong các cuộc tranh luận pháp luật, nghiên cứu pháp luật, trong việc ra quyết định khi xét xử. Ngoài ra, nếu xét theo tiêu chí “lĩnh vực hoạt động” thì có văn hóa pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nếu xét theo tiêu chí “chủ thể”, thì có văn hóa pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ công chức, viên chức, doanh nhân, nhà báo, nhà giáo... 12 Văn hóa pháp luật là một bộ phận của nền văn hóa nói chung, là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật cũng được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật. Ý thức pháp luật là yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa pháp luật. Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm pháp lý tồn tại trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với với pháp luật, đối với quá trình điều chỉnh pháp luật, sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của cá nhân, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Là thành tố cơ bản của văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật tích cực, tiến bộ là cơ sở, tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật; là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, đảm bảo cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Việc củng cố và nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội hiện nay cần đảm bảo tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam được quy định bởi những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo của nhân loại, của lý tưởng xã hội chủ nghĩa kết hợp với tình cảm pháp luật truyền thống của dân tộc Việt từ ngàn đời nay: sự coi trọng và giữ gìn truyền thống, sống có kỷ cương, tuân theo chuẩn mực; yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, đạo lý; thật thà và lương thiện. Tình cảm pháp luật đó hoàn toàn phù hợp với quy luật của cuộc sống hướng tới chân - thiện mỹ. Yếu tố thứ hai, hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Có thể nói, hệ thống pháp luật là một 13 biểu hiện rất cao của văn hóa pháp luật, có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và phát triển của một nền văn hóa pháp luật. Hệ thống pháp luật ở chừng mực nhất định được coi là thước đo để đánh giá trình độ phát triển nền văn hóa pháp luật của một quốc gia. Bởi vậy, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa là đòi hỏi khách quan của xã hội và của nền văn hóa pháp luật, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa pháp luật. Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật là những thành tố còn lại của văn hóa pháp luật thể hiện cách thức, khả năng và trình độ sử dụng các công cụ pháp luật của từng cá nhân, cộng đồng xã hội và Nhà nước trong quá trình đấu tranh vì công lý, bình đẳng và tiến bộ xã hội theo định hướng chân thiện - mỹ. Hành vi pháp luật là hành vi có ý thức của con người (công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội...) diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp luật có thể mang tính tích cực hay tiêu cực, trong mọi trường hợp, nó chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp. Với tư cách là yếu tố cấu thành hữu cơ của văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật được hiểu với nghĩa là hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật, dựa trên cơ sở những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Hành vi pháp luật tích cực có ý nghĩa xã hội và văn hóa rất lớn. Một mặt, nó nói lên mục đích, động cơ trong hành vi của chủ thể; mặt khác, phản ánh nhu cầu của tiến bộ xã hội, nói lên sự hài hòa ở những mức độ khác nhau giữa lợi ích xã hội với lợi ích cá nhân, giữa nhu cầu của Nhà nước và nhu cầu của công dân, góp phần giữ gìn sự ổn định, đồng thuận xã hội và tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật. Lối sống theo pháp luật luôn gắn liền với hành vi pháp luật và là thành tố không thể thiếu tạo nên văn hóa pháp luật. Lối sống theo pháp luật là biểu hiện về mặt chất lượng của lối sống, đó là, lối sống có sự định hướng chính trị rõ ràng; lối sống có tổ chức, kỷ luật và trách nhiệm xã hội; lối sống bảo đảm 14 sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Lối sống đó được thể hiện trên các mặt sau đây: Một là, lối sống theo pháp luật là lối sống được định hướng theo các nguyên tắc của pháp luật. Đó là nhân đạo, dân chủ, công bằng, bình đẳng, đề cao và tôn trọng các quyền cơ bản của con người, đề cao trách nhiệm xã hội. Hai là, lối sống trong đó những định chuẩn theo pháp luật được nhận thức trở thành tri thức, tình cảm định hướng quan trọng nhất. Ba là, lối sống theo pháp luật thể hiện năng lực thực hiện pháp luật và hành vi pháp luật tích cực trong thực tiễn cuộc sống7. Sống theo pháp luật là đòi hỏi khách quan xuất phát từ tính tổ chức cao của một xã hội văn minh, dân chủ, đa dạng về quan hệ xã hội. Sống theo pháp luật đòi hỏi mọi hành vi xử sự phải phù hợp với pháp luật trong một môi trường bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các chủ thể. Lối sống theo pháp luật được thể hiện thông qua hành vi pháp luật, hành vi có ý thức của con người diễn ra trong môi trường của pháp luật. Hành vi pháp luật tích cực là biểu hiện của văn hóa pháp luật, đó là ứng xử theo pháp luật, tiến hành một cách tự nhiên, nền nếp, hoàn toàn tự nguyện. Với tư cách là một bộ phận cấu thành văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật phải được thẩm thấu vào trong hành vi tự nguyện chấp hành pháp luật, trở thành thói quen, lối sống của mỗi công dân. Xây dựng hành vi pháp luật cho mỗi thành viên trở thành lối sống tích cực trong cộng đồng, ngoài việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cũng cần phải có môi trường xã hội công khai, dân chủ. 7 Lê Thanh Thập (2011), “Nội dung của lối sống theo pháp luật”, Tạp chí Luật học, (5), tr. 34 - 39 15 1.1.2. Chức năng của văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật có các chức năng cơ bản sau: 1.1.2.1. Chức năng nhận thức Đây là chức năng không thể thiếu của bất kỳ hoạt động nào trong lĩnh vực văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật. Nếu thiếu chức năng nhận thức thì không thể nói đến bất kỳ một chức năng nào khác. Bởi lẽ, một bộ luật, đạo luật nào đó với tư cách một sản phẩm văn hóa pháp luật, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò, hiệu lực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì phải được mọi người nhận thức, nắm bắt nội dung, tinh thần của bộ luật, đạo luật nào đó với tư cách một sản phẩm văn hóa pháp luật, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò, hiệu lực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì phải được mọi người nhận thức, nắm bắt nội dung, tinh thần của bộ luật, đạo luật đó. Văn hóa pháp luật mang lại cho chúng ta sự nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật. Văn hóa, xét dưới góc độ nền tảng tinh thần của xã hội, là một mặt cơ bản của đời sống xã hội; chủ nhân của văn hóa chính là yếu tố đầu tiên khơi nguồn cho mọi giá trị. Nhà nước - một sản phẩm cao nhất của tư duy con người - là sản phẩm cao nhất của những giá trị văn hóa pháp luật. Quá trình lao động, ứng xử của con người với tự nhiên, với các vấn đề xã hội nảy sinh, như sự bất bình đẳng về vị thế xã hội, phân phối của cải, phân chia quyền lực đã đưa con người đến nhận thức cần thiết phải kiến tạo một thiết chế quyền lực nào đó nhằm điều hòa các mối quan hệ - đó là nhà nước. Pháp luật là phương tiện để giữ gìn thiết chế nói trên. Với ý nghĩa đó, pháp luật cũng là sản phẩm cao của tư duy văn hóa pháp luật, được thể hiện ra thành các quy tắc mà con người sử dụng để định hướng cho sự sáng tạo những giá trị văn hóa khác, như văn hóa nghệ thuật... Nghiên cứu văn hóa pháp luật đòi hỏi chúng ta phải luôn đặt nó trong sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói chung, với từng lĩnh vực kinh 16 tế, chính trị, xã hội nói riêng. Sự phát triển của văn hóa pháp luật cũng gắn bó mật thiết với trình độ, kỹ năng lập pháp. Trình độ lập pháp là một biểu hiện của văn hóa pháp luật. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có thể có được khi các nhà làm luật nhận thức sâu sắc các quy luật của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Những quan hệ xã hội nào mới phát sinh? Có cần các quy phạm pháp luật điều chỉnh không? Điều chỉnh ở mức độ nào và bằng những quy phạm pháp luật cụ thể nào? Văn hóa pháp luật, với chức năng nhận thức giúp các nhà làm luật nhận thức nắm bắt và biết cách xử lý tốt những tình huống mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Văn hóa nói chung và văn hóa pháp luật luôn mang đậm tính nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong lĩnh vực văn hóa pháp luật cũng là khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ - ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, dĩ nhiên, cần chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa pháp luật. Phát triển văn hóa pháp luật mang lại một sự nhận thức mới mẻ về các quy tắc, chuẩn mực, quan điểm pháp luật theo định hướng chân - thiện - mỹ như những giá trị pháp luật chứ không chỉ thuần túy là pháp luật. Giá trị pháp luật là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với hành vi của cá nhân, là tiêu chuẩn pháp lý để đánh giá hành động của người khác, để xác định lợi ích xã hội của các thành viên, là nền tảng cho cuộc sống chung. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đang đòi hỏi phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật. Đó sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật, tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và các giá trị xã hội của pháp luật. 17 1.1.2.2. Chức năng giáo dục Văn hóa pháp luật là sản phẩm hoạt động pháp luật của con người. Văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật. Các cách xử sự đó được chọn lọc, kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu hành vi, thẩm thấu vào ý thức pháp luật của mỗi người, biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật, ở thái độ, tình cảm đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp luật là môi trường giáo dục, nuôi dưỡng ý thức pháp luật của con người. Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật là nói tới sự định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật của người. Tuy nhiên, ý nghĩa giáo dục từ định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật nổi bật ở chỗ, nó giáo dục cách xử sự tích cực đối với pháp luật dựa trên tri thức và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các giá trị văn hóa pháp luật. Bản thân mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện không muốn thực hiện các hành vi vi phạm, phá vỡ các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực pháp luật. Để đạt được điều này, bên cạnh ý thức tự giác, tích cực của mỗi người, còn cần đến chức năng giáo dục. Định hướng giá trị văn hóa pháp luật là xu hướng con người muốn vươn lên chiếm lĩnh hoặc tiếp cận với các giá trị đích thực của pháp luật; từ đó dần dần hoàn thiện nhân cách của mình. Định hướng giá trị đó xác định thái độ lựa chọn hành vi của con người trước mỗi sự kiện pháp lý, quy định hành vi pháp luật của cá nhân, khuynh hướng và tính tích cực xã hội của nó. 1.1.2.3. Chức năng thực tiễn Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp luật thể hiện ở sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp luật vào hoạt động thực tiễn hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước. Chính sách pháp luật là khâu quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động xây
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan