ẳD£-?
|i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ H ồ CHÍ MINH
KHOA ĐÔNG NAM Á HỌC
---------- oOo----------
=^8
THÀNH THỊ H ồN G CAM
MSSV
: 50460015
LỚP
: DN04VH
jụ ĩ - i
VĂN HOÁ NGHE NHÌN
CỦA NGƯỜI CHĂM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH VẢN h o a đ ô n g n a m
KHOÁ 2004 - 2008
á
TBưOllS Pậl HỘC MỞ TP.HCW
THƯ VIỆN
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHÚ VĂN HẲN
THÀNH PHÔ' HỒ CHÍ MINH, THÁNG 08 NĂM 2008
ti
PHẦN MỞ ĐÀU
1
1.
Lý do chọn đề tài
Người Chăm là một thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam thống nhất, sinh sống lâu đời và có một nền văn hoá rực rỡ, độc đáo. Trong
bức tranh đa màu sắc của nền văn hoá Việt Nam, văn hoá Chăm có những nét
đặc thù.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức,
sự đa dạng văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc đang được đề cao ở tầm cao mói.
Văn hoá và biểu hiện văn hoá của mỗi tộc người ngày càng được nghiên cứu sâu
hom, kỹ hom với một sự tôn trọng, bình đẳng.
Người Chăm cũng như các dân tộc, tộc người khác ở Đông Nam Á, đều có
nền văn hoá bản địa chung của cư dân nông nghiệp lúa nước. Trải qua những giai
đoạn lịch sử đầy biến động thăng trầm, văn hoá của người Chăm biến đổi đồng
hành cùng diễn trình vận động trong không gian, qua thời gian của sự tiếp biến,
sự giao thoa, hoà nhập giữa những yếu tố văn hoá nội sinh và ngoại sinh. Tuy đã
có hàng nghìn công trình nghiên cứu về văn hoá Chăm, nhưng cho đến nay văn
hoá Chăm vẫn đầy bí ẩn, nhất là mảng văn hoá phi vật thể. Chính điều đó đã
không ngừng cuốn hút các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu.
Gần đây, truyền thông đại chúng đang có xu hướng phát triển mạnh, sự
bùng nổ của Internet và các phưomg tiện truyền thông khác đã tác động nhiều đến
đời sống con người và đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần quan tâm, nhất là ở các
vùng đồng bào thiểu số. Tuy nhiên đây là lĩnh vực còn mới mẻ đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, theo đó cũng có rất ít công trình nghiên cứu về
vấn đề này và càng hiếm hoi hom đối với lĩnh vực truyền thông đại chúng ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có người Chăm.
Người Chăm là một cộng đồng năng động, ưong xu thế phát triển hiện nay
người Chăm đã tiếp nhận hết sức đa dạng các phưomg tiện truyền thông và cũng
chịu ảnh hưởng không ít từ loại hình này. Đặc biệt tiếng dân tộc Chăm trong lĩnh
vực phát thanh truyền hình Việt Nam cấp trung ưomg và địa phưomg đã tác động
nhiều mặt đến văn hoá, xã hội của người Chăm, cũng như các giá trị ngôn ngữ
ngày càng được nâng cao trong đời sống văn hoá tinh thần của xã hội Chăm.
2
Việc nghiên cứu đề tài “Văn hoả nghe nhìn của người Chăm” là nền
tảng quý báu góp phần hiểu biết thêm tinh hoa văn hoá của dân tộc Chăm, trước
tiên trong văn hoá nghe nhìn và góp phàn hiểu biết thêm cộng đồng các dân tộc
Việt Nam
2.
Mục đích nghiên cứu
Là sinh viên được đào tạo chuyên ngành văn hoá, đề tài “Văn hoá nghe
nhìn của người Chăm” được chọn làm khoá luận tốt nghiệp nhàm giúp cho bản
thân có điều kiện tiếp xúc vói thực tế, vận dụng tổng hợp các kiến thức đã học
giải quyết các vấn đề nghiên cửu, góp phần hiểu sâu hon về văn hoá dân tộc
Chăm trong thời kỳ hiện đại cũng như văn hoá Chăm trong lĩnh vực tiếp cận
truyền thông đại chúng. Điều đó còn có ý nghĩa góp phần bổ sung vốn tài liệu để
từ đó chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về văn hoá dân tộc Chăm nói
riêng và bổ sung tư liệu vào nền văn hoá Việt Nam.
3.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, tôn giáo, xã hội,
ngôn ngữ.... của người Chăm nhưng có rất ít các công trình đề cập đến việc tiếp
nhận các phương tiện truyền thông đại chúng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
này. Trong các công trình liên quan đến đề tài “Văn hoá nghe nhìn cửa người
Chăm” có thể kể đến:
Trước năm 1975 tại miền Nam có tiểu luận cao học xã hội của Đào Quang
Mỹ: “Điều tra về vô tuyến truyền hình của xã hội Việt Nam” viết về truyền hình
ở Sài Gòn (Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn, năm 1970); “Bốn lý thuyết về
báo chỉ, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh” do Nguyễn Đình Tuyến dịch (Việt
Nam và Thế giới thời báo xuất bản, Sài Gòn, năm 1972);...
Sau năm 1975, liên quan đến đề tài này có “Các báo cáo về việc thực
hiện QĐ 53/CP cửa Hội đồng Chính phủ cũng như các bài viết về văn hoá
trong truyền thông đại chúng ở đồng bào dân tộc Chăm” (báo cáo của Uỷ ban
Nhân dân tỉnh An Giang, Ninh Thuận, Bình Thuận, năm 1980)1 trình bày tình
hình thực hiện nhiệm vụ này, qua đó trình bày một số thành quả ban đầu của phát
1 Uỷ ban Dân tộc của Chính Phủ.
3
thanh truyền hình ở vùng đồng bào Chăm và chưomg trình tiếng Chăm thực hiện
tại các phương tiện truyền thông; “Truyền thông đại chúng nhập môn” của
Huỳnh Văn Tòng (Đại học Mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, năm
1993); Viết về lĩnh vực truyền hình có luận án tiến sĩ của Đinh Quang Hưng, đề
tài: “Những phương pháp và biện pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm
truyền hình cho phù hợp với yêu cầu về truyền hình ở Việt Nam hiện nay”
(Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 1996).
Ngoài “Ngôn ngữ Chăm với việc bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc”
của Phú Văn Hẳn (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1999) và “Tiếng dân tộc
trong truyền thông đại chúng” do Phú Văn Hẳn thực hiện vào năm 2008 (Viện
Khoa học xã hội vùng Nam Bộ); hoặc Bùi Khánh Thế trong bài ‘Tiếng Chăm
trên sóng điện và các vấn đề ngôn ngữ học”; cần kể thêm một số công trình viết
về truyền thông trong đó có nói đến truyền hình như “Chân dung công chúng
truyền thông” của Trần Hữu Quang (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001);
“Truyền thông đợi chúng - những kiến thức cơ bản” do Trần Hậu Thái dịch (từ
Claudia Mast), năm 2003; “Văn hoá nghe nhìn và giói trẻ” của Đỗ Nam Liên
(Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2005); “Công tác truyền hình bằng tiếng
dân tộc thiểu số” của Đài Truyền hình Việt Nam (báo cáo của Uỷ ban Dân tộc,
năm 2006); “Phát thanh dân tộc thiểu số” của Đài Tiếng nói Việt Nam (báo cáo
của Uỷ ban Dân tộc, năm 2006).
Đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào thể hiện một cách có hệ
thống (đã công bố) về khía cạnh văn hoá trong lĩnh vực phát thanh truyền hình
của tiếng dân tộc Chăm. Tuy nhiên các công trình và các tài liệu kể trên ở nhiều
gốc độ khác nhau, cũng như bài giảng của Lê Khắc Cường2 về những vấn đề có
tính đại cương liên quan đến “Truyền thông đại chúng các nưởc Đông Nam Ả ”
giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
4.
Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Khoá luận đề tài “Văn hoá nghe nhìn của người Chăm” tập trung tìm
hiểu về khía cạnh văn hoá trong lĩnh vực phát thanh truyền hình tiếng Chăm và
2 Ts. Lê Khắc Cường, Gv thinh giảng tại Khoa Đông Nam Á, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh.
4
của người Chăm. Đối tượng chính của đề tài sẽ tập trung khảo sát việc tiếp xúc,
tiếp nhận văn hoá nghe và nhìn của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận và
Nam Bộ. Đây là các cộng đồng địa phương tiêu biểu của người Chăm và có
những đặc thù trong việc tiếp nhận văn hoá nghe nhìn cũng như có Chương trình
tiếng Chăm trong Đài phát thanh truyền hình và Đài Tiếng nói Việt Nam (cụ thể
là Đài phát thanh truyền hình Ninh Thuận đặt tại thành phố Phan Rang, tỉnh Ninh
Thuận; Đài phát thanh truyền hình Bình Thuận đặt tại thành phố Phan Thiết, tỉnh
Bình Thuận; Đài Tiếng nói Việt Nam - cơ quan thường trú tại thành phố Hồ Chí
Minh... ). Đồ tài nghiên cứu chú trọng khảo sát người Chăm có mối quan tâm
như thế nào đến phát thanh, truyền hình và loại hình này tác động như thế nào đến
đời sống văn hoá người Chăm hiện tại và tương lai cũng như trong việc bảo tồn
và phát triển văn hoá dân tộc của người Chăm hiện nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp khoa học, người nghiên cứu thực hiện điền dã tại
vùng người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí
Minh và An Giang, phỏng vấn ngẫu nhiên và phỏng vấn chuyên gia, kết họp thu
thập thông tin và xử lý số liệu, nghiên cứu tài liệu về dân tộc, ngôn ngữ dân tộc,
kinh tế - xã hội của ngưòi Chăm.
Đe hoàn thành đề tài khoá luận này, người thực hiện cố gắng vận dụng các
phương pháp khác nhau để nghiên cửu đề tài ở khía cạnh văn hoá và văn hoá học,
vì vậy phương pháp văn hoá học được chú trọng vận dụng cùng với các phương
pháp khoa học tiếp giáp như dân tộc học, ngôn ngữ học và điều ưa xã hội học để
cho kết quả tin cậy.
6.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Với kết quả nghiên cứu của đề tài “Văn hoá nghe nhìn cửa người
Chăm”, hy vọng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn hoá của người Chăm qua
việc tiếp nhận truyền thông đại chúng đặc biệt là phát thanh truyền hình nói
chung và Chương trình tiếng Chăm ưong lĩnh vực phát thanh và truyền hình. Qua
đó đề tài sẽ hướng đến một tầm nhìn hệ thống hơn về tiếp nhận và tiếp xúc các
phương tiện nghe nhìn cũng như các phương tiện truyền thông ưong thòi kỳ hiện
5
đại và hội nhập, góp phần định hướng phát triển bền vững cộng đồng Chăm. Tài
liệu của khoá luận giúp cho những nghiên cứu tiếp tục về văn hoá nghe nhìn và
văn hoá Chăm.
7.
Bố cuc
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo khoa học tập trung trình bày thành
3 chương:
Trong Chương 1: về “Cơ sở lý luận và thực tiễn” (từ tr. 10 - tr.29) trình
bày 3 mục chính, gồm: 1.1. Một số khái niệm về phương tiện nghe nhìn; 1.2.
Khái quát về văn hoá nghe nhìn; 1.3. Vài nét về văn hoá dân tộc Chăm.
Trong Chương 2: về “Phát thanh truyền hình tiếng Chăm” (từ tr. 30 - tr.
49) trình bày 2 mục chính, gồm: 2.1. Phát thanh truyền hình tiếng dân tộc thiểu
số; 2.2. Tiếng Chăm ưên phát thanh truyền hình.
Trong Chương 3: về “Người Chăm với văn hoá nghe nhìn hiện nay (từ tr.
50 - ư. 72) trình bày 3 mục chính, gồm: 3.1. Việc tiếp nhận phương tiện nghe
nhìn của người Chăm; 3.2. Tác động của phát thanh truyền hình với người Chăm;
3.3. Xu hướng tiếp nhận văn hoá nghe nhìn của người Chăm.
Kết luận:
Là một số đề xuất nhằm phát triển, phát huy các phương tiện truyền thông
đại chúng góp phần nâng cao đời sống văn hoá vùng đồng bào Chăm.
Luận văn còn có các tài liệu tham khảo và phụ lục gồm nguồn thống kê số
liệu, phiếu thăm dò ý kiến và hình ảnh.
PHAN NÖI DUNG
6
CHƯƠNG 1:
C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
7
1.1. Một số khái niệm về phương tiện nghe nhìn
Để có cái nhìn khái quát và thống nhất, chúng tôi giới thiệu một số thuật
ngữ. Các thuật ngữ này cũng là những khái niệm mà trong đề tài sử dụng:
- Truyền thông - Communication3:
Từ một thuật ngữ kỹ thuật mang ý nghĩa thông báo tin tức bàng phương
tiện thông tin, communication được định nghĩa một cách tổng quát đó là mọi hoạt
động được thực hiện để xác lập, xây dựng, truyền tải hay trao đổi thông tin giữa
máy phát và các máy thu; hoặc toàn bộ những phương pháp dùng để thông tin
giữa các cá nhân, một nhóm người hay số đông4.
Communication dần dần trở thành thuật ngữ khoa học sử dụng rộng rãi và
được quốc tế hoá chỉ sự truyền đạt tin tức bằng những phương tiện kỹ thuật. Ở
Việt Nam, communication được gọi là truyền thông.
Khi truyền thông được phổ biến rộng rãi trong công chúng, người ta ghép
từ “mass” (số nhiều, số đông, quần chúng) vào từ “communication” và mass
communication có nghĩa là truyền thông cho số đông, được dịch ra tiếng Việt là
“truyền thông đại chúng”.
Nhà khoa học Nga Xvetaeva N.N coi truyền thông đại chúng là “quá trình
truyền bá thông tin (tri thức, các giá trị tinh thần, đạo đức và các chuẩn mực luật
pháp) với sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật (in ấn, radio, quay phim,
truyền hình...) tới một số lượng đối tượng lớn”5.
3 Sử dụng thuật ngữ tiếng Anh để “trung thành” với những thuật ngữ “gốc” vốn quen thuộc với người Việt
Nam, một phân do khó tìm được từ tương đương trong tiếng Việt.
4 Khái niệm này từ Dictionnaire du multimédia: audiovisual informatique, telecommunications, Jacques
Notaise, Jean Barda, Olivier Dusanter, P.Afnor, 1996 và The Merriam Webster, W ebster’s Third New
International Dictionary o f the English Language unnabridges. Philippines copyright 1986 by Merriam
Webster inc, Made in The U.S.A.44AG/KP91. (trích từ Tài liệu Phú Văn Hẳn, 2008, ‘Tiếng dân tộc trong
truyên thông đại chúng”, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ).
5 Truyền thông đại chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội, Xvetaeva N.N.trong tác phẩm Truyền thông
đại chúng trong xã hội X ã hội chủ nghĩa, Leningrad 1979, ư. 57, bản tiếng Nga. (trích tù Tài liệu Phú Văn
Hăn, 2008, “Tiếng dân tộc trong truyền thông đại chúng”, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ).
8
Tác giả Huỳnh Văn Tòng của Việt Nam đưa ra định nghĩa giản đơn hơn:
“Truyền thông là kỹ thuật truyền đạt tin tức, tư tưởng và thái độ từ người này
sang người khác”6.
- Phương tiện thông tín (Media) và thông tin đại chúng (Mass media):
Theo nghĩa đen, media chỉ hệ thống có khả năng tái tạo đồng thời văn bản,
tiếng động, hình ảnh. Sau này nó được sử dụng để chỉ toàn bộ những hoạt động
và sản phẩm liên quan đến sự chế tạo, phổ biến thông tin đến công chúng. Trong
nghĩa đó người ta hay phân nhóm các media theo một trong những đặc tính của
chúng và thường là theo tri giác. Theo đó sự phân chia các media có thể dựa trên
những tiêu chí khác nhau: về kỹ thuật, về chức năng hoặc các tính chất khác.
Mass media cũng là từ ghép để chỉ tính đại chúng, phổ biến của media. Ở Việt
Nam, dựa theo chức năng truyền thông xã hội, media và mass media thường được
hiểu là phương tiện thông tin và thông tin đại chúng. Người ta có thể chia media
thành những phần nhỏ hơn hoặc theo những tính chất khác nhau (điện tử, hoá lý,
sợi kim loại hay quang học, hoặc in ấn, phát thanh, truyền hình...). Từ
multimedia (ghép từ “multi - nhiều” với media) để chỉ tính đa dạng của media và
trong tiếng Việt thường được hiểu với nghĩa thông tin đa phương tiện, thông tin
đa chức năng. Multimedia được dùng từ đầu những năm 80 ở thế kỷ trước.
Nếu như communication chỉ chung mọi mặt của truyền thông, thông tin thì
media dùng để chỉ những phạm vi nhỏ hơn của truyền thông. Philippe Breton,
Serge Proulx đã chia mảnh đất truyền thông thành các khu vực nhỏ: xuất bản,
truyền thanh, truyền hình...Và theo tính chất khác hơn nữa thì quảng cáo rồi tin
học cũng là những media. Do khái niệm multimedia có phổ rất rộng nên người ta
phân chia theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ xét theo chức năng, truyền thông xã
hội có thể chia thành các media: xuất bản, truyền thanh, truyền hình. Thomas R.
Dye. Harmon Zeigler7 cũng đưa ra bảy lĩnh vực thuộc cấu trúc của mass media,*1
6 Truyền thông đại chúng nhập môn, Huỳnh Văn Tòng. Tài liệu học tập phổ biến nội bộ, Đại học Mở Bán công Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1993, tr.5.
1 American politics in the media age. Thomas R. Dye. Harmon Zeigler. CA. Brooks cole, 1986, tr.96.
(trích từ Tài liệu Phú Văn Hẳn, 2008, “Tiếng dân tộc trong truyền thông đại chúng”, Viện Khoa học xã hội
vùng Nam Bộ).
9
đó là: sách, báo, điện ảnh (motion pictures), phát thanh, tạp chí, băng đĩa
(recordings), truyền hình. Michel C.Emery, Ted Curtís Smyth trong cuốn
“Readỉng ỉn mass communỉcation: concepts and ỉssues ỉn the mass medùt”
cũng coi báo chí (press), phát sóng (broadcasting trong đó có radio, truyền hình),
xuất bản sách (book publishing), phim ảnh, tạp chí đều là những mass media.
- Nghe Nhìn tương đương thuật ngữ audiovisual của tiếng Anh hay
audỉovisuel trong tiếng Pháp, có nghĩa phổ biến trong tiếng Việt là nghe nhìn và
dùng để chỉ những media khác với những media in ấn (print media). Audiovisual
được ghép từ audio (âm thanh) với visual (nhìn, hình ảnh) để chỉ kỹ thuật truyền
thông kết hợp âm thanh và hình ảnh. Bản thân nó cũng có nghĩa là multimedia vì
sử dụng nhiều media (hình ảnh và âm thanh) ưong sự tương tác (Interactive).
- Truyền hình gắn với thuật ngữ Televisión (viết tắt là TV) được ghép từ
tele (xa) với Vision (nhìn) để chỉ sự truyền tin bằng cách kết họp giữa hình ảnh và
âm thanh thông qua các công cụ chuyển đổi ánh sáng và âm thanh thành sóng
điện từ, rồi tái tạo chúng thành những tia sáng thấy được và những âm thanh nghe
được. Những hình ảnh này có thể là hình ảnh tĩnh hoặc động của đối tượng hay
vật thể. Định nghĩa trên đây nặng tính kỹ thuật nhưng tóm lại truyền hình được
hiểu là thông tin kết hợp hình ảnh và âm thanh thông qua phát sóng hoặc các hình
thức dẫn truyền khác và được người xem tiếp nhận trên màn hình.
- Truyền hình cáp/ Cáp truyền hình (Cable televisión/ televisión par
cable):
Trước hết nói về cáp (cable): Cáp là phương tiện để truyền thông tin, nối
các phần của một hệ thống. Một sợi cáp được hợp thành từ một hoặc nhiều sợi
dẫn điện được bao bọc bởi một hoặc nhiều lớp cách ly. Mỗi đầu dây cáp đều có
đầu nối.
Truyền hình cáp - Cable televisión: là từ ghép của cable và televisión.
Truyền hình cáp sử dụng các mảng cáp để phát hoặc phân phối các chương trình,
khác với truyền hình dùng sóng hertz hoặc vệ tinh. Chất lượng hình ảnh tốt và số
lượng các kênh chương trình truyền hình cáp đều rất lớn. Truyền hình cáp cho
phép phát triển truyền hình tương tác (Interactive), nghĩa là có sự phối họp, trao
10
đổi qua lại. Ví dụ như kết nổi với hệ thống điện thoại, với máy vi tính để tăng khả
năng đối thoại, trao đổi thông tin.
- Truyền hình kỹ thuật số - Digital television (television numérique):
Tiếng Việt gọi là truyền hình kỹ thuật số. Trong truyền hình kỹ thuật số
các tín hiệu được xử lý bằng cách số hoá tại hai đầu truyền hình ảnh: từ camera
đến đầu đọc của khán giả xem truyền hình. Việc truyền, phát và lưu giữ chương
trình đều được số hoá. Chất lượng hình ảnh truyền hình kỹ thuật số rất tốt, chất
lượng âm thanh tương đương chất lượng đầu đọc đĩa laser.
- Truyền hình qua vệ tinh - Satellite television (television par satellite):
Đây là hệ thống truyền hình mà việc phát các chương trình được thực hiện
qua vệ tinh. Tín hiệu truyền hình được truyền dưới dạng sóng hertz và được thu
tại mặt đất bàng các anten parabol lớn hoặc cá nhân có đường kính khác nhau.
Các anten này hướng đến vệ tinh để thu sóng. Dùng một anten có thể thu được
các chương trình từ một hay nhiều vệ tinh gần nhau (cách nhau vài km) và cùng
hướng quỹ đạo. Người ta thường kết hợp giữa vệ tinh và cáp bằng cách thu tín
hiệu vệ tinh vào một đầu thu chung rồi phát lại cho hệ thống cáp.
Có hai cách để truyền qua vệ tinh:
•
Từ trạm truyền tín hiệu được phát lên vệ tinh rồi lại được đưa xuống nhiều
trạm thu mặt đất. Từ đây hình ảnh được dẫn qua các mạng cáp.
• Từ trạm truyền tín hiệu được phát lên vệ tinh và từ đây phát thẳng tới
người xem qua các anten chảo.
- Video: được sử dụng để chuyển nhận những hình ảnh và âm thanh truyền
hình (television). Những âm thanh và hình ảnh này thường được ghi vào băng từ
(magnetic tape) và phát lại thông qua máy chuyên dụng lên màn hình tivi. Nếu
gọi một cách đầy đủ là video cassette hoặc video tape, song trong cuộc sống
người ta hay nói gọn là video.
- Compact: theo nghĩa đen là tập trung, nén, dồn chặt. Disc là đĩa.
Compact disc là CD, thoạt đầu là từ chỉ chung cho các loại công cụ trợ giúp điện
tử bằng đĩa compact. Sau này người ta phân biệt rõ CD là đĩa ghi âm còn VCD
tức là video compact disc và DVD (digital versatile disc) là đĩa ghi hình ảnh.
11
Từ CD - Rom để chỉ đĩa CD lưu trữ dữ liệu được sử dụng dưới dạng đọc.
Từ đây hình thành nên các từ CD - Rom văn hoá, CD - Rom bách khoa toàn thư,
CD - Rom khoa học, CD - Rom du lịch... để chỉ các CD - Rom có nội dung văn
hoá, bách khoa toàn thư, khoa học, du lịch...
Một từ khá thông dụng nữa của thời đại thông tin là “đại lộ thông tin”8
(information highway). Đây là mạng lưới điện tử tốc độ cao và băng thông rộng,
đảm bảo sự lưu thông các thông tin số hoá dưới dạng văn bản, hình ảnh tĩnh hoặc
động, các thông điệp âm thanh, âm nhạc. Các đại lộ thông tin có thể đi đến tận
cửa các công ty, trường học, hộ gia đình... Trong tưomg lai, sự phát triển của đại
lộ thông tin có thể tạo nên những “mê đạo viễn thông” chằng chịt.
- Văn hoá đại chúng - Popular culture hoặc pop culture :
Có nhiều định nghĩa về văn hoá cũng như định nghĩa về văn hoá đại
chúng, nhưng có thể hiểu đây là văn hoá của số đông trong xã hội. Nét đặc trưng
là tính phổ biến của nó tại thời điểm đó. Ray B. Browne xem popular culture là
thế giới văn hoá bao quanh ta, gồm quan điểm, thái độ, hành vi ứng xử, ẩm thực,
trang phục, kiến trúc đường xá, giải trí, thể thao, tôn giáo... Tóm lại là tất cả
những gì gắn với đời sống9.
Từ khái niệm popular culture có thêm một thuật ngữ tiếng Anh nữa là
mass culture. Hai thuật ngữ này có tính tương đồng và có thể dùng thay thế nhau.
Nhìn chung các thuật ngữ này có xuất xứ từ phương Tây do sự ra đời của
các phương tiện truyền thông cũng như nhu cầu khách quan trong thông tin và
nghiên cứu. Các khái niệm này nhanh chóng được phổ biến và trở thành thuật ngữ
quốc tế. Các nhà khoa học Nga cũng chuyển âm hoặc dịch nghĩa các khái niệm
này sang tiếng Nga. Có hai cách thể hiện các khái niệm này: phiên âm từ tiếng
Anh hoặc Pháp chỉ biến đổi một chút phần đuôi cho phù hợp ngữ pháp tiếng Nga:
communication - communicasia, television - televidenie, visual - visualnưi, hoặc
dịch nghĩa “nghe nhìn” sang tiếng Nga.
8 Nguyên Phó tổng thống Mỹ AI Gore được coi là người sáng tạo ra từ này ưong cuộc vận động tranh cử
cho Bill Clinton.
9 Mass media, mass culture. James Wilson Stau, Le Ro. Wilson. Fourth edition, p.3. (trích từ Tài liệu Phú
Văn Hăn, 2008, ‘Tiếng dân tộc trong truyền thông đại chúng”, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ).
12
Nhìn chung, truyền thông ở Việt Nam phát triển chậm hơn nhiều nước,
nhất là các nước phát triển nên các khái niệm liên quan đến lĩnh vực này cũng
chậm được phổ cập. Song vào những năm 60 của thế kỷ XX, ở miền Nam khái
niệm “nghe nhìn” đã được dịch theo âm Hán - Việt, Đào Quang Mỹ đã dùng từ
“thính thị” khi đề cập đến cách diễn tả bằng hình ảnh và âm thanh của vô tuyến
truyền hình10. Đến nay các khái niệm liên quan đến nhiều lĩnh vực của nghe nhìn
không còn xa lạ với số đông công chúng khán giả. Việc sử dụng các phương tiện
nghe nhìn như truyền hình, video, băng, đĩa nhạc, máy vi tính, và gần đây là các
công cụ kỹ thuật số ngày càng trở nên phổ biến. Báo chí hiện nay đã nói về nghe
nhìn khá nhiều. Qua các cuộc điều ưa cũng đã thấy rõ thanh thiếu niên không bỡ
ngỡ với những thuật ngữ nêu ưên và đa số có thể ttao đổi, nhận xét khá thoải mái
các vấn đề về nghe nhìn. Sự ra đời của tin học và những tiện ích do nó đưa lại
cùng với những kết hợp tương thích của các công cụ nghe nhìn khác ngày càng
làm cho cấu trúc của truyền thông đại chúng được mở rộng hơn.
- Văn hoá nghe nhìn - Audiovisual culture: Sự lan rộng và phổ biến của
các phương tiện nghe nhìn làm cho chúng ngày càng ưở nên thiết yếu ưong đời
sống xã hội, trở thành nhu cầu không thể thiếu, nhưng đồng thời cũng tạo nên
những thói quen, ảnh hưởng đến nhiều mặt ưong hưởng thụ văn hoá. Quá trình
này diễn ra từ từ, không ồn ào nhưng dần dần để lại dấu ấn ưong cách làm việc,
tác phong ứng xử, đi đứng, ăn mặc...
Khái niệm “văn hoá nghe nhìn” (audiovisual culture) để chỉ lối sống cũng
như nhu cầu hưởng thụ văn hoá thông qua các thiết bị nghe nhìn cũng như những
tác động về mặt văn hoá do các phương tiện nghe nhìn mang đến. Khái niệm này
chưa được ghi vào các từ điển nhưng ưong các công trình nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài nỏ thường được nhắc đến.
Có thể nói những dấu hiệu chính để văn hoá mang tính nghe nhìn, hình
thành nên cụm từ “văn hoá nghe nhìn” đó là:
•
Các thiết bị nghe nhìn ưở thành phương tiện, công cụ, là cái không thể
thiếu ưong cuộc sống nói chung và đời sống văn hoá nói riêng.
10 Điều tra về vô tuyến truyền hình tại x ã hội Việt Nam. Đào Quang Mỹ. Tiểu luận cao học xã h ộ i, Trường
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, 1970, tr.62, 160.
I
13
• Nó được hình thành từ nhu cầu của con người và nó chi phối trở lại, tạo
nên những thói quen, tâm lý thưởng ngoạn mới gắn liền vói các phương tiện nghe
nhìn.
• Nó làm phát triển những kỹ năng mới của thời đại thông tin cũng như làm
xích lại các nền văn hoá và có tác động sâu sắc, tạo nên những thay đổi trong lối
sống.
Trên cơ sở đó có thể đưa ra định nghĩa: “Văn hoá nghe nhìn là tổng hoà
của nhu càu, lối sống, phong cách hưởng thụ, cách ứng xử, cũng như những thói
quen hình thành dưới tác động của các phương tiện nghe nhìn. Đây là một quá
trình tích hợp tự nhiên trước những thay đổi của môi trường sống mà sự thích ứng
dường như là khách quan theo quy luật tiếp nhận”.
Dần dần hình thành thêm những khái niệm đi vào những ngành hẹp như
“children’s media” (media của trẻ em) hay “network culture” (văn hoá mạng) hay
“ekrannaia cultura” (văn hoá màn hình - trong tiếng Nga).
Các khái niệm cũng sẽ ngày càng phong phú theo đà phát triển của khoa
học kỹ thuật cùng với sự ra đời ngày càng nhiều những media mới.
Tiếng Chăm, do “sinh sau đẻ muộn” trong lĩnh vực truyền thông cũng như
trong văn hoá nghe nhìn nên các thuật ngữ liên quan đến văn hoá nghe nhìn mới
được hình thành cùng lúc tiếp xúc vói văn hoá phương Tây hoặc thông qua ngôn
ngữ văn hoá Việt, như “Rayo” (Đài), Danak dak papar sap Cham (Chương
trình phát thanh tiếng Chăm) di Rayo sap ndom Vietnam (của Đài tiếng nói Việt
Nam) hoặc Danak dak papar sap papar binguk (Chương trình phát thanh
truyền hình),... Vì thế các thuật ngữ chỉ “văn hoá nghe nhìn” bằng tiếng Chăm
không nhiều và chủ yếu có gốc từ ngôn ngữ phương Tây hoặc từ tiếng Việt, như:
“tivi” (truyền hình), “katset” (casset - máy thu âm), mbang (băng), “mbang
katset” (băng caset), prỉang (đĩa), ilamu iek (văn hoá nhìn), ilamu pang (văn
hoá nghe), “angten” (anten), “pharambol” (parabol)...
>
14
1.2. Khái quát về văn hoá nghe nhìn
Nghiên cứu văn hoá nghe nhìn là vấn đề không mới trên thế giới, nhất là ở
những nước phát triển, mặc dù chỉ phát triển chủ yếu từ thế kỷ XX trở lại đây.
Văn hoá nghe nhìn được cho là ra đời muộn so với nhiều ngành nghiên
cứu khác nhưng với đà phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cùng với những
tiện ích khó phủ nhận và vai trò to lớn của nghe nhìn, nên việc nghiên cứu về
nghe nhìn tuy là lĩnh vực mới đối với nhiều nước trên thế giói, nhất là các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam, nhưng đã thu hút được sự chú ý của nhiều
nhà nghiên cứu văn hoá.
Trên thực tế, sự phát triển của truyền thông trong lĩnh vực phát thanh
truyền hình, băng đĩa và gần đây nhất là Internet đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết, như về: chương trình, công chủng, thị hiếu, các vấn đề trong quản lý, giáo
dục, nhất là đối với giới trẻ. Trong khi đó các công trình nghiên cứu về nghe nhìn
chưa nhiều và có thể nói chỉ mới bắt đầu được quan tâm, chú ý ở Việt Nam.
Ở Việt Nam nghe nhìn nói chung về truyền hình, băng đĩa nói riêng xuất
hiện chưa lâu, song đây là lĩnh vực phát triển đầy tiềm năng. Sự phát triển của hai
lĩnh vực này trong những năm qua đã được chứng minh.
Nhưng nếu so sánh với sự phát triển của truyền hình trong những năm gần
đây và tàm quan trọng của nó thì số lượng công trình nghiên cứu quả là ít ỏi. Các
công trình nghiên cứu về băng đĩa ghi hình còn nghèo nàn hơn. Nếu tỷ lệ các
công trình giữa truyền hình và băng đĩa thì sự chênh lệch này là phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Nhưng việc chưa có công trình nào viết về băng đĩa ở Việt
Nam là một khiếm khuyết cần khắc phục. Công bàng mà nói, tuy những công
trình chuyên sâu còn ít, nhưng báo chí với sự nhanh nhạy của những người “đo
nhịp sống xã hội” đã cho thấy nhiều vấn đề cần quan tâm. Tuy nhiên với khuôn
khổ của những bài báo, nội dung của chúng chỉ dừng lại ở mức độ nêu thực trạng
và cảnh báo một số vấn đề.
Những tư liệu do người nước ngoài viết về truyền hình Việt Nam không
nhiều. Vai trò của truyền hình cũng như công cụ tạo dựng các quan hệ xã hội, kết
nối các dân tộc, đem lại cho người dân cảm giác là một phần của đại gia đình Việt
15
Nam, rộng hơn là một phần của thế giới, bình đẳng và cùng tồn tại. Song bên
cạnh đó lại tiềm tàng một nguy cơ về sự phá vỡ những giá trị truyền thống. Tuy
không ít các phim truyền hình, hình ảnh của cuộc sống đô thị với tiện nghi hiện
đại dễ đưa đến những so sánh, nhất là lớp trẻ thường lấy phim ảnh làm thước đo
cho tiêu chuẩn sống. Dần dàn nền văn hoá của các dân tộc bị pha trộn và phá huỷ.
Điều dễ thấy nhất là nếp sinh hoạt cộng đồng truyền thống bị phá vỡ và con người
ngày càng gần với lối sống cá nhân ở phương Tây.
Người Chăm với những đặc điểm về phát triển tâm lý có những nhu cầu
riêng và là người tiếp nhận tích cực những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đồng thòi
cũng chịu tác động của phương tiện nghe nhìn nhiều nhất trên cả phương diện
tích cực và tiêu cực, là đối tượng cần quan tâm, nhưng chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về ảnh hưởng của truyền thanh, truyền hình
cũng như tác động văn hoá đối với người Chăm. Nhiều câu hỏi cần đặt ra: người
Chăm hiện nay có mối quan tâm như thế nào với truyền thanh, truyền hình? Nhu
cầu văn hoá của người Chăm ra sao? Các chương trình truyền thanh, truyền hình
nào được họ ưa thích và những ước mong của họ về truyền thanh, truyền hình
trong tương lai?... Những người làm chương trình truyền thanh, truyền hình cần
biết ý kiến của người Chăm để đáp ứng được nhu càu này và để chất lượng
chương ngày càng được nâng cao.
Người Chăm được đánh giá là cộng đồng nhạy bén và năng động, là cộng
đồng có mức sống khá ổn định so với cộng đồng thiểu số khác trong nước và
tương đối đồng đều, sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn của cộng đồng
Chăm không quá lớn. Hơn thế nữa, trong xu thế đô thị hoá nhanh chóng, sự cách
biệt này được rút ngắn. Đa số người Chăm đều sử dụng các phương tiện truyền
thông như truyền hình, radio và một số phương tiện nghe nhìn phổ biến khác như
đầu video, đầu đĩa hình, nên các phương tiện này thực sự là công cụ thông tin,
truyền bá kiến thức cũng như phục vụ giải trí cho nhiều người Chăm.
Người Chăm vốn có truyền thống của một xã hội nông nghiệp đang tiến
lên xã hội công nghiệp, việc sử dụng thời gian rảnh rỗi có những chuyển biến rất
cơ bản về tính chất và sự thay đổi đó tạo ra những sắc thái văn hoá mới. Trong xã
16
hội nông nghiệp thời gian rảnh rỗi thời vụ được sử dụng chủ yếu vào các hoạt
động hội hè, thời gian này thường kéo dài trong nhiều ngày và cả cộng đồng cùng
tham gia vào lễ hội và các trò chơi dân gian; thời gian rỗi của cá nhân trong ngày
được sử dụng cho các thú tiêu khiển như nuôi chim, ưồng hoa, cây cảnh hoặc
thăm thú lẫn nhau. Cách thức sử dụng đó hình thành trên tính chất bình lặng của
hoạt động kinh tế và tâm lý nhàn nhã trong cuộc sống. Trong xã hội công nghiệp,
các hoạt động kinh tế thương mại, dịch vụ, sản xuất... diễn ra liên tục quanh năm
ít nhiều đã và đang tác động vào đời sống kinh tế xã hội nên thời gian rỗi thời vụ
ngày càng ít có, vì thế, xã hội công nghiệp ít có những lễ hội kéo dài nhiều ngày
làm đình chỉ hoạt động kinh tể của xã hội như trong xã hội nông nghiệp. Nhưng
mặt khác do năng suất lao động tăng lên nên thời gian rỗi của mỗi cá nhân trong
xã hội công nghiệp tăng lên nhiều so với xã hội nông nghiệp; và cũng do tính chất
của nền kinh tế, việc sử dụng thời gian rỗi có một sự thay đổi sâu sắc. Nhịp điệu
tiến triển gấp gáp, những đòi hỏi gắt gao về năng lực và trình độ chuyên môn đã
tạo áp lực lớn đối với nhu cầu không ngừng nâng cao năng lực nghề nghiệp đã
cuốn hút cả thời gian rỗi. Con người trong xã hội công nghiệp sử dụng thời gian
rỗi một cách có kế hoạch và nhàm đến một mục tiêu cụ thể. Các hoạt động trong
thời gian rỗi ngoài mục tiêu giải trí và nghỉ ngơi còn hướng đến mục tiêu học tập
để không ngừng nâng cao sự hiểu biết, đến sự thưởng thức văn hoá, nghệ thuật,
đến sự mở rộng các quan hệ xã hội... Sự thay đổi cách thức sử dụng thời gian rỗi
phản ánh những đặc điểm văn hoá mới của xã hội, tạo ra các thói quen mới: học
thêm, đọc báo, đọc sách, nghe xem băng, nghe radio, xem truyền hình, chơi thể
thao, sinh hoạt nhóm, đi du lịch...
Văn hoá nghe nhìn là một hình thức văn hoá mới của xã hội công nghiệp
hiện đại, nó hình thành và phát triển dựa trên sự tiến bộ trong các kỹ thuật truyền
thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình và trên cơ sở xu hướng tâm lý mong muốn sử
dụng thời gian rỗi một cách có hiệu quả nhất cho sự nghỉ ngơi, thư giãn về tâm lý
cũng như thể chất và đồng thời đem lại những lợi ích thiết thực khác.
Trong những năm gàn đây, kỹ thuật truyền hình ngày càng phát triển đã
nâng cao chất lượng phát sóng. Sự nở rộ của các đài phát thanh truyền hình địa
17
phương cùng những nỗ lực áp dụng kỹ thuật hiện đại như tăng các kênh truyền
hình cáp, kỹ thuật số đã làm phong phú thêm cho chương trình nghe nhìn và theo
đó khán giả cũng được quyền lựa chọn những món ăn tinh thần theo sở thích của
mình. Song song với kỹ thuật phát triển, thị trường rộng mở của các phương tiện
nghe nhìn cũng đặt ra nhiều vấn đề về quản lý văn hoá, vấn đề quản lý việc lắp
đặt anten parabol.
Nói về truyền hình Việt Nam, khá nhiều ý kiến tập trung cho các chương
trình giải trí. Trước tiên, cần khẳng định có nhiều lời khen cho những tiến bộ gần
đây trong xây dựng chương trình: nhiều kênh, nhiều thể loại, nhất là từ khi truyền
hình cáp ra đời và sau đó giá thuê bao ngày càng rẻ hơn đã tạo điều kiện cho khán
giả tiếp thu nhanh các tin tức và mở mang tầm nhìn ra thế giới.
v ề phim truyền hình có thể tạm chia thành phim phóng sự, phim tài liệu và
phim truyện truyền hình. Phim phóng sự, tài liệu có phim dài và phim ngắn. Thật
ra chưa có quy chuẩn nào cho loại ngắn hay dài và cũng khó phân biệt ranh giới
rạch ròi giữa phim phóng sự tài liệu ngắn và một số đoạn phim minh hoạ tin tức.
Các phim này tạo nên thế mạnh cho các đài địa phương vì tính chất thời sự
“người thật việc thật” tại từng địa bàn và phù hợp với khả năng về nhân lực cũng
như kỹ thuật của các nhà đài. Đây thực sự là mảng phim phản ánh thực tế nhiều
mặt cuộc sống ở hầu khắp cả nước. Nó tuyên dương những gương tốt và cũng phê
phán những mặt trái, những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống như nạn tảo hôn, ma
tuý, buôn lậu, xuất khẩu lao động, sách giáo khoa... Trong mảng phim tư liệu với
đề tài văn hoá nghệ thuật, nhiều chân dung các nhà văn, nhà thơ, những người
hoạt động văn hoá, câu chuyện về các làng nghề, nghệ thuật truyền thống đưa lại
cho người xem nhiều điều lý thú. Sự tương đối đều tay của các thiên phóng sự
bàng hình ảnh cho thấy những nỗ lực của các đài địa phương và khoảng cách giữa
các đài đang được rút ngán. Song mặc dù các nhà làm phim tài liệu đã chịu khó đi
vào nhiều ngõ ngách của cuộc sống nhưng nhìn chung “chất lượng vẫn... giẫm
chân tại chỗ”. Tuy nhiều đề tài được khai thác nhưng cách thể hiện không có gì
mới, vẫn là kể bằng lòi rồi dùng hình ảnh minh hoạ.
THUỔNGĐẬIHOCMÍ ĨP-HCM
THƯ VIỆN
I
- Xem thêm -