Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội nhân dân việt nam hiện nay (nghiên c...

Tài liệu Văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội nhân dân việt nam hiện nay (nghiên cứu trường hợp học viện chính trị bộ quốc phòng, trường sĩ quan lục quân 1)

.PDF
246
23
69

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ VĂN TÁCH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Trường Sĩ quan Lục quân 1) LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ VĂN TÁCH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Trường Sĩ quan Lục quân 1) LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC Mã số: 9229040 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS VĂN ĐỨC THANH 2. PGS,TS LÂM QUỐC TUẤN HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Lê Văn Tách MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 9 1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị 9 1.2. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 21 1.3. Đánh giá chung và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 28 Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 34 2.1. Lý luận về văn hóa chính trị 34 2.2. Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 50 2.3. Khái lược về khách thể nghiên cứu 54 Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 66 3.1. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 3.2. Đặc điểm văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 66 104 Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 114 4.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 114 4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 126 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 165 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQP : Bộ Quốc phòng ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam HVCT : Học viện Chính trị NTQĐ : Nhà trường quân đội QĐND : Quân đội nhân dân QUTW : Quân ủy Trung ương TCN : Trước Công nguyên TSQLQ1 : Trường Sĩ quan Lục quân 1 VHCT : Văn hóa chính trị DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy 69 Bảng 3.2. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên 73 Bảng 3.3. Nhận định về triết lý chính trị của học viên 83 Bảng 3.4. Nhận định về chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của học viên 87 Bảng 3.5. Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên 88 Bảng 3.6. Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của học viên 94 Bảng 3.7. Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của học viên 95 Bảng 3.8. Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức của học viên Bảng 3.9. Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên 96 97 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1. Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị 68 của lãnh đạo, chỉ huy 71 Biểu đồ 3.3. Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên 72 Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị của giảng viên 75 Biểu đồ 3.5. Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên 76 Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt đông chính trị và thái độ chính trị của học viên Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị của học viên Biểu đồ 3.8. 79 Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế và thiết chế văn hóa chính trị của học viên Biểu đồ 3.9. 78 91 Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức trong nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội của học viên Biểu đồ 3.10. 93 Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên và học viên 100 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn hóa có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện của đời sống, giữ vai trò nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu đồng thời trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của con người. Thế giới quan và phương pháp luận mác xít khẳng định, trong mối quan hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể nhưng cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa. Vớí tính cách là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa, văn hóa chính trị (VHCT) là hệ giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, có vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng. Văn hóa chính trị giúp chủ thể cũng như thể chế, thiết chế chính trị giữ được sự ổn định, minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị, đặc biệt là trong điều kiện cầm quyền và thực thi quyền lực. Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian vừa qua đã chứng minh, những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới xuất phát từ việc Đảng ta nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò quan trọng của văn hóa nói chung và VHCT nói riêng. Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa [38, tr.91], những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa. Tuy nhiên, trong văn kiện, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ: So với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng [38, tr.44-45]. Những hạn chế yếu kém đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng do nhận thức về VHCT của chủ thể còn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng: “Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [9, tr.95]. 2 Đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa luôn được Quân uỷ Trung ương (QUTW) và Bộ Quốc phòng (BQP), trực tiếp là Tổng cục Chính trị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó nhận thức về văn hóa của quân nhân ngày càng được nâng lên; mỗi đơn vị quân đội thực sự là một pháo đài vững chắc về chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa trong nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã hội, xây dựng tổ chức đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đối với nhà trường quân đội (NTQĐ) (trong luận án, nghiên cứu sinh sử dụng cụm từ NTQĐ thay cho nhà trường QĐND Việt Nam để đảm bảo ngắn gọn và tạo sự thống nhất trong cách gọi tên), nơi đào tạo đội ngũ sĩ quan, những người có vai trò hết sức quan trọng, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và VHCT nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa mang tính đặc thù của hoạt động quân sự, vừa mang tính sư phạm, vì vậy ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phát huy vai trò VHCT, với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong tình hình hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT trong NTQĐ đã và đang đặt ra những thách thức với những khó khăn, trở ngại: nhận thức của các chủ thể về văn hóa nói chung và VHCT nói riêng chưa thật đầy đủ, thiếu sâu sắc, chưa thực sự đi vào chiều sâu bản chất; các giá trị VHCT chưa được phát huy; thực tiễn hoạt động văn hoá và VHCT còn thiếu sự thống nhất, mang tính hình thức, nhất thời, không có sự gắn kết với tình hình chung của đất nước, quân đội và đặc điểm của mỗi trường, thậm chí cực đoan, với các biểu hiện: suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham nhũng; nói nhiều làm ít; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chất lượng đào tạo của NTQĐ có mặt chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là nguyên nhân dẫn đến những hệ lụy như: tư tưởng ngại học, ngại rèn, tâm lý đám đông, sự vô cảm, tình trạng bạo lực, quân phiệt gia tăng; những giá trị truyền thống không được bảo lưu đầy đủ và phát huy; tiếp nhận và phổ biến tràn lan những hiện tượng núp dưới danh nghĩa cái mới, cái hiện đại một cách thiếu chọn lọc ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và tác động xấu đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị. Thực trạng đó không chỉ tác động tiêu cực 3 đến đời sống của quân nhân trong NTQĐ mà nghiêm trọng hơn có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng trong tình mới. Những khó khăn, thách thức đặt ra ở trên chỉ có thể được giải quyết triệt để khi chủ thể VHCT trong NTQĐ nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo các quy luật trong xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu thúc đẩy, nâng cao VHCT nói riêng phù hợp với môi trường sư phạm quân sự, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, đã đến lúc cần thiết phải có những nghiên cứu cơ bản, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong NTQĐ hiện nay. Xuất phát từ những tiền đề nêu trên, cho phép khẳng định, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay dưới góc độ văn hóa học là hướng nghiên cứu mang tính khả thi, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, là vấn đề vừa mang tính cấp thiết vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó rút ra một số vấn đề về VHCT trong NTQĐ hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến VHCT trong nhà trường quân đội. - Làm rõ lý luận về VHCT trong nhà trường quân đội. - Khảo sát và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện nay. - Dự báo những yếu tố tác động, nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT trong NTQĐ hiện nay, với tính cách là một thiết chế văn hóa đặc thù trong môi trường sư phạm quân sự. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Văn hóa chính trị trong NTQĐ, trong đó chủ yếu tập trung mô tả và khảo sát trên các biểu hiện: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị. 4 - Phạm vi không gian: luận án lựa chọn khách thể nghiên cứu là NTQĐ, trong đó tập trung khảo sát và đánh giá ở hai trường điển hình của quân đội về hai loại hình đào tạo: cán bộ chính trị và cán bộ quân sự, ở hai cấp độ đào tạo là cấp học viện và cấp trường sĩ quan, đó là: Học viện Chính trị (HVCT) và Trường Sĩ quan Lục quân 1 (TSQLQ1), trong đó có so sánh với Học viện Phòng không - Không quân. - Phạm vi thời gian: số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu khảo được sát trong giai đoạn từ 2016 - 2019. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận án được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) về văn hóa và con người; về giáo dục, đào tạo và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP, Tổng cục Chính trị, các văn bản của NTQĐ để khảo sát, đánh giá làm rõ bản chất, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ hiện nay. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Xuất phát từ nhận thức, nghiên cứu văn hóa hay văn hóa học là chuyên ngành khoa học về văn hóa, mang tính tổng hợp và liên ngành, luận án sử dụng tập hợp các quan điểm mang tính chất lý luận chuyên ngành văn hóa học và các phương pháp liên ngành như: triết học văn hóa, xã hội học văn hóa, nhân học, chính trị học, giáo dục học và tâm lý học. Quá trình vận dụng các phương pháp, luận án sử dụng một cách linh hoạt, tổng hợp các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học như: phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, mô tả, chứng minh, lý giải để làm rõ những nội dung nghiên cứu. - Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp này nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về vấn đề nghiên cứu, làm nền tảng cho việc xây dựng mục tiêu, phương hướng của đề tài. Đây là phương pháp được sử dụng xuyên suốt của đề tài từ khi hình thành ý tưởng cho tới khi hoàn thành nghiên cứu. Đồng thời, các thông tin cũng sẽ được sử dụng vào quá trình thực hiện đề tài nhằm miêu tả, làm rõ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay, trên cơ sở đó rút ra những nhận định khoa học nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Các nguồn tài liệu bao gồm các bài viết trong tạp chí, tư liệu từ internet có liên quan đến VHCT trong NTQĐ hiện nay; các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm, 5 nhiệm kỳ của NTQĐ, của một số bộ, ngành có liên quan; trong đó tập trung chủ yếu là các báo cáo tổng kết tại HVCT, TSQLQ1 và Học viện Phòng Không - Không quân. - Phương pháp quan sát, phỏng vấn và điều tra xã hội học Phương pháp quan sát là một phương pháp bổ trợ được sử dụng để thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu thông quan tri giác trực tiếp và ghi chép trung thực những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong luận án, nghiên cứu sinh sử dụng cách thức quan sát công khai và không công khai, quan sát cơ cấu hóa và quan sát phi cơ cấu hóa để mô tả đối tượng, để kiểm tra giả thuyết và kiểm tra thông tin từ các phương pháp khác, nhằm làm rõ hơn và bổ sung các thông tin mà tác giả thu thập được. Nội dung quan sát chủ yếu tập trung vào các khía cạnh về hoạt động giảng dạy, học tập, các hoạt động định hướng, rèn luyện giá trị văn hóa cho học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay. Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp của người đi hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục đích nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu không phải để tìm hiểu một cách đại diện về tổng thể mà giúp nhà nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là một trong những phương pháp thu thập thông tin quan trọng bởi vì có rất nhiều thông tin định lượng chỉ thực sự có ý nghĩa khi những thông tin đó kết hợp với những thông tin định tính thu được từ phỏng vấn sâu. Nghiên cứu phỏng vấn 30 trường hợp tại hai đơn vị là HVCT và TSQLQ1 trong đó bao gồm các đối tượng là giảng viên và học viên cung cấp những thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu của luận án. Cụ thể 10 trường hợp đối với học viên, 20 trường hợp đối với giảng viên, cán bộ quản lý ở hai trường khảo sát nhằm để thu thập những ý kiến đánh giá của họ về thực trạng định hướng VHCT và tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong việc nâng cao VHCT cho các chủ thể. Thời gian cho một cuộc phỏng vấn tùy thuộc vào từng tiêu chí và đặc điểm đối tượng được phỏng vấn. Công cụ thu thập thông tin là bản hướng dẫn phỏng vấn sâu đã được thiết kế sẵn [PL 2, tr.171-173]. Toàn bộ thông tin thu thập, sẽ được tiến hành tổng quan, sắp xếp, chia tư liệu thành các chủ đề với các tiêu chí về nội dung thông tin, cuối cùng là chọn lọc các thông tin có giá trị để làm luận cứ, luận chứng cho luận án. 6 Điều tra bằng bảng hỏi là cách thức thu thập thông tin được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu điều tra xã hội học. Với những ưu điểm của phương pháp này như: cho phép thu thập thông tin từ những tổng thể có quy mô lớn, có tính đại diện cao, xét trong điều kiện thực hiện luận án là phù hợp nên nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo để thu thập thông tin cho nghiên cứu này. Đây là dữ liệu quan trọng để phân tích trong chương 3 và chương 4 của luận án. * Cách thức chọn mẫu Lựa chọn xuất phát từ thực tế khách quan trong nghiên cứu, hiện nay hệ thống các nhà trường QĐND Việt Nam được tổ chức rất đa dạng với số lượng trên hàng trăm nhà trường. Vì vậy, tác giả chỉ lựa chọn hai nhà trường điển hình cụ thể theo mục tiêu nghiên cứu của luận án là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (đại diện khối học viện và thuộc nhóm trường chính trị) và Trường Sĩ quan Lục quân 1 (đại diện cho khối trường sĩ quan, thuộc nhóm trường quân sự) để khảo sát và đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay. * Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức sau: Trong đó: N là số người cần điều tra Z12 / 2 hệ số tin cậy = 1,96 với độ tin cậy 95% (xác xuất α = 0,05) p = 0,5 là tỷ lệ học viên đang học tập tại hai địa bàn nghiên cứu. d là sai số chấp nhận bằng 5% Như vậy, cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu mô tả theo công thức tính toán tối thiểu là 300 mẫu để khảo sát. Đây là cỡ mẫu tối thiểu cho phép phân tích thống kê. Để tránh trường hợp đối tượng phỏng vấn từ chối trả lời, nghiên cứu sinh lấy thêm 40 mẫu dự phòng trong cùng một danh sách chọn mẫu. Bằng cách này, nghiên cứu đã đảm bảo được số lượng mẫu cần thiết 300 mẫu được khảo sát tại hai trường. Đặc điểm của mẫu khảo sát và người cung cấp thông tin được thể hiện trong (Phụ lục 3). Công cụ thu thập thông tin là bảng hỏi được thiết kế theo một trình tự lôgic, gồm 7 câu hỏi (Phụ lục số 1). Tiến hành điều tra 300 mẫu, nhằm làm rõ thêm thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay. 7 * Cách thức xử lý thông tin: Sau khi khảo sát và thu về được 300 đơn vị mẫu. Toàn bộ thông tin thu được từ bảng hỏi sẽ được tổng hợp, mã hoá, nhập, làm sạch và sẽ được xử lý qua phần mềm SPSS version 22.0 theo các biến số cơ bản. Kết quả cho thấy, nhìn chung chất lượng số liệu đảm bảo độ tin cậy, logic, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nghiên cứu. Trong luận án, tác giả sử dụng hệ số tương quan Pearson, mô hình hồi quy logit nhị phân (Binary Logistic) để phân tích sự tương quan giữa các yếu tố, kiểm định giả thuyết. H0: không có mối quan hệ giữa các biến. H1: có mối quan hệ giữa các biến. Dựa vào giá trị p (p-value) để kết luận là chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0 dựa trên mức độ tin cậy nhất định (thông thường p <0,05). p-value (sig.) ≤ α (mức ý nghĩa 0,05)  bác bỏ giả thuyết H0. Có mối quan hệ có ý nghĩa giữa các biến cần kiểm định. p-value (sig.) > α (mức ý nghĩa 0,05)  chấp nhận H0. Không có mối quan hệ giữa các biến cần kiểm định. * Các biến số độc lập được sử dụng Các biến số độc lập được xem xét bao gồm: độ tuổi, cấp bậc quân hàm, học viên năm mấy, trường đang học, điều kiện sống của gia đình học viên, nơi ở của học viên sinh sống (trước khi học tập), v.v.. - Phương pháp chuyên gia Phương pháp này giúp nghiên cứu sinh có được những ý kiến tham khảo và định hướng từ các chuyên gia có trình độ cao và có những kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về những vấn đề liên quan để xem xét, nhận định, đánh giá về VHCT trong NTQĐ, đồng thời cũng là điều kiện để tác giả kiểm chứng và khắc phục những hạn chế trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về lý luận - Góp phần quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách khoa học, sáng tạo quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng. 8 - Luận án hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT; đưa ra quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và đặc điểm VHCT trong NTQĐ hiện nay dưới góc độ văn hóa học. 5.2. Về thực tiễn - Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó rút ra những vấn đề làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cán bộ quân đội. - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong NTQĐ, đồng thời luận án có thể được sử dụng như một tài liệu bổ trợ giúp nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng trong môi trường quân đội. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết, trong đó: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. Chương 2: Lý luận về văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam và khái lược về khách thể nghiên cứu. Chương 3: Thực trạng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Chương 4: Những yếu tố tác động và một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ 1.1.1. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là một thực thể xã hội Tiếp cận nghiên cứu VHCT với tính cách là một khoa học chỉ thực sự bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX và được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu chính trị của châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT đã xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của con người. Khởi đầu của tư tưởng về VHCT xuất phát từ việc tìm hiểu và giải thích bản chất và cách thức của sự cai trị (thuật cai trị) hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực của các nhà tư tưởng cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông. Ở phương Tây, từ các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại (thế kỷ V- TCN) cho đến các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII), VHCT được xem xét như là đối tượng nghiên cứu của triết học, nghĩa là được nghiên cứu với tính cách một thực thể xã hội. Các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại tiêu biểu như Platon (428 - 348, TCN), Aristotle (384 - 322, TCN) là những người đầu tiên tiếp cận VHCT và đưa ra quan niệm chính trị vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật. Có thể nói, Platon và Aristotle được xem là những người đi đầu trong cách tiếp cận VHCT truyền thống phương Tây khi đặt ra được vấn đề quan điểm, thái độ ứng xử của con người đối với quyền lực, đồng thời định hướng cách thức làm thế nào để quản lý tốt các mối quan hệ xã hội; khẳng định vai trò của chính thể đối với người dân là thực sự quan trọng. Nếu như trong tác phẩm “Nền cộng hòa” (The Republic), Platon đã cho rằng, các chế độ chính trị truyền thống cần thiết phải được điều hành bằng một tầng lớp cầm quyền mới, đó là các nhà triết học được giáo dục tốt, bởi vì suy cho cùng mục đích của triết học là xây dựng nhà nước lý tưởng, trong khi nhân cách của con người chỉ có thể được hoàn thiện trong một tổ chức nhà nước thực sự hợp lý, thì Aristotle lại cho rằng, chính trị có vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại của con người và khẳng định “con người là động vật chính trị”. Chính trị và luân thường có sự liên kết chặt chẽ với nhau, một đời sống có đạo đức chỉ thực sự có ở những người tham gia vào đời sống chính trị, mục đích cao nhất của chính trị và sứ 10 mệnh của người cầm quyền là không chỉ đảm bảo quyền sống mà còn đặt ra yêu cầu đòi hỏi phải làm thế nào để có được sống tốt hơn. Các thể chế chính trị có nguy cơ bị tha hóa nếu quyền lực không thực sự thuộc về quần chúng, Aristotle đã sử dụng từ “demosthe” (quần chúng, dân thường) thay vì “democracy” (dân chủ) và “ochlocracy” (chính quyền quần chúng hay thường dân cai trị). Coi trọng và đề cao vai trò của các nhà triết học - những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội, Platon cho rằng: “Loài người sẽ không tránh được cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa giữ được các chức trách nhà nước hoặc là các nhà cầm quyền chưa trở thành các nhà triết học chân chính” [dẫn theo 149, tr.19]. Triết gia người Italia N.B Machiavelli (1469 - 1527) - “một trong những người khổng lồ của thời đại Phục hưng” (chữ dùng của F. Engels), trong luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị qua tác phẩm “Quân vương” (The Prince) đã đề nghị cần có một tầm nhìn thế giới về chính trị đồng thời lên án quan điểm đạo đức truyền thống của giới cầm quyền với những hành vi chính trị xảo quyệt và thủ đoạn. N.B Machiavelli đã phê bình mạnh bạo tư tưởng duy lý phi tôn giáo, lòng căm ghét bọn quý tộc ăn bám và thể hiện khát vọng muốn xây dựng Italia thành một quốc gia thống nhất, tự do, bình đẳng với một chính quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây dựng trật tự mới. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo đương thời tiếp thu và thực hiện. Thời kỳ Khai sáng, thế kỷ XVIII cùng với sự bùng nổ của các tư tưởng triết học, các học thuyết chính trị xã hội cũng xuất hiện hết sức đa dạng và phong phú với các tên tuổi như: J. Loker; D. Diderot; S. L. Montesquieu; J. Rousseau... Tư tưởng về VHCT của S. L. Montesquieu (1689 - 1755) thể hiện ở chủ trương tam quyền phân lập nhằm giữ vững cán cân quyền lực. Đây là tư tưởng tiến bộ đương thời vì đã loại bỏ tư tưởng và tàn dư của chế độ phong kiến đồng thời cũng thể hiện tư tưởng VHCT cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng của S. L. Montesquieu. Với J. Rousseau (1712 - 1778), quyền lực phải thuộc về nhân dân thông qua đại diện và luật pháp không phải do các cơ quan đại diện ban hành mà phải do dân chúng trực tiếp lập ra. Mục tiêu của chính quyền nhà nước là phải bảo đảm tự do, bình đẳng và công bằng cho tất cả mọi người. Theo J. Rousseau, triết học chính trị gắn liền với đạo đức, nhà nước không thực hiện được các giá trị đạo đức thì sẽ không thực hiện đầy đủ 11 các chức năng vốn có của mình. Có thể nói, tư tưởng chính trị của J. Rousseau đã thể hiện tinh thần cấp tiến hơn so với các nhà tư tưởng đương thời. Theo dòng thời gian, thuật ngữ VHCT được biết đến lần đầu tiên khoảng cuối thế kỉ XVIII ở châu Âu do các nhà triết học, chính trị học sử dụng. Triết gia cổ điển Đức I. G. Gerzer (1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa văn hóa và chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín muồi của VHCT” hay “những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương pháp triết học lịch sử nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1]. Tuy nhiên phải đến thập niên 50 - 60 của thế kỉ XX, VHCT mới được quan tâm như một lĩnh vực nghiên cứu mang tính độc lập và khái niệm VHCT mới thực sự gia nhập vào hệ thống khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị gắn với tên tuổi của hai nhà chính trị học nổi tiếng người Mỹ là G. Almond và S.Verba. Theo quan niệm của họ, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, vì vậy khi xem xét hành vi chính trị phải tính đến các nhân tố văn hóa, tâm lý cá nhân và của toàn xã hội. Trong tài liệu nghiên cứu “Các hệ thống chính trị so sánh” (Comparative Political Systems), năm 1956 [164], G.Almond cho rằng, văn hóa của cộng đồng có ảnh hưởng đến hệ thống chính trị của các cộng đồng đó và ông sử dụng thuật ngữ “VHCT” (Political Culture) để so sánh, đối chiếu sự khác biệt giữa các nền chính trị. Theo G. Almond “Mỗi hệ thống chính trị đều bắt rễ từ trong một loại định hướng xác định riêng, tôi phát hiện thấy điều này rất hữu dụng và gọi nó là văn hóa chính trị” [164, tr.15]. Năm 1963 G Almond và S. Verba đã xuất bản một trong những tác phẩm được xem là kinh điển cho nghiên cứu VHCT ở phương Tây là “Văn hóa công dân” (The Civic Culture) [166], trong đó cho rằng, VHCT bao gồm các yếu tố nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và giá trị chính trị đồng thời đưa ra ba loại hình cơ bản của VHCT trong lịch sử là văn hóa bộ lạc, văn hóa thần thuộc, văn hóa tham dự hay còn gọi là văn hóa công dân. Một trong những nhà nghiên cứu chính trị hàng đầu của Mỹ thế kỷ XX là L. Pye trong khi biên soạn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế” (International Encyclopedia of the Social Sciences) vào năm 1961 [169] đã đưa ra định nghĩa về VHCT như sau: “VHCT là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể”, đồng thời khẳng định: “VHCT là sản phẩm bao gồm lịch sử 12 tập thể của hệ thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó, do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [169, tr.220]. Ở phương Đông, Nho giáo đã mở đầu cho việc tiếp cận VHCT với tính cách là một thực thể xã hội. Bằng mệnh đề: “việc chính trị cốt ở chính tâm của người trị dân” [79, tr.429], Khổng Tử (551 - 479 TCN) cho rằng, những người trị dân là những “chính nhân quân tử”, khác với hạng “ tiểu nhân” và ông luôn đề cao vai trò, trách nhiệm của những người “quân tử” hay “người hiền”. Quốc gia có “thái bình thịnh trị” hay không phụ thuộc vào việc giữ “Lễ”, tuân theo “Đạo” hay sự chính danh của người “quân tử” và yêu cầu phải giữ được “tam cương, ngũ thường”, đó chính là “văn trị” (cai trị bằng văn) nghĩa là, chính trị phải có văn hóa. Học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng Tử đã thể hiện rõ nét quan niệm về VHCT của ông, ở đó chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng đến VHCT của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng “văn trị” của Khổng Tử tiếp tục được các thế hệ học trò của ông kế thừa và phát triển, trong số đó, phải kể đến Mạnh Tử (372 - 289 TCN), với tư tưởng “văn trị giáo hóa” và được hiểu là chính trị gắn với giáo dục. Theo Mạnh Tử, “chính giỏi không thể tranh thủ được dân bằng giáo giỏi. Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu” [32, tr.308]. Mạnh Tử là người đề xuất chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, ông cũng là người đưa ra thuyết “tính thiện” của con người rằng con người sinh ra đã là “thiện” rồi, “nhân chi sơ bản tính thiện”, tư tưởng này đối lập với thuyết “tính ác” của Tuân Tử rằng “nhân chi sơ bản tính ác”. Ông cho rằng “kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị”. Học thuyết của ông được gói gọn trong các chữ “Nghĩa”, “Trí”, “Lễ”, “Tín”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người “quân tử” phải có “hạo nhiên chính khí”, cần “lấy Đức thu phục người khác”, theo ông “người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù nào” [dẫn theo 149]. Vào thời kỳ “Bách gia chư tử”, ở Trung Hoa, Lão Tử (580 - 500, TCN) cũng được xem là tư tưởng gia lỗi lạc trong việc đề xuất chủ trương cai trị với phương châm “vô vi nhi trị”, nghĩa là cai trị bằng cách không cai trị. Trong cuốn “Lão Tử - Đạo đức kinh” [76] - cuốn sách hướng dẫn dành cho các vị vua về thuật cai trị đất nước như thế nào cho hợp với “Đạo”, ông cho rằng: “Không tán dương người quyền quý thì người dân không tranh tụng” và “Không đề cao giá trị đồ quý thì người dân không tranh cướp”. Như vậy, Lão Tử đã thể hiện một quan niệm mới trong cách ứng xử chính trị của bậc trị nước và đây cũng chính là cách tiếp cậnVHCT của ông. 13 Vào cuối thời Chiến quốc, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại và cũng là một trong số “Bách gia chư tử” đã xuất hiện đó là Hàn Phi, hay còn được biết đến với tên gọi là Hàn Phi Tử (281 - 233, TCN). Là học trò của Tuân Tử (313 - 238, TCN), Hàn Phi theo thuyết “tính ác” của thầy một cách triệt để và cho rằng, con người bẩm sinh vốn “đại ác”, do đó ông không bàn đến “Nhân”, “Nghĩa”, cũng không trọng “Lễ” như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng “Thế”, dùng “Thuật”, dùng “Luật” của Pháp gia để trị nước. Khác với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì phải dùng “Nhân trị” và “Đức trị”), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: “Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu”. Bộ sách “Hàn Phi Tử” [152] được xem là bộ sách chính trị học vĩ đại, học thuyết chính trị của ông được người xưa tụng ca là “đế vương chi học”. Xét theo khía cạnh VHCT, tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử đã có những tiến bộ nhất định và ảnh hưởng tích cực đến đời sống chính trị xã hội không chỉ dừng lại ở Trung Hoa cuối thời Chiến quốc. Tại Ấn Độ, thời kỳ cổ đại do ảnh hưởng của giáo lý Bà La Môn, bộ Luật Manu xuất hiện (vào thế kỷ II, TCN) đã có những quy định chi tiết về cách ứng xử và địa vị của từng đẳng cấp trong xã hội. Đây thực chất là những luật lệ, những tập quán thể hiện thế giới quan của giai cấp thống trị được tập hợp lại dưới dạng trường ca. Nội dung của bộ luật Manu không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn tập trung vào những vấn đề trong kiến trúc thượng tầng của xã hội Ấn Độ cổ đại đương thời như: chính trị, tôn giáo và thế giới quan, vũ trụ quan. Những quy định khắt khe mang tính phân biệt đối xử của bộ luật Manu làm cho xã hội Ấn Độ cổ đại bị phân hóa sâu sắc. Trong bối cảnh đó, Phật giáo ra đời (thế kỷ VI - IV, TCN) với chủ trương từ bi, hỷ xả nhằm cứu rỗi và xóa bỏ những kỳ thị về đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ đương thời. Có thể nói, cùng với bộ luật Manu và sự ra đời của Phật giáo đã thể hiện sự tiếp cận VHCT trong lịch sử văn hóa - văn minh của Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói chung. Như vậy, cùng với sự xuất hiện của chính trị khi chế độ Công xã thị tộc tan rã thì sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT cũng được đề cập hết sức phong phú và đa dạng trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng của cả phương Đông và phương Tây từ cổ đại đến hiện đại. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu và độc lập
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan