TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
KHOA NGÔN NGỮ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT KHMER NAM BỘ
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY
MÔN VĂN HÓA ẨM THỰC VÀ TRANG PHỤC
CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
GV biên soạn:
Nguyễn Đình Chiểu
Thạch Thị Rọ Mu Ni
Trà Vinh, 8/2017
Lưu hành nội bộ
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
BÀI 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 1
1.1. Cơ sở hình thành văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam
Bộ ...................................................................................................................... 1
1.1.1. Không gian văn hóa ............................................................................. 1
1.1.2. Khái quát về người Khmer Nam Bộ .................................................... 4
1.1.2.1. Đặc điểm tộc người Khmer Nam Bộ ................................................ 4
1.2.2.2. Kinh tế .............................................................................................. 8
1.2.2.3. Xã hội - Văn hóa - Giáo dục............................................................. 9
1.2. Một số khái niệm ...................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm về ẩm thực và văn hóa ẩm thực ....................................... 12
1.2.2. Khái niệm về trang phục và văn hóa trang phục ............................... 13
1.3. Sơ lược về văn hóa ẩm thực và trang phục của các tộc người ở Nam Bộ
......................................................................................................................... 14
Bài 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA ẨM THỰC VÀ TRANG PHỤC CỦA
NGƯỜI KHMER NAM BỘ ............................................................................. 28
2.1. Đặc điểm văn hóa ẩm thực của người Khmer Nam Bộ ........................... 28
2.2. Đặc điểm văn hóa trang phục của người Khmer Nam Bộ ....................... 38
2.2.1. Trang phục tôn giáo (Tăng phục) .......................................................... 38
2.2.2. Trang phục thường ngày ....................................................................... 48
2.2.3. Trang phục lễ cưới của người Khmer ................................................... 50
2.2.4. Trang phục sân khấu ............................................................................. 55
2.2.5. Trang phục của người Khmer trong lễ hội .................................... 41
BÀI 3: VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRONG ẨM THỰC VÀ TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY....................................................................... 67
3.1. Giá trị văn hóa của ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ ... 67
3.2. Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ truyền thống
và biến đổi ....................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 73
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
BÀI 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Mục tiêu học tập: Sau khi học xong bài này, người học có thể:
- Trình bày khái quát cơ sở hình thành văn hóa ẩm thực và trang phục của
người Khmer Nam Bộ.
- Trình bày các đặc điểm văn hóa của người Khmer Nam Bộ.
- Trình bày khái quát về văn hóa ẩm thực và trang phục của các dân tộc ở
Tây Nam Bộ.
1.1. Cơ sở hình thành văn hóa ẩm thực và trang phục của người
Khmer Nam Bộ
1.1.1. Không gian văn hóa
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng bao gồm các tỉnh Long An, Tiền
Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang với tổng diện tích tự nhiên
40.000 km2.
Nguồn: internet
- Vị trí địa lý
Nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, liền kề với vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam nên vùng có mối quan hệ hai chiều rất chặt chẽ và quan trọng.
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
1
Phía tây giáp với Campuchia và cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu
hợp tác với các nước trrong khu vực. ĐBSCL có bờ biển dài 73,2 km và nhiều
đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc là vùng đặc quyền kinh tế giáp biển
Đông và vịnh Thái Lan.
ĐBSCL nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không
quốc tế giữa Nam Á và Đông Nam Á cũng như với châu Úc và các quần đảo
khác trong Thái Bình Dương.
- Địa hình
ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những
kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành
những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển
đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo những con đê ven sông,
một số giồng cát ven biển và đất phèn trên
trầm tích đầm mặn trũng thấp như:
vùng Đồng
Tháp
Mười, tứ
giác
Long
Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán
đảo Cà Mau. Địa hình của vùng tương đối
bằng phẳng, độ cao trung là 3 - 5m, có khu
vực chỉ cao 0,5 - 1m so với mặt nước biển.
- Khí hậu
ĐBSCL có khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo thể hiện rõ rệt.
Nhiệt độ trung bình hàng năm 24 – 270 C, biên độ nhiệt trung bình năm 25 –
300C, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm thấp, ít có bão hoặc nhiễu loạn thời tiết.
Có hai mùa rõ rệt, mùa mưa tập trung từ tháng 5 - 10, lượng mưa chiếm tới 99%
tổng lượng mưa của cả năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, hầu như
không có mưa.
Có thể nói các yếu tố khí hậu của vùng thích hợp cho các sinh vật sinh
trưởng và phát triển, là tiền đề cho việc sản xuất nông nghiệp của các cư dân
sinh sống nơi đây..
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
2
- Đất đai
Diện tích đất trong vùng bao gồm các nhóm đất sau:
+ Đất phù sa: Phân bố chủ yếu ở vùng ven và giữa hệ thống sống Tiền và
sông Hậu. Nhóm đất này có độ phì nhiêu cao và cân đối, thích hợp đối với nhiều
loại cây trồng lúa, cây ăn quả, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
+ Nhóm đất phèn: Phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và Hà Tiên, vùng
trũng trung tâm bản đảo Cà Mau. Đất có hàm lượng độc tố cao, tính chất cơ lý
yếu, nứt nẻ nhanh.
+ Nhóm đất xám: phân bố chủ yếu dọc biên giới Campuchia, trên các
bậc thềm phù sa cổ vùng Đồng Tháp Mười. Đất nhẹ, tơi xốp, độ phì thấp, độc tố
bình thường.
+ Ngoài ra còn có các nhóm đất khác như đất cát giồng, than bùn, đất
đỏ vàng, đất xói mòn… chiếm diện tích không đáng kể trên toàn vùng.
+ Nhìn chung đất đai ở đây rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
thích hợp trồng lúa, dừa, mía, dứa, cây ăn quả.
- Tài nguyên nước
Vùng đất Nam Bộ nằm ở hạ lưu sông Mê Kông là hai nhánh sông Tiền và
sông Hậu tổng lượng nước sông Cửu Long là 500 tỷ mét khối. Mùa mưa nước
sông lớn vào tháng 9, tháng 10 làm ngập các vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ
giác Long Xuyên. Về mùa này, nước sông mang nhiều phù sa bồi đắp cho đồng
bằng. Về mùa khô, lượng nước giảm nhiều,
thuỷ triều lấn sâu vào đồng bằng làm vùng đất
ven biển bị nhiễm mặn nghiêm trọng. Lưu
vực sông Cửu Long chế độ nước ngầm khá
phức tạp, phần lớn ở độ sâu 100 mét. Nếu
khai thác quá nhiều có thể làm nhiễm mặn
trong vùng.
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
3
1.1.2. Khái quát về người Khmer Nam Bộ
1.1.2.1. Đặc điểm tộc người Khmer Nam Bộ
Theo các tư liệu lịch sử để lại thì tên tộc người Khmer vùng Đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay (về sau gọi là Khmer Nam Bộ) được gọi tương đối
thống nhất, từ xưa đến nay là dân tộc Khmer.
Hình 1.1: Bản đồ cư trú của người Khmer Đồng bằng sông Cửu long1
Tuy nhiên, để phân biệt giữa người Khmer Việt Nam với người Khmer
Campuchia, Lào, Thái Lan... Triều đình phong kiến nhà Nguyễn xưa và các chế
độ trước đây (Pháp, Việt Nam Cộng Hoà) đã từng gọi người Khmer ở Việt Nam
bằng những tên gọi khác nhau2. Tên đó phụ thuộc vào cách nhìn nhận và quan
điểm của giai cấp cầm quyền, nó thể hiện cả trong văn bản pháp lý cũng như
trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Thời nhà Nguyễn gọi là Miên. Đây là cách
gọi xuất phát từ âm tiếng Hán được Việt hoá, theo cách gọi của người Hoa, thì
họ gọi người Khmer là người Khám - Miến - Nám, sau đọc trại thành Miên.
Miên, thực không có ý nghĩa xấu, chữ Miên trong văn bản triều Nguyễn còn có
nghĩa là “Lụa”. Còn chế độ cũ gọi họ là Thổ. Thời kỳ đấu tranh chống chế độ
thực dân, phong kiến thì Đảng cộng sản Việt Nam, trong các văn bản chính thức
của mình, gọi người Miên, Thổ là người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. Tên
1
Nguồn: Đinh Lê Thư (chủ biên) 2005 Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb
ĐHQG TP.HCM , tr.15
2
Theo Đoàn Văn Nô (1995), Người Khmer ở Kiên Giang, NXB VHDT.
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
4
này được đồng bào người Việt cũng như giới sư sãi, người Khmer đồng tình và
hiện đang được sử dụng rộng rãi.
Về phía người Campuchia hiện nay gọi người Khmer Đồng bằng sông
Cửu Long là Khmer Crôm tức là Khmer vùng dưới, để phân biệt với Khmer Lơ
(Khmer vùng trên) tức là những người Khmer sống ở vùng cao (Đông Bắc
Campuchia) và Khmer honhđal (vùng giữa) tức là những người Khmer hiện
đang sinh sống tại miền Trung Campuchia hiện nay.
Như trên đã nói, tuỳ từng giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử nhất định mà
người Khmer có những tên gọi khác nhau, nhưng nhìn chung từ sau 30/04/1975
đến nay, người ta đã thống nhất và quen gọi những người Khmer ở Đồng bằng
sông Cửu Long là người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long (Nam Bộ).
Tuy nhiên, để “minh định rạch ròi” vấn đề nguồn gốc và tên gọi (như
chữ dùng của nhà nghiên cứu Thạch Voi)2 chúng tôi trích dẫn một thành tựu
khoa học đã được công bố trên tạp chí khoa học và đời sống xuất bản ở Pháp
vào tháng 10 năm 1974, số 585, trang 84-87, để làm rõ vấn đề. Trong bài viết
của mình, Ông Perre Rossion đã giới thiệu thành tựu của khoa huyết chủng học,
nghiên cứu về tính chất di truyền của máu huyết. Nhờ vào đó mà giáo sư Ruffié
đã khám phá ra lịch sử của các sắc dân còn nằm trong nhiều nghi vấn phức tạp
bởi thiếu cứ liệu, chứng tích lịch sử. Không phải trong phạm vi cá nhân, mà
trong mức độ của một dân tộc đã cho phép xác định, lập những dấu ấn của dân
tộc đó. Những yếu tố máu đã được phát hiện là ABO, RHÉSUS, KELL,
DIÉGO, SUT, TER, UIa, HBE, HBC. Từ đó, ông thành lập bản đồ chủng loại
máu này hoàn toàn mới mẻ và thấy loại huyết cầu HBE rất dồi dào trong người
Khmer đến 28%. Bằng cách xác định sự phân phối và tỉ lệ của nó, người ta tìm
lại được những biên giới của đế quốc xa xưa đã chiếm cứ Lào ở thế kỷ 12, Nam
Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai (Malaysia bây giờ - người viết) và hạ Miến Điện
(nam Myanmar hiện tại - người viết). Người ta ghi nhận huyết cầu này đã hiện
diện ở miền Nam Việt Nam nhiều hơn ở miền Bắc Việt Nam. Chứng minh khoa
2
Viện văn hoá (1993), Văn hoá người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Dân Tộc, tr.20
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
5
học này cho phép xác định người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
và người Khmer ở Campuchia là cùng một nguồn gốc.3
Hiện chưa có công trình nào thống kê dân số ở Nam Bộ nói chung và
người Khmer nói riêng qua các thời kỳ, nhưng có thể chắc chắn rằng trong thời
kỳ khai khẩn vùng đất Nam Bộ, quá trình cộng cư lâu dài và liên tục của các tộc
người vùng này cùng với yếu tố sinh thái môi trường đã tạo nên những nét độc
đáo mang tính bản sắc của người Khmer Nam Bộ so với các tộc người khác và
với những người đồng tộc ở Campuchia.
Dưới triều nhà Nguyễn tổng số người Việt gốc Miên (Khmer) không quá
150.000 người.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược Miền Nam Việt Nam, theo thống
kê của Pháp năm 1862 thì tộc người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long có
khoảng 147.718 người so với người Việt là 1.732.316 người 4.
Năm 1905 có 209.225 người, năm 1915 có 242.157 người.
Theo báo cáo của Tỉnh đường và Ty Thông tin năm 1965 của các tỉnh
có đông người Khmer thuộc Việt Nam Cộng Hòa trước đây thì số người Khmer
theo thứ tự là:
STT
TÊN TỈNH CŨ
DÂN SỐ/NGƯỜI
NGÀY NAY LÀ
1
Vĩnh Bình
237.330
Trà Vinh
2
Ba Xuyên và Bạc Liêu
156.951
Sóc Trăng, Bạc liêu
3
Châu Đốc và An Giang
62.593
An Giang
4
Kiên Giang
52.865
Kiên Giang
5
Chương Thiện
31.377
Hậu Giang
6
Phong Dinh
7.134
Cần Thơ
7
Vĩnh Long
4.500
Vĩnh Long
8
An Xuyên
3.058
Cà Mau
9
Tây Ninh
4.315
Tây Ninh
10
Bình Long
4.731
11
Phước Long
1.095
3
4
Bình phước
Viện văn hoá, sđd. Tr 25-26
Lê Hương (1969), Người Việt Gốc Miên, NXb Khai Trí, Sài Gon. Tr 26
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
6
12
Sài Gòn
Tp.Hồ Chí Minh
1.166
Tổng cộng
567.115
Bảng 1.1: Thống kê dân số Khmer Nam bộ năm 19655
Theo kết quả điều tra dân số năm 1979 thì tổng số người Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long phỏng đoán là: Hậu Giang (nay là Cần Thơ, Sóc Trăng và
Hậu Giang) 290.000 người, Cửu Long (nay là Trà Vinh và Vĩnh Long) 270.000
người, Kiên Giang 120.000 người, An Giang 90.000 người. Minh Hải (nay là cà
Mau và Bạc Liêu) 30.000 người. Ngoài ra còn ở Tây Ninh khoảng 10.000 người
và rải rác ở các tỉnh Bình Phước, Bà Rịa Vũng tàu và Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng vài ngàn nữa.6
Theo thống kê dân số năm 1999 của Tổng cục Thống kê thì số người
Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là 1.025.861 người, cụ thể:
Đồng bằng sông Cửu Long
1025861
496583
529278
Long An
234
114
120
Đồng Tháp
364
221
143
An Giang
78706
37806
40900
Tiền Giang
404
265
139
Vĩnh Long
20430
9867
10563
Bến Tre
226
132
94
Kiên Giang
182058
89087
92971
Cần Thơ
35284
17345
17939
Trà Vinh
290932
139093
151839
Sóc Trăng
338269
163973
174296
Bạc Liêu
58132
28262
29870
Cà Mau
20822
10418
10404
Bảng 1.2: Thống kê dân số người Khmer Đồng bằng sông Cửu long năm 19997
5
Nguồn : Lê Hương (1969), Người Việt Gốc Miên. Tr 30
Viện Văn hoá (1993), Văn hoá người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, NXb Văn hoá Dân tộc. Tr 21
7
Nguồn:http://www.gso.gov.vn/default.aspx
6
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
7
Đến năm 2009 số người Khmer trong cộng đồng các dân tộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long được thống kê cụ thể như sau:
Giới tính
Chung
Nam
Nữ
Cả nước
Kinh
15.811.571
7.854.096
7.957.475
73.594.427
Khmer
1.183.476
581.027
602.449
1.260.640
Hoa
177.178
89.871
87.307
823.071
Chăm
15.823
7.838
7.985
161.729
Khác
731.422
1.679
1.743
11.141.130
Tổng cộng
17.191.470
8.534.511
8.656.959
85.846.997
Dân tộc
Bảng 1.3: Dân số ĐBSCL tính đến ngày 1/4/20098
Như vậy, bức tranh văn hóa tộc người ở Việt Nam ngày thêm đa dạng
khi tiếp nhận thêm một mảng màu văn hóa mới do cư dân Khmer Nam Bộ tô vẽ.
Người Khmer Nam Bộ từ lâu xem mình là một thành phần không thể thiếu trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
1.2.2.2. Kinh tế
Phần đông người Khmer Nam Bộ sống tập trung ở nông thôn và sống chủ
yếu bằng nghề nông. Người Khmer đa số trồng lúa và các loại cây hoa màu; một
bộ phận người Khmer sống ven các kênh rạch, sông, biển thì có thêm nghề đánh
bắt thủy sản. Những hộ sống gần các thị trấn, thị xã thì kinh doanh, buôn bán
các mặt hàng nông sản tại các chợ để kiếm thêm thu nhập. Được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước nên các tỉnh Nam Bộ đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ
người dân phát triển kinh tế nhằm xóa đói giảm nghèo bền vững như chương
trình 135, 167, chương trình cho vay vốn nuôi bò, làm kinh tế, cấp phát lúa
giống, cây trồng miễn phí cho hộ nghèo, xây nhà tình thương, tình nghĩa…, giúp
người dân ổn định đời sống, tăng gia sản xuất phát triển kinh tế.
Ngày nay, nhìn chung đời sống kinh tế-xã hội của người Khmer Nam Bộ
đã có những chuyển biến tích cực. Các phum sóc đều có hệ thống giao thông
8
Nguồn:http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=10798
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
8
thuận tiện, người dân đa phần đã có điện thắp sáng và nước sạch dùng trong sinh
hoạt hàng ngày. Phần lớn, bà con được hưởng nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước.
Một số hộ nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất mới và chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã thu được hiệu quả đáng kể. Nhiều hộ đã trở
thành nông dân giỏi cấp tỉnh, những mô hình trang trại chăn nuôi, trồng trọt,
nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả. Nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục
và phát triển như: làng nghề dệt chiếu; làng nghề đan lát; làng nghề làm bánh
phồng; nghệ thuật điêu khắc gỗ ở chùa; làng nghề làm cốm dẹp; làng nghề làm
bún..v.v. Tuy những làng nghề này không có quy mô lớn nhưng đã đem lại thu
nhập cho người dân và mang nét đặc trưng riêng trong văn hóa truyền thống của
người Khmer Nam Bộ.
1.2.2.3. Xã hội - Văn hóa - Giáo dục
- Tổ chức xã hội
Người Khmer sống trong các phum sóc (tương tự các thôn, ấp của người
Việt). Mỗi phum gồm có năm đến bảy gia đình, giữa họ có mối quan hệ hôn
nhân, họ hàng huyết thống với nhau. Mọi sinh hoạt trong phum mang tính chất
cộng đồng tự quản. Nhiều phum tập hợp lại thành đơn vị lớn hơn gọi sóc.
Thường thì mỗi sóc có một ngôi chùa để phục vụ cho nhu cầu tinh thần của
người dân trong sóc. Mỗi người dân trong sóc vừa là thành viên của đơn vị tổ
chức sóc, vừa là một phật tử. Họ có trách nhiệm xây dựng và trùng tu chùa
chiền, nuôi dưỡng sư sãi, tham gia các hoạt động tôn giáo và lễ hội truyền thống
thường xuyên được tổ chức tại chùa. Thông qua ngôi chùa, sư sãi mà nét văn
hóa đặc sắc của người Khmer được gìn giữ nguyên vẹn đến ngày nay.
Mỗi phum sóc có tên gọi khác nhau. Đứng đầu mỗi phum sóc là mê phum
hay mê sóc để điều hành các công việc như ma chay, cưới hỏi hay các lễ hội
truyền thống của dân tộc.
Có thể nói, phum sóc là hình thức xã hội truyền thống của người Khmer.
Trong phum sóc, chúng ta thấy nổi bậc hai quan hệ: quan hệ huyết thống và
quan hệ láng giềng. Từ khi người Việt, Hoa đến đây sinh sống thì các phum sóc
xen kẽ với các ấp xóm của người Việt, cũng có một ít trường hợp một số phum
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỂ BIÊN SOẠN NỘI DUNG MÔN HỌC:
1. Viện Văn hóa (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB
Tổng hợp Hậu Giang.
2. Viện Văn hóa (1993), Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long,
NXB Dân tộc.
3. Lê Hương (1969), Người Việt Gốc Miên, NXb Khai Trí, Sài Gon.
4. Đoàn Văn Nô (1995), Người Khmer ở Kiên Giang, NXB VHDT.
5. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Đinh Lê Thư (chủ biên) (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer Đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb ĐHQG TP.HCM.
7. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở trang phục ăn uống của các dân tộc vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học Xã hội
8. Trần Quốc Vượng, Nguyễn Thị Bảy (2010), Văn hóa ẩm thực Việt Nam nhìn
từ lí luận và thực tiễn, NXB Từ điển Bách khoa & Viện Văn hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỀ NGHỊ CHO HỌC VIÊN:
1. Phan An (2008), Người Khmer Nam Bộ, NXB Văn hóa Dân tộc, HN.
2. Nguyễn Hùng Cường (2013), “Đặc điểm về cái ăn của người Khmer vùng
Tây Nam Bộ, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn số 4, tr 51 – 57.
3. Sơn Nam (2012), Lịch sử khẩn hoang Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Trẻ,
TPHCM.
4. Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc Thiểu số TP. HCM (2016), Văn hóa
người Hoa Nam Bộ, NXB Văn hóa Văn nghệ.
5. Trần Ngọc Thêm (2010), Người Việt Tây Nam Bộ, NXB Văn hóa Thông tin.
6. www.vanhoahoc.edu.vn
Tài liệu giảng dạy Môn Văn hóa ẩm thực và trang phục của người Khmer Nam Bộ
73
- Xem thêm -