Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phát triển con người toàn diện trong các trường...

Tài liệu Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phát triển con người toàn diện trong các trường cao đẳng công an nhân dân phía nam hiện nay

.PDF
83
152
140

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THOA VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN TRONG CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG CÔNG AN NHÂN DÂN PHÍA NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THOA VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN TRONG CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG CÔNG AN NHÂN DÂN PHÍA NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số: 82 29 001 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN ĐÌNH HÒA HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do chính tôi thực hiện, các số liệu được trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đáng tin cậy và là kết quả của quá trình tham khảo chủ yếu từ các báo cáo tổng kết. Những nội dung và kết luận trong luận văn mà tôi nghiên cứu chưa được công bố ở bất kể đâu. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Người làm luận văn Nguyễn Thị Thoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN.......8 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ............8 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 8 1.1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ..........................................................................11 1.1.3. Nhân tố chủ quan của bản thân Hồ Chí Minh ........................................20 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện: Khái niệm và nội dung cơ bản ...........................................................................................................24 1.2.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ....24 1.2.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ....29 1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường hình thành và phát triển con người toàn diện .................................................................................................34 Chƣơng 2: PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG CÔNG AN NHÂN DÂN PHÍA NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.................................................42 2.1. Thực trạng phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay.................................42 2.1.1. Khái quát đặc điểm, tình hình của các trường cao đẳng Công an nhân dânhiện nay ......................................................................................................42 2.1.2. Những thành tựu và nguyên nhân...........................................................44 2.1.3. Một số hạn chế và nguyên nhân .............................................................57 2.2. Một số giải pháp tiếp tục phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay.......60 2.2.1. Nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam về tầm quan trọng của việc phát triển con người toàn diện ...........................................................................................................60 2.2.2. Phải coi giáo dục - đào tạo và tự giáo dục - đào tạo là yêu cầu hàng đầu, thường xuyên của người Công an cách mạng trong các trường cao đẳng Công an nhân dân .......................................................................................................61 2.2.3. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo trong các trường cao đẳng Công an nhân dân .............................................................................................65 2.2.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình trong nước và thế giới để chủ động phát triển con người toàn diện đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới ......67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................70 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, một chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và là một danh nhân văn hóa thế giới. Người là sự kết tinh những phẩm chất và giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc Việt Nam và thời đại. Tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng sự nghiệp cách mạng và những tư tưởng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta là tài sản vô cùng quý báu, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng trước đây, hôm nay cũng như mai sau. Vấn đề này đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta” [16, tr.7 – 8]. Trong di sản tư tưởng của Người, tư tưởng về xây dựng con người phát triển toàn diện là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Lấy con người làm trung tâm, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh chống áp bức, bất công, phấn đấu đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người phát triển toàn diện, trong giai đoạn cách mạng hiện nay khi đất nước đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hơn lúc nào hết, Đảng ta luôn quan tâm và chú trọng đến việc xây dựng con người phát triển toàn diện. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII cũng khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” [16, tr. 53]. Phát huy nhân tố con người nhằm tạo ra những con người phát triển về mọi mặt, đủ sức, đủ tài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và 1 Công an nhân dân là nòng cốt. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhiệm vụ này lại càng trở nên hết sức to lớn, nặng nề và phức tạp. Do đó, việc xây dựng con người phát triển toàn diện trong Công an nhân dân được xác định là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, bảo đảm hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta xác định việc đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện nói riêng là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Thực hiện sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, đồng thời trên cơ sở nhận thức sâu sắc những giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, trong những năm qua, các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam đã và đang tích cực vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng, đào tạo, phát triển con người toàn diện. Nhờ đó, bước đầu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ và học viên ngày càng có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao; thể lực được đảm bảo, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện tại các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Để góp phần đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng con người phát triển toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân, tôi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện; là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Chính vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học với những nội dung, mục tiêu, cấp độ khác nhau khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về 2 phát triển con người phát triển toàn diện đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu, tiếp cận trên những phương diện khác nhau: Thứ nhất, những công trình, bài viết đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người. Về mảng nghiên cứu này đã có nhiều công trình (sách, đề tài khoa học, bài báo) nghiên cứu. Một trong số đó là cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người mới của Bùi Đình Phong, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2008), tác phẩm này phân tích khá sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng để xây dựng những phẩm chất của con người mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cuốn Hồ Chí Minh với xây dựng con người mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1995), tác phẩm này nêu lên những quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và vận dụng để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Cuốn Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện của Phó giáo sư, Tiến sĩ Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội (2010), đã đề cập đến những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữu văn hóa và xây dựng con người phát triển toàn diện, nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện; về đặc điểm, giải pháp và một số nội dung phát triển con người Việt Nam toàn diện trong giai đoạn hiện nay. Hay cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người của Đặng Xuân Kỳ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2005), đề cập đến các khía cạnh về văn hóa và con người theo quan điểm của Hồ Chí Minh và vận dụng quan điểm đó vào xây dựng văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Tác giả Vũ Thiện Vương với cuốn Triết học Mác – Lênin về con người và xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001), trong đó trình bày khái quát những quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người; trên cơ sở đó, vận dụng vào việc luận giải tính tất yếu, tầm quan trọng, phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Ngoài các công trình nêu trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn được 3 nhiều tác giả khác nghiên cứu, viết thành những bài báo khoa học như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược con người, Tạp chí Công tác khoa giáo, 12/1997; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội” của Lê Thị Hương, Tạp chí Triết học, số 9/2006; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người” của tác giả Thành Duy, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2005; “Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người mới, văn hóa mới” của Nguyễn Trung Thu, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội (2013); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo dục đào tạo nhân tài” của Chu Thái Thành, Tạp chí Cộng sản, số 18, tháng 9/2005… Các bài viết này đã đề cập tới những nội dung liên quan đến vấn đề con người và phát triển con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai, những công trình, bài viết có liên quan tới xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Có thể kể đến cuốn Một số vấn đề về xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình mới của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (1998), tác phẩm đã nêu ra một số vấn đề về xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân và đưa ra một số giải pháp để xây dựng lực lượng cảnh sát nhân dân ngày càng phát triển, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Cuốn Một số vấn đề về xây dựng lực lượng Công an nhân dân của Trần Quốc Hoàn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2004). Cuốn Công an nhân dân 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2010), tác phẩm khái quát những chặng đường hình thành và phát triển lớn mạnh của lực lượng Công an nhân dân. Cuốn Phát triển nguồn nhân lực Công an nhân dân trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam của Vũ Đức Khiển - Nguyễn Tốt, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2014), đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế; đồng thời, đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lực lượng Công an nhân dân. Tác phẩm Xây dựng đội ngũ trí thức trong Công an nhân dân trong tình hình mới của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2009), đề cập đến sự cần thiết và một số quan điểm, giải pháp xây dựng, phát triển 4 đội ngũ trí thức Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Cuốn Công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Bộ Công an, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội (2011), trình bày về những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác xây dựng lực lượng trong Công an nhân dân, đồng thời đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn diện đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Mỗi tác giả nghiên cứu vấn đề trên từ nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau nhằm khai thác những khía cạnh, nội dung và giải quyết những nhiệm vụ mà mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu của mỗi công trình đặt ra. Tuy nhiên, đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay” vẫn chưa được tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống và có chiều sâu. Vì vậy, ở luận văn này, tác giả sẽ kế thừa những thành tựu nghiên cứu trước đây, đồng thời có sự bổ sung, phát triển nhằm góp phần làm sáng tỏ cũng như mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện ở các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, luận văn phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng đó, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển con người toàn diện theo tư tưởng HCM trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. 5 - Phân tích, làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam trong thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp tiếp tục phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu trong giới hạn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ và học viên phát triển toàn diện ở các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam (Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II và Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân II) trong giai đoạn hiện nay. 5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là di sản lý luận của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện; đồng thời luận văn cũng kế thừa, chọn lọc và phát triển những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, so sánh, đối chiếu... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận 6 Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sỹ phát triển toàn diện trong các trường cao đẳng Công an nhân dân hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ trong các trường cao đẳng Công an nhân dân phía Nam hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, chiến sỹ trực tiếp làm công tác tham mưu, tổ chức, xây dựng lực lượng trong lực lượng Công an nhân dân hoặc những người làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy trong và ngoài ngành Công an. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 02 chương, 04 tiết. 7 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN 1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển con ngƣời toàn diện 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - Điều kiện kinh tế - xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Bất kỳ tư tưởng, lý luận nào được hình thành cũng gắn với những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung hình thành gắn liền với bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đầy biến động. Từ những năm 1860 – 1870, chủ nghĩa tư bản đã chuyển dần từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc và trở thành một hệ thống thế giới. Nhờ sự vận dụng những thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở cuối thế kỷ XVIII, các nước tư bản chủ nghĩa đã nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, từ đó tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác viết “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” [10, tr. 599]. Để xử lý nguồn hàng hóa dư thừa này các nước tư bản đã tiến hành tìm kiếm, mở rộng thị trường mới bằng cách đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, gây chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và thâu tóm thuộc địa. Hậu quả là trong lòng xã hội tư bản, bên cạnh những mẫu thuẫn vốn đã tồn tại,xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới như: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau. Những mâu thuẫn đó trở thành những mâu thuẫn sâu sắc của thời đại. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc trở thành cuộc đấu tranh chung. 8 Trước sự tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân chính quốc và thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản diễn ra sôi nổi, tạo ra những cao trào cách mạng mới, đỉnh cao là cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng này thành công có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với nước Nga, mà còn nêu một tấm gương sáng về giải phóng cho các dân tộc bị áp bức, “mở ra trước mắt họ thời đại chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc” [38, tr.562], mở ra con đường mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộccủa các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam nói chung và Nguyễn Ái Quốc nói riêng. Với sự nhạy bén về chính trị và quyết tâm cứu nước, Người đã nhanh chóng tiếp cận ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga và đặt trọn niềm tin theo ánh sáng của Cách mạng tháng Mười. Từ sau sự tan rã của Quốc tế II và sự ra đời của Quốc tế III (tháng 3/1919), phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa phương Đông ngày càng có mối quan hệ khăng khít hơn với phong trào công nhân các nước tư bản phương Tây. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một bộ phận của của cách mạng vô sản thế giới. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” doV.I.Lênin soạn thảo. Nguyễn Ái Quốc coi đây là cái cẩm nang thần kỳ để giải phóng cho dân tộc Việt Nam, sau này Người viết: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!" [42, tr.562]. Từ đây, Người đã kiên quyết về con đường giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đây là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi lập trường tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ người thanh niên yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ đây những tư tưởng của Người được hình thành trên một thế giới quan mới, khoa học, biện chứng hơn. - Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 9 Bước sang cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam về cơ bản vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động của triều đình Nguyễn đã làm đất nước dần lâm vào khủng hoảng và suy yếu. Đây là cơ hội cho các nước thực hiện âmmưu xâm chiếm Việt Nam. Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.Triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng, làm tay sai cho thực dân trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân, biến nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến bằng các Hiệp ước Nhâm Tuất - 1862, cắt đứt 3 tỉnh miền Đông dâng cho giặc; Hiệp ước Giáp Tuất, 1874 dâng 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp; Hiệp ước Quý Mùi - 1883, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ; và Hiệp ước Patơnốt 1884, thừa nhận sự bảo hộ hoàn toàn của Pháp ở Việt Nam. Như vậy, chỉ với 4 bản hiệp ước triều đình nhà Nguyễn cuối cùng đã dâng toàn bộ lãnh thổ cho thực dân Pháp. Trong gần một thế kỷ, thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ, phong kiến thống trị nước ta một cách vô cùng tàn bạo. Nước ta vốn là quốc gia thống nhất, nay chúng chia cắt thành 3 kỳ với 3 chế độ thống trị khác nhau để dễ bề cai trị và đàn áp. Sau khi chính thức đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam, với chính sách chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, nô dịch về văn hóa… cuộc khai thác của Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Kết cấu xã hội Việt Nam xuất hiện thêm những giai cấp mới: Giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và tầng lớp tiểu tư sản. Trong xã hội Việt Nam lúc này cũng nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp được coi là mâu thuẫn chủ yếu Cùng lúc đó, các “Tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, tác động làm phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Các phong 10 trào này chỉ rộ lên một thời gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt, một phần vì chưa lôi cuốn được tầng lớp nhân dân, phần khác các phong trào ấy vẫn do các sĩ phu phong kiến dẫn dắt nên không tránh khỏi hạn chế và thất bại. Điều này chứng tỏ rằng con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã rơi vào bế tắc. Bế tắc là do không có đường lối chính trị rõ ràng, đúng đắn; do không có phương pháp cách mạng; do không thấy được sức mạnh trong dân. Như vậy, con đường cứu nước của dân tộc lúc này rơi vào khủng hoảng như đêm tối không có đường ra. Yêu cầu của lịch sử là phải tìm ra một con đường cứu nước mới cho dân tộc. Nhưng đó là con đường nào? Câu hỏi đó đặt lên vai thế hệ thanh niên như Nguyễn Tất Thành. Những biến cố to lớn của thế giới đã mang lại một nguồn ánh sáng mới về con đường giải phóng dân tộc, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi, cơ hội mới để tiếp thêm động lực góp phần thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, từ đó hình thành một hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện về con đường cứu nước và về con đường cách mạng Việt Nam sau này. 1.1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện - Giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện Dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quýnhư: Tinh thần yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, cần cù, sáng tạo... Nổi bật là chủ nghĩa yêu nước – khởi nguồn đầu tiên góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố được xếp ở vị trí đầu tiên trong bảng giá trị tinh thần của Việt Nam. Từ truyền thống yêu nước của dân tộc, Người tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vôcùng mạnh mẽ, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” [37, tr. 38]. Người không chỉ tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn luôn phát 11 huy lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống thực tiễn: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [37, tr. 38]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã làm phong phú thêm nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Theo Người, yêu nước là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, bởi có chủ nghĩa xã hội thì Tổ quốc mới giàu mạnh, nhân dân mới được ấm no, hạnh phúc. Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã cống hiến cho dân, cho nước, cho nhân loại cần lao. Người đã phát triển thêm những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước trên cơ sở quan điểm giai cấp, yêu nước mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, những người cùng khổ trên khắp thế giới. Điều này thể hiện chủ nghĩa nhân văn sâu sắc ở Hồ Chí Minh. Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [42, tr. 563].Yêu nước gắn liền với ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đây là biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Người đã thấu cảm sâu sắc với vạn điều cay đắng từ hàng ngàn năm bị mất tự do của dân tộc. Với hành trang là tinh thần yêu nước quật cường, ý chí đấu tranh bất khuất, ngày 5/6/1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, sang phương Tây bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam là cơ sở, là động lực và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đây là một trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện nói riêng. Ngoài truyền thống yêu nước, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống nhân ái, thì đoàn kết cũng là một trong những nét hết sức đặc sắc trong các giá trị truyền thống 12 Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần, kế thừa truyền thống ấy của dân tộc và nâng lên cao đẹp hơn thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà; lòng yêu thương, quý trọng con người hình thành nên tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trước hết đó là tình thương yêu dành cho nhân dân lao động, cho những người cùng khổ bị đọa đày áp bức, từ tình yêu thương đồng bào mình, Người mở rộng lòng yêu thương đó ra phạm vi thế giới. Theo Người, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [31, tr. 287]. Nếu như tư tưởng đại nhân ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng, vì tự do, hạnh phúc của con người, tin vào lý trí, phẩm giá con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do và toàn diện, thì tư tưởng đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là cứu nước, là độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh giá trị truyền thống về lòng yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết hay tương thân tương ái, Hồ Chí Minh còn kế thừa tư tưởng giáo dục đạo lý làm người của ông cha ta – đó là giáo dục con người sống có lý tưởng bản lĩnh, có ý chí vươn lên để tự hoàn thiện mình về mọi mặt đức, trí, thể, mỹ... đem hết tài đức của mình để xây dựng một xã hội “thái bình, thịnh trị”. Triết lý và nội dung giáo dục đào tạo, phát triển con người của cha ông ta đã góp phần quan trọng tạo ra những thế hệ người Việt Nam có đủ sức khỏe, đức và tài, góp phần to lớn vào sự trường tồn và phát triển không ngừng của dân tộc Việt Nam, làm rạng danh dân tộc, vẻ vang giống nòi, như những trang sử thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung... Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nền nếp giáo dục cơ bản, với những hiểu biết sâu sắc về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc cũng như những tư tưởng giáo dục, đào tạo và phát triển con người của cha ông, Người cho rằng, cần phải kế thừa một cách sáng tạo những giá trị ấy vào sự nghiệp xây dựng và phát triển con người. Trong tư tưởng phát triển con người của mình, vấn đề giáo dục đạo lý làm người được Hồ Chí Minh rất quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, con người dù bất kỳ ở đâu cũng phải sống có đạo lý. Đối với dân tộc Việt Nam vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Người cho rằng, nếu con người thiếu nhân cách, sống không đạo 13 lý thì dù tài giỏi đến đâu cũng không giúp ích được cho cộng đồng, xã hội, thậm chí còn gây hại cho đất nước, cho nhân dân. Vì vậy, việc chăm lo giáo dục là việc làm cần thiết, thường xuyên. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới như Hồ Chí Minh, Người đã hy sinh hạnh phúc cá nhân, dành trọn vẹn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người luôn chăm lo bồi dưỡng đức tài cho thế hệ trẻ. Vì một điều dễ hiểu rằng, không có một cuộc cách mạng nào có thể chiến thắng nếu không chuẩn bị, đào tạo được những con người có tính tiên phong, mang trong mình lý tưởng và đường lối của cuộc cách mạng ấy, có đạo đức và có khả năng dẫn dắt quần chúng tiến lên xây dựng xã hội mới, tiến bộ hơn. Cho đến ngày nay, bài học bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đã trở thành bài học quan trọng, bởi nó là nền móng của sự phát triển hiện tại và mai sau. Như vậy, có thể thấy, chính những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và những tư tưởng về giáo dục của cha ông đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển, tạo thành cơ sở, nền tảng trong quan điểm về phát triển con người toàn diện, là động lực và sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. - Tinh hoa văn hóa nhân loại với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện Văn hóa phương Đông: Với truyền thống chú trọng văn hóa, nhân văn nên nhìn chung tư tưởng phương Đông đều hướng đến mục tiêu xây dựng và phát triển những con người tốt đẹp. Các học thuyết đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tu dưỡng và phấn đấu của mỗi con người. Nho giáo chứa đựng những mặt tích cực mang tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc. Trước hết là ở chủ trương xây dựng một “thế giới đại đồng”, một “xã hội bình trị” làm theo năng lực – hưởng theo nhu cầu, đây là một xã hội mà mọi người mơ ước: Con người được sống bình yên, hạnh phúc với những quan hệ tốt đẹp. Nho giáo có ưu thế hơn hẳn các học thuyết, tôn giáo khác bởi nó có một hệ thống phạm trù, khái niệm khá hoàn chỉnh để giáo dục, đào tạo, phát triển con người, trong đó 14 nhấn mạnh yêu tố tự giác, “tu thân” của mỗi con người. Nho giáo xây dựng được mẫu người lý tưởng cho xã hội phong kiến, đó là những người “quân tử”, những “kẻ sĩ”, mà ở họ các năng lực, phẩm chất về mặt tinh thần như đạo đức… được coi trọng. Người quân tử là người xả thân vì Nhân, vì Nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng điều này phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cũng như tư tưởng, tâm lý của dân tộc Việt Nam vốn đề cao đạo làm người, tôn vinh tinh thần xả thân vì Tổ quốc và nhân dân của các thành viên trong cộng đồng. Mục tiêu cuối cùng của việc tu dưỡng bản thân là bình thiên hạ, thể hiện mong muốn xây dựng, phát triển con người toàn diện Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Theo Người: “Tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học” [38, tr. 356]. Hồ Chí Minh đã phát triển “trung, hiếu” của Nho giáo lên một tầm cao mới: Trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân. Nếu Nho giáo hướng đạo đức của người quân tử vào việc bảo vệ chế độ phong kiến, đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối với nhà vua, coi nhân dân là đối tượng để chăn dắt và sai khiến, thì Hồ Chí Minh lại hướng đạo đức của cán bộ và nhân dân vào việc lật đổ chế độ phong kiến, giải phóng người lao động khỏi áp bức, bóc lột. Đối với Hồ Chí Minh, tu thân là trước hết rèn luyện đạo đức cách mạng và ra sức học tập, tu thân không phải để làm quan, để đè đầu cưỡi cổ nhân dân, mà đòi hỏi người cán bộ phải coi mình như người đầy tớ trung thành của nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân vùng lên, tự giải phóng mình, tự làm chủ bản thân và làm chủ đất nước. Phật giáo: Bên cạnh ảnh hưởng của Nho giáo thì tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện cũng chịu ảnh hưởng các quan điểm của Phật giáo. Vốn là một tôn giáo nên Phật giáo không tránh khỏi những hạn chế nhất định, như thần bí, bi quan, yếm thế... Hồ Chí Minh đã loại bỏ những điểm hạn chế, tiếp thu và kế thừa những mặt tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng về xây dựng một cuộc sống bình đẳng, no ấm cho dân chúng; tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái; là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị; là tinh thần bình đẳng, dân chủ, không phân biệt đẳng cấp, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân của mỗi người. Có thể nói, Hồ Chí 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan