Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi...

Tài liệu Vận dụng tư tưởng hồ chí minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới

.PDF
108
13
80

Mô tả:

§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n  NguyÔn thÕ h-ëng VËn dông t- t-ëng hå chÝ minh vµo ho¹t ®éng ®èi ngo¹i nh©n d©n trong thêi kú ®æi míi Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế Mã số : 60.31.40 LuËn v¨n th¹c sÜ ngµnh quèc tÕ häc Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Tất Tố Hµ néi - 2010 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân ta, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, sứ giả của hòa bình và tình hữu nghị, danh nhân văn hóa thế giới. Người vừa là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, nhà báo kiệt xuất của dân tộc ta. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là người sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Tuy Người đã đi xa hơn 40 năm nhưng cả cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người đã để lại một kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá cho non sông đất nước ta. Là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam nói chung và xây dựng nền ngoại giao nói riêng, từng bước đánh thắng kẻ thù xâm lược và khảng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế, đồng thời có giá trị to lớn đối với công cuộc đổi mới, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước ta. Trên nền tảng những giá trị lý luận và thực tiễn mà tư tưởng Hồ Chí Minh để lại, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) khảng định: "Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng" [24, tr.136]. Đồng thời đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh là "tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta" [27, tr.84] và Đảng ta “phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [29, tr.282]. Thực tiễn cho thấy, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những trang sử hào hùng trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Một trong những di sản trong hệ thống tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, cho dân tộc và nhân dân ta là tư tưởng về đối ngoại nhân dân. Đó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc của Người, trên cơ sở những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới sau bao năm hoạt động cách mạng để Người hình thành nên tư tưởng đó. Những tư tưởng và quan điểm đó của Người đã trở thành đường lối, 2 chủ trương và chính sách đối ngoại của Đảng, hợp thành một chỉnh thể trong chỉ đạo công tác đối ngoại nhân dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, biết vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng, đã cho Đảng ta những quan điểm cơ bản trong đường lối đối ngoại đúng đắn dần được hình thành và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc (từ Đại hội VI tới Đại hội X). Những thành tựu to lớn đạt được trên mặt trận đối ngoại nói chung, đối ngoại nhân dân nói riêng trong gần 25 năm đổi mới đã minh chứng cho tính đúng đắn, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả của Đảng trong định hướng và phát triển công tác đối ngoại nhân dân. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ ngày càng được coi trọng, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã chỉ rõ: "Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân" và phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả" [29, tr.115-116]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công gặt hái được, mặt trận đối ngoại nhân dân Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ 21 cũng đang gặp phải không ít những khó khăn, thách thức cần đổi mới trong bối cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tình hình trong nước và thế giới đang không ngừng vận động và biến đổi, nhiều vấn đề mới nảy sinh, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách để can thiệp, chi phối và phá hoại chúng ta, nhất là trên mặt trận đối ngoại. Trước tình hình đó, với mong muốn đẩy mạnh nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống tư tưởng của Người về công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ này và rút ra bài học kinh nghiệm thiết thực. Từ đó khai thác và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, có hiệu quả tư tưởng của Người vào hoạt động đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (cùng phối hợp với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước để tạo thành một binh chủng đối ngoại chung của đất nước) trong những thập niên đầu thế kỷ 21 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy tôi chọn vấn đề "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới" làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành quan hệ quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại nói chung và sự vận dụng của Đảng ta được nhiều nhà khoa học, viện nghiên cứu quan tâm nghiên cứu, nhất là trong những năm gần đây. Đến nay có không ít các công trình khoa học, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, sách chuyên đề, bài viết trên báo và tạp chí đã đề cập đến. Tuy nhiên tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân 3 dân, nhất là sự vận dụng tư tưởng đó của Người trong thời kỳ đổi mới còn ít được các nhà khoa học, các luận án và luận văn quan tâm nghiên cứu. Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng, mỗi nhà nghiên cứu đều có cách tiếp cận, nhìn nhận, đánh giá vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Cụ thể là: Đề tài và hội thảo khoa học - Đề tài khoa học cấp bộ, Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao năm 2002, Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin làm chủ nhiệm. Đề tài gồm một số đề tài nhánh, các tác giả đi sâu phân tích các nội dung: bối cảnh ra đời, quá trình phát triển, nguồn gốc và những nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao của Người. - Đề tài khoa học cấp bộ, Vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thời kỳ hội nhập, Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao, Bộ Ngoại giao năm 2008 do PGS,TS. Vũ Dương Huân làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu những nội dung cơ bản về tư tưởng đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó thời kỳ hội nhập. - Một số tài liệu hội thảo, tọa đàm khoa học có liên quan tới nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao như: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh (Bộ Ngoại giao-2000); Công tác đối ngoại nhân dân trong sự nghiệp đổi mới (Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam - 2002). Sách - Viện Quan hệ Quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990). Phản ánh khá đầy đủ tư tưởng, hoạt động, kinh nghiệm của Người về ngoại giao được hình thành trong hoạt động cách mạng. - Viện Quan hệ Quốc tế, Vũ Khoan chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác ngoại giao (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1999). Nội dung cuốn sách đã phân tích một cách sâu sắc quá trình hoạt động đối ngoại của Người từ năm 1941 đến năm 1969 và rút ra những bài học kinh nghiệm quý, khái quát về tư tưởng đối ngoại, về phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. - Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Luân, Hồ Chí Minh: Trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999), đã cố gắng làm rõ một số quan niệm của Người về bạn thù, về sách lược tập hợp lực lượng, về chính sách đối ngoại, về phương pháp dự báo thời cơ. 4 - Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn mới (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). Tác giả đã trình bày những nội dung chủ yếu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, nêu lên phương pháp, phong cách, nghệ thuật trong hoạt động ngoại giao của Người. Đặc biệt về việc vận dụng tư tưởng của Người vào xử lý một số vấn đề đối ngoại của đất nước ta hiện nay. - Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Đây là một cuốn sách hiếm hoi chuyên ngành, các tác giả đã cố gắng giới thiệu một cách khái quát nhất bức tranh về quá trình hình thành, phát triển của công tác đối ngoại nhân dân của nước ta từ năm 1945 đến nay. Đây là nguồn tư liệu quý cho tác giả khi thực hiện đề tài luận văn. - Đinh Xuân Lý, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007). Tác giả cũng đã khái quát sự ra đời, quá trình phát triển, nguồn gốc, nội dung tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người thời kỳ đổi mới. - Bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu Lịch sử ngoại giao, Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế (Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009). Các tác giả đề cập tới vấn đề đặt ra cho ngoại giao Việt Nam và vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập. - Một số cuốn sách khác như: Vũ Dương Huân: Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao (2005); Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995) của Lưu Văn Lợi, Nxb Công an nhân dân, 1996;; Phan Ngọc Liên: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế (1995); Đỗ Đức Hinh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - Một số nội dung cơ bản (2007), vv. Luận văn và luận án Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, khoa học chính trị, khoa học quan hệ quốc tế được thực hiện gần đây: - Luận văn thạc sĩ (2008), “Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh vào việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Thị Hương Thu, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.“Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương châm đối ngoại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi 5 mới” của tác giả Phạm Thanh Thuỷ, (2009), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận án tiến sĩ (2005), “Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1954 - 1969” của tác giả Trần Minh Trưởng, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Báo và tạp chí Nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các tổ chức đoàn thể nhân dân, các nhà khoa học về hoạt động đối ngoại nói chung, về đối ngoại nhân dân nói riêng được đăng tải trên các tạp chí như: Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Cộng sản, Thông tin đối ngoại, Nghiên cứu Quốc tế, Tạp chí Hữu nghị, Tạp chí Quê hương. - Vũ Dương Ninh: “Quan điểm quốc tế trong tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993. - Văn Tạo: “Công tác đối ngoại hiện nay trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 - 1993. - Nguyễn Trọng Phúc: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao sau hiệp định Giơnevơ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1995. - Phạm Hồng Chương - Phùng Đức Thắng: “Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 12 - 1999. - Vũ Xuân Hồng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân” Tạp chí Cộng sản, số 12 - 2003. - Nguyễn Dy Niên: “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh ánh sáng soi đường và đảm bảo thành công cho đối ngoại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin đối ngoại số 5 - 2004. - Minh Thắng: “Đổi mới và mở rộng công tác đối ngoại nhân dân: Lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 6 - 2005. - Vũ Xuân Hồng: “Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới và quan hệ nhân dân với Lào, Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 6 - 2007. - Đức Vượng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ”, Tạp chí Tuyên giáo, số 1 2010. 6 Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết trên ngày càng làm rõ hơn tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh nói chung và bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng của Người về công tác đối ngoại nhân dân, phân tích sự vận dụng đó của Đảng ta trong cách mạnh trước đây và công cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học cụ thể nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc. Các công trình nghiên cứu nêu trên là cơ sở để cung cấp luận cứ, luận chứng để tác giả nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích Làm rõ nội dung cơ bản về quá trình hình thành tư tưởng và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đó vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ - Làm rõ hơn quá trình hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân, nêu khái quát một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới. - Tìm hiểu, làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và đoàn thể nhân dân ta vào hoạt động đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới. - Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình vận dụng tư tưởng của Người thời kỳ đổi mới. - Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng sáng tạo và có hiệu quả tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế những thập niên đầu của thế kỷ 21. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu - Quá trình hình thành và những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân. 7 - Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới. - Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước ta hiện nay. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân. - Một số nội dung cơ bản và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới. - Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và một số tổ chức đoàn thể nhân dân ta vào một số lĩnh vực cụ thể trong công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới. Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm, đưa ra một số khuyến nghị vận dụng trong đối ngoại nhân dân thời kỳ hội nhập. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận - Luận văn thực hiện trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng và phương pháp đấu tranh cách mạng. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác đối ngoại nhân dân thời kỳ đổi mới. - Những quan điểm của các nhà khoa học trong và ngoài nước về công tác đối ngoại nhân dân. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn chủ yếu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm rõ vấn đề. - Tuân thủ các nguyên tắc: khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển để luận giải và dự báo vấn đề nghiên cứu. 8 - Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: khoa học xã hội và nhân văn, lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, hệ thống, so sánh, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học,....để làm rõ nội dung đề tài. 6. Những đóng góp về khoa học và cấu trúc của luận văn a) Những đóng góp về khoa học - Góp phần tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống và luận giải những nội dung chủ yếu, những giá trị thực tiễn trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân trong quá trình hoạt động cách mạng. - Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng, nhân dân ta trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu và các nhà khoa học đi trước, luận văn cố gắng khái quát, hệ thống, làm rõ hơn nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân và thực tiễn hoạt động của Người, cũng như sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng và nhân dân ta vào hoạt động đối ngoại nhân dân trên một số lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đổi mới. - Trên cơ sở nghiên cứu, bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm và đề xuất một số khuyến nghị trên một số lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt góp phần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào xây dựng đường lối và chiến lược đối ngoại nhân dân của Đảng ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay và trong những thâp niên đầu của thế kỷ 21. - Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân. Nó còn phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, giữ gìn, tuyên truyền, vận dụng, kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng của Người thời kỳ hội nhập quốc tế. b) Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo; cấu trúc của luận văn được chia làm 3 chương. Cụ thể như sau: Chương 1: Quá trình hình thành tư tưởng và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 9 Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Chương 3: Một số kinh nghiệm và khuyến nghị. Chương 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta thường phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần, thời chiến cũng như thời bình ông cha ta thường chọn giải pháp ngoại giao thương lượng hoặc hòa hiếu với lân bang để làm kế "sâu rễ, bền gốc". Tiếp thu tinh hoa kim, cổ, đông, tây về ngoại giao và trên cơ sở kế thừa tri thức ngoại giao của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xây dựng nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, trong đó công tác đối ngoại nhân dân được Người quan tâm rất sớm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân được hình thành và phát triển cùng với những biến cố lịch sử của dân tộc và những hoạt động thực tế trong ngoại giao của Người. Thế giới nay đã đổi thay, công tác đối ngoại nhân dân Việt Nam ta ngày nay đã có bước trưởng thành vượt bậc trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng thời đại mà chúng ta đang sống với các mối quan hệ quốc tế luôn biến đổi phức tạp, rất khó dự báo. Đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý, tri thức tinh hoa về ngoại giao của cha ông ta để lại, đặc biệt là tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Do đó việc tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản và thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân là cơ sở đảm bảo cho tiếp nối những thành công của kênh đối ngoại nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 1.1. Nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung tư tưởng và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và công tác đối ngoại nhân dân nói riêng được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, kết hợp truyền thống văn hóa dân tộc với truyền thống ngoại giao Việt Nam. Việc đi sứ bang giao của cha ông ta trước đây đều có mối 10 quan hệ đến “an nguy hay tồn vong” của dân tộc. Người xưa có câu: “Tài trai không làm khanh tướng thì làm sứ giả”; những người đi sứ xưa kia còn là người phải có ý chí, lòng dũng cảm, độc lập tự cường và không được run sợ trước uy vũ để bảo toàn quốc mệnh. Đồng thời cũng phải là những người đại diện xứng đáng cho nền văn hiến dân tộc, thấu suốt cổ kim” [48, tr.34]. Đó còn là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống lao động cần cù, sáng tạo trong xây dựng đất nước, anh dũng trong chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, có truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam. Với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, truyền thống ngoại giao của cha ông với nền ngoại giao yêu nước, vì dân, chính nghĩa, hòa hiếu và nhân đạo "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo". Tuy có bề dày lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, nhưng cha ông ta vẫn luôn đấu tranh để khảng định: “Nước Nam ta là của người Việt Nam, bờ cõi đã phân chia, sách trời đã định” cùng “ngoại giao tâm công” của Nguyễn Trãi. Những tư tưởng đó được kế thừa, phát huy cao độ nhờ nhân cách, bản lĩnh, nghệ thuật và trí tuệ tầm cao Hồ Chí Minh. Thứ hai, kế thừa tinh hoa văn hóa đông, tây, kim, cổ của nhân loại như nho giáo, phật giáo, tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục Hưng, của cách mạng tư sản phương Tây, chủ nghĩa Tam Dân ở Trung Quốc, cũng như phương pháp “tìm kiếm bạn đồng minh, cả trong và ngoài nước” của Tôn Dật Tiên, nghiên cứu binh pháp của Tôn Tử. Từ đó Người rút ra bài học về việc dùng ngoại giao để thắng địch: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh. Vây thành mà đánh là kém nhất,..” [59, tr.518]. Người rất coi trọng vai trò của nhân dân trong hoạt động ngoại giao vì hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới tạo thành nền tảng, kết hợp với tinh hoa ngoại giao của thế giới. Thứ ba, tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, một trong những nguồn gốc lý luận và tư tưởng cơ bản để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Đặc biệt Người rất coi trọng vai trò của nhân dân làm ra lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, là động lực phát triển của xã hội, của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người tiếp thu và vận dụng kinh nghiệm ngoại giao nhân dân của Liên Xô, Trung Quốc. Thứ tư, từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn và sự rèn luyện trong công tác đối ngoại của Hồ Chí Minh: Kể từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước đến khi Đảng ta được thành lập (19111930) và tiến hành công tác đối ngoại của Đảng (1930-1945), chỉ đạo công tác ngoại giao Nhà nước, đối ngoại của Đảng, công tác đối ngoại nhân dân, cho tới khi Người qua đời (1945-1969). Người đã sáng lập, xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, 11 gồm ba bộ phận cấu thành được kết hợp chặt chẽ với nhau, để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của nền ngoại giao Việt Nam. Tư tưởng và hoạt động thực tiễn đối ngoại của Người đã trở thành khoa học và nghệ thuật ngoại giao của nước nhà trong thời đại Hồ Chí Minh. 1.1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân Lịch sử và truyền thống dân tộc ta đã truyền vào con người Hồ Chí Minh với đầy đủ tố chất của những sứ giả xưa kia, cùng với lịch sử dân tộc với hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, bề dày lịch sử bang giao quốc tế. Lịch sử bang giao quốc tế của dân tộc ta còn ghi lại một số hoạt động của các sứ thần nước ta như: Mạc Đĩnh Chi, Lê Văn Thịnh, Giang Văn Minh, Lê Quý Đôn, những nhà bác học thông tuệ của Việt Nam đã làm rạng rỡ hai tiếng Việt Nam qua cách ứng xử trí tuệ khi đi sứ. Với tinh thần yêu nước, mối đồng cảm với những người cần lao trên thế giới cũng là cơ sở để Người tiếp thu một cách tự nhiên chủ nghĩa Mác - Lênin. V.I Lênin cho rằng: “Nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thắng lợi, không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản” [48, tr.28]. Thời kỳ Người hoạt động ở Pháp những năm hai mươi của thế kỷ 20, với sự vận động quốc tế để ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, thực chất là hoạt động đối ngoại nhân dân. Người đã nhận thức đúng vai trò và vị trí công tác quan trọng này, đã nâng tầm đối ngoại nhân dân thành binh chủng hợp thành đội quân làm công tác đối ngoại chung của đất nước. Khi ở Liên Xô và Trung Quốc, ngoài hoạt động Quốc tế Cộng sản, Người còn đi tuyên truyền và vận động các tổ chức, đoàn thể quần chúng ở Liên Xô, Trung Quốc anh em ủng hộ nhân dân ta chống thực dân Pháp; giúp các cán bộ, thanh niên và nhi đồng ưu tú của nước ta đi học tập, bồi dưỡng ở các nước đó. Người còn lập ra ở Trung Quốc “Hội đoàn kết những dân tộc bị áp bức châu Á”. Trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Người cùng Đảng ta và Mặt trận Việt Minh với nhiều hình thức hoạt động phong phú, gắn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, với nhân dân thế giới. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người lập Hội Việt - Trung thân hữu. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với kênh ngoại giao Nhà nước, các hoạt động tích cực, kịp thời của kênh đối ngoại nhân dân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (4-1975). Với tư tưởng lớn và tiến bộ vượt bậc so với các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ 20, đó là tư tưởng gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Pháp. Người cũng bền bỉ đi tuyên truyền, vận động không chỉ những người cộng sản, mà còn tất cả các tầng lớp nhân dân, nhân sĩ trí thức Pháp, 12 những người nước ngoài ở Pháp, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân trên thực tế đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Chính tư tưởng của Người đã tạo ra một “đội ngũ những người làm công tác đối ngoại nhân dân” đó là: Cán bộ các đoàn thể, tổ chức quần chúng, các tầng lớp nhân dân, những người đảm đương một loại hình công tác mới rất riêng biệt, nó bổ sung, hỗ trợ cho kênh ngoại giao chính thức của Đảng và Nhà nước. Người cho rằng: “muốn làm tốt công tác đối ngoại phải hiểu tình hình nước mình, vì “mang quốc mệnh trên vai” và hiểu người, hiểu bạn bè quốc tế” [48, tr.36]. Những chặng đường lịch sử ấy đã thể hiện nổi bật quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân. 1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hòa bình, đoàn kết và hữu nghị, hợp tác trên cơ sở bình đẳng: Đó là nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện nhất quán toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Người về quan hệ quốc tế, được đúc kết thành chân lý của thời đại “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Người nhấn mạnh: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào; đồng thời công việc của ta trước hết ta phải làm lấy”, “Về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh” và Người gọi đó “là cái gốc, là điểm mấu chốt” của mọi vấn đề” [10, tr.6]. Một trong những mối quan hệ quan trọng nhất khi đó là giữa Việt Nam với hai nước trên bán đảo Đông Dương, vì cùng trong “xứ Đông Dương thuộc Pháp”. Với tầm nhìn chiến lược, ngay từ khi thành lập Đảng (3-21930), Hồ Chí Minh đã đề ra việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chứ không thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương như ý kiến của Quốc tế Cộng sản. Thực tế lịch sử quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia những năm sau này đã chứng minh tính đúng đắn tư tưởng đó của Người. Khi phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế bị chia rẽ, chính tư tưởng về đoàn kết quốc tế, về quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, về không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tạo cho Việt Nam một lợi thế để tranh thủ được tình đoàn kết của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đối với cách mạng nước ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, góp phần đoàn kết phong trào. Tư tưởng của Người về hoà bình và chống chiến tranh phi nghĩa: Được thể hiện trong bức thư Người gửi cho nhân dân Pháp năm 1947, với tinh thần “còn nước còn tát”, Hồ Chí Minh kiên trì tìm kiếm giải pháp cứu vãn hòa bình cho cuộc xung đột thực dân Pháp gây ra ở Đông Dương. 13 Người nhấn mạnh: “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau” và Người nêu cao ngọn cờ hòa bình, ra sức tập hợp lực lượng rộng rãi chống những thế lực hiếu chiến “Chúng ta không thể nói khối phương Đông và khối phương Tây. Tôi muốn nói có những người yêu chuộng hòa bình và có những kẻ chủ trương chiến tranh” [10, tr.7]. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng cho rằng hòa bình và chống chiến tranh xâm lược phải gắn liền với đấu tranh cho độc lập dân tộc. Người còn nêu rõ: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, nhưng hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc,...Muốn có hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự; và đấu tranh cho độc lập tức là đấu tranh bảo vệ hòa bình” và Người còn khẳng định: “Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác” [10, tr.7]. Về phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng: Khi còn hoạt động ở hải ngoại, Hồ Chí Minh đã nhận rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thực dân và đế quốc gieo rắc hận thù giữa các dân tộc ở Đông Dương để nhằm duy trì sự thống trị của chúng. Người nêu rõ “sự biệt lập và thiếu tin cậy lẫn nhau” đã làm suy yếu các dân tộc phương Đông và trong thông cáo chính sách đối ngoại đầu tiên của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 3-101945, Người nêu rõ: “Ba nước phải cùng nhau đấu tranh để cởi ách đô hộ, giúp đỡ lẫn nhau giành lại và duy trì nền độc lập của mình,...Ba nước sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc kiến thiết và cùng nhau tiến lên trên con đường tiến bộ” [10, tr.8]. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Người xác định Việt Nam “cần giúp đỡ Lào, Miên để bạn tự làm lấy”, giúp “vô điều kiện”, xem đó là “nghĩa vụ quốc tế”, đồng thời “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai quan hệ giữa các nước trên bán đảo Đông Dương bước vào giai đoạn mới. Việt Nam đã triển khai quan hệ với các nước bạn linh hoạt, hình thành mặt trận đoàn kết của nhân dân Đông Dương chống xâm lược. Những mối quan hệ đó mang tình nghĩa sâu đậm “hợp tác bền vững lâu dài”. Với Trung Quốc, Hồ Chí Minh dày công vun đắp mối tình “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Người nêu rõ: “Thời xưa nhân dân hai nước Việt - Trung là những người bạn cùng bị áp bức, ngày nay là bạn chiến đấu, cùng làm cách mạng” [10, tr.8]. Đặc biệt, tài ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Hoa, phù hợp với truyền thống hòa hiếu bang giao giữa hai nước và quan hệ toàn cầu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, về quyền tự quyết, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc, cho tới nay vẫn luôn là mục tiêu và động lực cho các hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và công tác đối ngoại nhân dân. Theo tư tưởng của Người thì: “Các nước 14 thuộc địa không phải cứ ngồi chờ sự giúp đỡ của người đồng chí mình, mà phải “mang sức ta để giải phóng cho ta”, phải “chủ động” và “tự bản thân mình”. Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới chính là ở chỗ “phải tự bản thân mình tạo nên sức mạnh cho mình để khi cách mạng ở thuộc địa thành công thì họ có thể giúp những anh em mình ở phương Tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn” [48, tr.28]. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn nêu cao mục tiêu: Nâng cao uy tín đất nước, để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” và “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới”. Vào những năm đầu thế kỷ 20, nước ta có các phong trào yêu nước nổ ra, nhưng đều thất bại. Trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã gắn kết một cách biện chứng giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tư tưởng của Người về cùng tồn tại hòa bình giữa các chế độ chính trị, xã hội khác nhau và bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trong quan hệ quốc tế. Theo luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hòa bình thật sự chỉ khi giai cấp bị bóc lột trên toàn thế giới được giải phóng. Tư tưởng về đồng minh, về đoàn kết lực lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ ở cách chọn đối tượng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những người cần tranh thủ trước hết là nhân dân chính quốc, tranh thủ làm công tác địch vận, binh vận. Chính vì vậy trong kháng chiến chống thực dân Pháp chúng ta có nhiều bạn Pháp đã cùng đứng trong hàng ngũ với chúng ta để chiến đấu. Cho tới nay số người này họ vẫn đang là những nhà hoạt động tích cực cho quan hệ hữu nghị Việt-Pháp. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, tư tưởng về đối ngoại nhân dân của Người thể hiện rõ trong việc phân biệt ai là bạn, ai là thù và ai là đồng minh. Các thế lực phản động trong Chính phủ Mỹ là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, nhân dân Mỹ là bạn của Việt Nam. Lúc sinh thời Người căn dặn: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bạn bớt thù. Mọi người yêu nước tiến bộ là bạn của ta. Đế quốc Mỹ, bọn phản cách mạng là kẻ thù của ta” [48, tr.32]. Lời dạy đó của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại nhân dân của Người: Xuất phát từ sức mạnh của dân tộc Việt Nam là tổng hợp các yếu tố vật chất, tinh thần, truyền thống và hiện đại. Người xác định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới” và năm 1961, khi phân tích về chiều hướng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, Người nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, 15 chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng” [10, tr.7]. Người cũng xem trọng sự đoàn kết giữa các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Người cho rằng điểm then chốt là không ngừng mở rộng tập hợp lực lượng quốc tế, thêm bạn bớt thù, với phương châm: “Làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết” [10, tr.7]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, xây dựng mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam, đấu tranh vì mục tiêu chung của thời đại: Đây cũng là tư tưởng mang tính chiến lược xuyên suốt trong hoạt động quốc tế của Người, của Đảng ta và nhân dân ta. Tư tưởng đó là một đặc điểm lớn của dân tộc và cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử, trong đoàn kết chống giặc ngoại xâm và phòng chống thiên tai để xây dựng đất nước. Tư tưởng của Người về “thêm bạn, bớt thù”, về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được hội tụ trong 14 chữ vàng đó là: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế trước hết là đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, những người cùng chung nỗi nhục mất nước. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tham gia thành lập Liên hiệp Hội các dân tộc bị áp bức. Đoàn kết giữa các nước thuộc địa và chính quốc là liên hiệp giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, để “hình thành một lực lượng khổng lồ”. Cũng theo tư tưởng của Người, đoàn kết là làm cho các thuộc địa từ chỗ “cách biệt nhau” đến “hiểu biết nhau hơn và đoàn kết hơn”. Nếu xét về địa lý chính trị, thì tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải đoàn kết giữa các nước láng giềng cùng chung cảnh ngộ. Đây là tư tưởng về xây dựng mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt - Lào và Campuchia; mối quan hệ hữu nghị Việt - Trung; các quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Ấn Độ. Có thể nói rằng, đối ngoại nhân dân Hồ Chí Minh đã góp công to lớn trong phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nhân dân thế giới, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (7-1954) giải phóng miền Bắc, tạo cơ sở quyết định giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (4-1975). Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoạt động đối ngoại nhân dân được phát triển mạnh mẽ trong quan hệ với các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia), với nhân dân, bè bạn trên thế giới, nhất là nhân dân Mỹ. Chính sự hiểu biết khách quan của nhân dân Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa của chính quyền Mỹ ở Việt Nam đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chống Mỹ xâm lược Việt Nam lên cao. Chính cuộc đấu tranh này đã góp phần ngăn cản Quốc hội Mỹ trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh không thông qua quyết định sai lầm để tiếp tục dính líu sâu vào cuộc chiến, đẩy chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã bị suy yếu mau chóng tan rã. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù” còn xuất phát ở tính nhân dân cao cả, với một tầm nhìn chính trị rất sâu sắc, Người luôn phân biệt ai là bạn, ai là thù 16 trong quan hệ quốc tế. Năm 1941, Người sang Trung Quốc và bị bắt, khi ở trong tù được biết J.Nê-ru, lãnh tụ phong trào giải phóng Ấn Độ cũng bị thực dân Anh bắt giam, Người đã viết bài thơ gửi J.Nê-ru, nội dung bài thơ thể hiện rõ tầm nhìn về đồng minh, về kẻ thù. Tư tưởng về “thêm bạn, bớt thù” của Người không chỉ dừng lại ở tư tưởng, mà còn trở thành những hành động cụ thể. Người đã làm rất nhiều việc để vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Như lập Uỷ ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam (11-1950) và chính Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự đầu tiên của Uỷ ban bảo vệ hòa bình thế giới Việt Nam. Về sách lược lợi dụng mâu thuẫn: Vào những năm 1960, khi Liên Xô và Trung Quốc bất đồng sâu sắc, Hồ Chí Minh chủ trương giữ gìn đoàn kết, giữ vững quan hệ cân bằng với cả hai nước lớn xã hội chủ nghĩa anh em, không đi với nước này chống nước kia. Người nêu rõ: “Mục đích của ta là vì đoàn kết. Tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu ai,...Phải làm sao cho trong Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các nước bạn anh em” và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, một mặt quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, mặt khác ta luôn bày tỏ thiện chí hòa bình, khảng định Việt Nam có thể “trải thảm đỏ” để quân Mỹ rút về nước”. [10, tr.8]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã đề ra những quan điểm sáng tạo, sâu sắc, để lại những kinh nghiệm và bài học quý về quan hệ và cách ứng xử với nước lớn. Về quan điểm, đường lối, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao: được Người thể hiện trong đường lối cách mạng Việt Nam và thực tiễn hoạt động ngoại giao đa phương, phong phú, linh hoạt qua nhiều thời kỳ cách mạng của dân tộc Việt Nam. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với phong cách ứng xử linh hoạt, nhân nhượng có nguyên tắc, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương và vận dụng nhuần nhuyễn “5 điều biết” là những phong cách và nghệ thuật ngoại giao được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng triệt để. Tư tưởng đó của Người có tầm lý luận cao, vừa có tính thực tiễn sâu sắc. Sự tương tác giữa lý luận và thực tiễn làm tăng giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là “nền tảng và kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Đảng ta”. Nó được thể hiện ở chỗ: Trước hết, tư tưởng ấy không chỉ soi rọi cho chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là đảm bảo cho sự thành công về đối ngoại nói chung và công tác đối ngoại nhân dân Việt Nam trong mọi thời kỳ cách mạng. Nội dung tư tưởng của Người còn thể hiện bản chất của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là: hoà bình, hữu nghị và hợp tác, chống chiến tranh xâm lược trong quan hệ với các nước, đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước lớn. Bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản và đề cao đạo lý trong quan hệ quốc tế; gắn Việt Nam với thế giới, giữa độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; giữa độc lập, 17 tự chủ, tự cường với đoàn kết hợp tác quốc tế, coi ngoại giao là một mặt trận, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, với phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, đã để lại cho chúng ta những mẫu mực trong cách ứng xử các vấn đề ngoại giao trong mọi thời kỳ cách mạng. Tư tưởng ngoại giao ở Người luôn trở thành một mặt trận của cách mạng, đàm phán các hiệp định quốc tế lớn, có ý nghĩa quan trọng để phát huy cao độ thắng lợi trên chiến trường, tạo tiền đề kết thúc cuộc chiến vào thời điểm có lợi nhất cho dân tộc. Hai là; dự báo, nắm bắt kịp thời cơ, vững vàng nguyên tắc, linh hoạt về sách lược trong thực tiễn với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Như vậy cái “bất biến” đó là nguyên tắc độc lập, thống nhất, tự do, hạnh phúc của nhân dân và chủ quyền quốc gia; còn “vạn biến” là sách lược tuỳ từng hoàn cảnh, điều kiện mà ta áp dụng biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, hòa hoãn khi cần thiết, thỏa hiệp có nguyên tắc, để đạt mục đích cao nhất cho dân tộc. Ngoại giao “tâm công” và 5 điều biết (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa) là những phương pháp ngoại giao tiêu biểu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì đối ngoại là hoạt động đa dạng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi phải biết nắm vững, kết hợp quyền biến, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, có phương pháp phù hợp và bối cảnh cụ thể. Dự báo và nắm bắt thời cơ cho đất nước không chỉ là trí tuệ và khả năng tiên tri của Người, còn là yêu cầu có ý nghĩa quyết định trong hoạt động đối ngoại. Với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh vừa dựa trên nền tảng đó, vừa là đỉnh cao của việc kết hợp hài hòa giữa kiên định mục tiêu, nguyên tắc với linh hoạt, chủ động về sách lược. Coi trọng lựa chọn thời cơ, xử lý uyển chuyển các quan hệ đối ngoại. Ba là; chính nhờ sự góp sức to lớn của mặt trận ngoại giao nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ta đã tranh thủ được nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Mặt trận ngoại giao nhân dân đã tạo ra một phong trào phản đối chiến tranh xâm lược chiến đấu ngay trong lòng quốc gia của kẻ thù xâm lược như: Đã tạo nên phong trào nhân dân Pháp rầm rộ đấu tranh, nằm trên đường ray xe lửa để phản đối những chuyến tàu chở vũ khí giết người sang Việt Nam; với những cuộc mít tinh, biểu tình của hàng chục vạn quần chúng, gây chia rẽ lớn trong nội bộ nước Pháp. Chính mặt trận ngoại giao nhân dân này đã góp phần buộc thực dân Pháp phải từ bỏ xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, mặt trận nhân dân thế giới đã ra sức đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Chính sức mạnh ngoại giao đó kết hợp với sức mạnh của dân tộc, góp phần to lớn buộc Mỹ phải xuống thang, đi đến kết thúc chiến tranh. Trong Di chúc, khi nói về ngoại giao nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn 18 các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta" [76, tr.88]. Bốn là; trong cách ứng xử quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tư tưởng bình đẳng, tự do. Trong những năm hai mươi của thế kỷ 20, hình ảnh người thanh niên Việt Nam Nguyễn Ái Quốc phát biểu trước các hội nghị quốc tế và làm việc trong Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản đã để lại những ấn tượng về cách ứng xử tự tin và tư tưởng về quyền bình đẳng, bác ái giữa con người và các dân tộc. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đi hiên ngang trước hàng rào danh dự quân Pháp và Người bước ngang hàng với chính khách Pháp để bắt tay, đã thể hiện bản lĩnh tự tin, quan niệm bình đẳng giữa các dân tộc. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét về Người: “Sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại” [10, tr.8]. Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh phản ánh nhân cách của Người, thể hiện tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, nhạy bén, thấm nhuần chất văn hóa, phong cách mới, viết giản dị, dễ hiểu, giàu sức cảm hóa và thuyết phục. Người cho rằng: “Nắm vững nghệ thuật của điều có thể, không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể” [10, tr.9]. Điểm nổi bật trong nghệ thuật này là lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương và biết nhân nhượng có nguyên tắc, đúng lúc để bảo vệ, phát triển thực lực cách mạng, đi tới giành thắng lợi. Tư tưởng của Người luôn coi nhân dân là bạn, phân biệt rõ nhân dân ở chính quốc với thực dân và kẻ xâm lược. Người luôn giải thích và thực hiện mối quan hệ thân thiện, hữu nghị, đoàn kết với nhân dân các nước, đó là khẩu hiệu “bốn phương vô sản đều là anh em”. Người cũng giáo dục nhân dân ta cần biết phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là thù, phân biệt bọn thực dân Pháp và bọn xâm lược Mỹ, với nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ. Có thể thấy rằng, trong thế kỷ 20 chưa có nước nào trên thế giới có khả năng tập hợp lực lượng toàn thể nhân loại tiến bộ để đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, giải phóng dân tộc cho tổ quốc mình như Việt Nam. Vì thế mặt trận đối ngoại nhân dân ta mang đậm dấu ấn tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh, lấy bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, với tinh hoa văn hóa của thế giới, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn cách mạng Việt Nam với phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới. Lấy đoàn kết là sức mạnh theo tinh thần "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công" làm nền tảng đối ngoại nhân dân. Nội dung tư tưởng đó của Người đều hàm chứa những định hướng chiến lược, những giải pháp giàu tính nghệ thuật cách mạng và ý chí tiến công như: Lấy yếu đánh mạnh, biết lợi dụng và khai thác xu thế dân chủ đi tới gây tiếng vang lớn, tạo 19 sức mạnh dư luận. Nhờ đó mà đấu tranh ngoại giao nhân dân Việt Nam được thực hiện liên tục và luôn giành thắng lợi trong mọi hoàn cảnh và mọi thời kỳ cách mạng khác nhau. 1.1.4. Thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh Mở đầu hoạt động đối ngoại của Người là hoạt động đối ngoại nhân dân từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước, trước hết là khảng định quyền dân tộc tự quyết cho dân tộc Việt Nam, cùng với lịch trình đi qua các nước thuộc địa và chính quốc từ năm 1911 đến khi gặp được chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Pháp với việc thay mặt nhân dân Việt Nam, Người đưa yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Véc-xây để đòi các quyền cơ bản cho nhân dân Việt Nam là: tự do, dân chủ và các quyền sơ đẳng khác. Các hoạt động khác của Người như: tham dự Hội nghị Nông dân quốc tế, dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản và nhiều đại hội của các tổ chức quốc tế khác. Đây là dịp để Người tiếp xúc với lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản trên thế giới, học hỏi kinh nghiệm và phối hợp hành động. Ngay cả khi Đảng ta ra đời (3-2-1930) và nước nhà tuyên bố độc lập (2-91945), Người vẫn chỉ đạo và trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại nhân dân. Có thể nói rằng công tác đối ngoại nhân dân là một sáng tạo, một bước tiến lớn trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nhất là trong bối cảnh khi vận mệnh đất nước đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và bị cô lập với thế giới bên ngoài. Khi đó, Người thường xuyên vận động quốc tế, tranh thủ tình hữu nghị, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp, các nước thuộc địa phụ thuộc và nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là nhân dân Liên Xô và Trung Quốc, Ấn Độ đối với nhân dân ta. Thông qua giới thiệu, thông tin về tình cảnh dân tộc Việt Nam bị thực dân Pháp áp bức bóc lột. Sau Đại hội lần thứ I của Đảng (3-1935), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta với thực hiện nhiệm vụ chung của nhân dân thế giới chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc, ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp và tranh thủ sự ủng hộ đó đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Những hoạt động đó, chứng tỏ Người luôn coi trọng và biết tận dụng tối đa để phát huy lợi thế của công tác này. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), với những hoạt động đối ngoại của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân trong thời kỳ này đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của Quốc tế Cộng sản, của Liên Xô và cách mạng Trung Quốc đối với cách mạng nước ta. Thông qua Mặt trận Việt Minh tăng cường phối hợp với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; ủng hộ cuộc chiến đấu chống phát xít của nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc. Gắn cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Nhật - Pháp với cuộc chiến đấu của lực lượng Đồng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan