Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát...

Tài liệu Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay

.PDF
29
631
79

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi trung t©m ®µo t¹o båi d-ìng gi¶ng viªn lý luËn chÝnh trÞ ……..  …….. hå thÞ hµ vËn dông quan hÖ BiÖn chøng gi÷a lùc l-îng s¶n xuÊt vµ quan hÖ s¶n xuÊt vµo ph¸t triÓn c¸c thµnh phÇn kinh tÕ ë tØnh nghÖ an hiÖn nay LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc triÕt häc hµ néi - N¨m 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -----    ----- HỒ THỊ HÀ VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY Chuyên ngành : TRIẾT HỌC Mã số : 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG TUẤN HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Mở đầu Chương 1: 1.1. 1.2. Chương 2: 2.1. 2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3 Chương 3: 3.1. 3.1.1. 3.1.2. 3.1.3. 3.2. Trang 1 Nội dung và yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa 6 quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản 6 xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính 31 chất và trình độ của LLSX. Vận dụng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ 35 sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An hiện nay – thực trạng và vấn đề đặt ra. Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An. 35 Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa 39 LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trước thời kỳ đổi mới. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa 50 LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong những năm gần đây. Thành tựu đạt được và nguyên nhân. 50 Những khuyết điểm yếu kém. 64 Vấn đề đặt ra. 68 Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong thời gian tới. Mục tiêu và phương hướng tổng quát: 70 Phương hướng và quan điểm phát triển. 70 Mục tiêu tổng quát. 70 Nhiệm vụ chủ yếu: 72 Những giải pháp cơ bản 79 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. 3.2.4. 3.2.5. 3.2.6. Phát huy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Nghệ An Đẩy nhanh ứng dụng KHCN. Từng bước hoàn thiện các loại thị trường. Đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực ở Nghệ An. Nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý kinh tế. Hoàn thiện thực hiện các hình thức phân phối. Phần Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 82 82 83 84 86 90 100 102 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội. Nhận thức và vận dụng quy luật này trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đi theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa (nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII). Đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội nước ta cũng như điều kiện quốc tế hiện nay. Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới, vấn đề chúng ta cần quan tâm là vai trò con người, sự phát triển của công cụ lao động, trình độ quản lý sản xuất, phân công lao động và trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật của người lao động trong quá trình sản xuất... Đặc biệt, đối với Nghệ An, một tỉnh nghèo nằm ở miền Trung Việt Nam, luôn chịu sự ảnh hưởng khắc nghiệt của tự nhiên (nắng lắm mưa nhiều, bão lụt thường xuyên xẩy ra), đời sống kinh tế còn thấp kém lạc hậu, trình độ, kỹ năng của người lao động còn chậm phát triển, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Nghệ An là một yêu cầu cấp thiết để nhanh chóng đưa tỉnh nhà tiến kịp với sự phát triển của cả nước. Qua hơn 20 năm đổi mới, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, do đó mở ra khả năng mới, điều kiện mới cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục phát triển. Có được những thành tựu đó, là do Đảng bộ tỉnh đã nhận thức đúng và bước đầu biết vận dụng sát hợp hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận dụng quy luật này còn có những hạn chế nhất định: việc huy động và sử dụng 1 các nguồn lực còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, trình độ công nghệ vẫn lạc hậu so với nhiều tỉnh xung quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính bền vững của sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế... Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải nhận thức sâu sắc và vận dụng quy luật sao cho đúng đắn hơn, phù hợp hơn với tình hình thực tiễn của tỉnh nhà. Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngoài các bộ sách giáo khoa giảng dạy ở các trường Đảng, các trường Đại học và Cao đẳng còn có các sách, luận văn, luận án, các tạp chí viết về vấn đề này như: “Những bài học 10 năm đổi mới” của Nguyễn Phú Trọng, PGS.PTS khoa học lịch sử, tạp chí Cộng sản số 8 - 1996; “Triết học Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thời đại ngày nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Long GS.PTS triết học , Tạp chí Triết học số 4 - 1993. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình khoa học nghiên cứu biểu hiện đặc thù của quy luật này trong thời kỳ quá độ lên CNXH, như luận án phó tiến sỹ khoa học của Nguyễn Tĩnh Gia: “Biểu hiện đặc thù của QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”. Có công trình nghiên cứu sự vận dụng quy luật này ở một số tỉnh như luận án PTS: “Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Lâm Đồng” của Bùi Chí Kiên. Có một số công trình nghiên cứu và bài viết đề 2 cập đến khía cạnh khác nhau của lý luận hình thái kinh tế - xã hội như: “ Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay” của GS Hồ Văn Thông; “Nhận thức con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của GS.PTS Nguyễn Ngọc Long; “Biện chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong thực tiễn cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia; “Quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp” của PTS Hoàng Bính và Nguyễn Kim Lai; “ Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất xét từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” của Trương Hữu Toàn; "Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Tuấn. Các công trình khoa học trên thường nghiên cứu toàn diện quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất và trong phạm vi tác động của quy luật khá rộng bao gồm trên nhiều lĩnh vực, trên địa bàn nhiều tỉnh hoặc trên địa bàn cả nước. Ở Nghệ An, cũng có một số công trình, bài viết về sự vận động của quy luật này, song mới chỉ nghiên cứu một mặt hay một số mặt nào đó của lực lượng sản xuất hoặc quan hệ sản xuất. Luận văn này cố gắng tiếp cận các kết quả của các công trình khoa học, các bài viết, các đề tài khoa học của địa phương để tổng kết, phân tích thực tiễn nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất với các thành phần kinh tế ở địa bàn một tỉnh, đồng thời vạch ra những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở Nghệ An. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: * Mục đích: - Trên cơ sở phân tích quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, luận văn làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đánh giá thực trạng vận dụng quy luật 3 này ở Nghệ An hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế Nghệ An phát triển. * Nhiệm vụ: Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An - Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay. - Kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Luận văn này tập trung làm rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Từ việc phân tích những đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong những năm gần đây để làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng trên vào phát triển các thành phần kinh tế cũng như các giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng. - Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết quả các số liệu thống kê của Cục thống kê Nghệ An; kết quả hội thảo và nghiệm thu các đề tài khoa học cấp tỉnh (có liên quan) thực hiện tại Nghệ An. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê, khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp lịch sử và lôgíc… 6. Đóng góp của luận văn: 4 - Thông qua việc tổng kết thực tiễn, luận văn phân tích, so sánh để thấy được vai trò của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng một cách khoa học quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường chính trị, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1 NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT 1.1. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lƣợng sản xuất Xã hội loài người trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, cũng là một hệ thống rất phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều mối liên hệ. Các nhà tư tưởng trước C. Mác đã có nhiều đóng góp trong hoạt động nghiên cứu xã hội và con người với mục tiêu là tìm ra bản chất và quy luật phát triển của xã hội loài người. Nhưng do những hạn chế về mặt quan điểm, lập trường, về mặt lịch sử, về trình độ của khoa học tự nhiên và xã hội, nên họ đã không vượt khỏi chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình trong nghiên cứu xã hội và xem xét lịch sử. Từ quá trình sản xuất vật chất của con người, C.Mác đã khám phá ra các quy luật chi phối sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội, trong đó 5 có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, lần đầu tiên C.Mác đã phát hiện ra quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Đó là quy luật cơ bản chi phối toàn bộ quá trình lịch sử loài người. Nó quyết định sự thay thế các phương thức sản xuất và cùng với sự thay đổi các phương thức sản xuất là sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. LLSX chính là tất cả những lực lượng vật chất được sử dụng vào việc sản xuất ra của cải vật chất, hay nói cách khác LLSX là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, mà trước hết là công cụ sản xuất và những con người với trình độ kỹ năng, kinh nghiệm và thói quen lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra của cải vật chất. Trong LLSX thì con người là yếu tố quan trọng nhất, cùng với con người - người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất tạo nên QHSX. Quan hệ sản xuất vật chất được biểu hiện trên ba mặt, đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân phối sản phẩm làm ra. Đương nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất thì quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối cũng có vai trò rất quan trọng. Những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận để chúng ta tiến hành điều chỉnh và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo quy luật khách quan. 6 * Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng cấu thành phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, đến lượt nó, quan hệ sản xuất tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo nguyên lý của phép biện chứng duy vật, sự phù hợp, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối tạm thời, thoáng qua và có điều kiện, còn đấu tranh, sự không phù hợp của các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Chính sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là nguồn gốc tạo nên sự vận động phát triển trong mâu thuẫn của phương thức sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất “không phù hợp” với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên đây là toàn bộ nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật khách quan, nên nó chi phối sự vận động và phát triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Như vậy, nghiên cứu nội dung quy luật này sẽ giúp chúng ta khắc phục tư tưởng chủ quan nóng vội, duy ý chí trong việc thiết lập mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công cụ lao động chủ yếu còn ở trình độ thủ công. Việc nắm vững và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là cơ sở nền tảng quan trọng cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. 1.2. Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 7 mối quan hệ cơ bản biểu hiện của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật này mang tính khách quan, chi phối toàn bộ quá trình phát triển của xã hội loài người. Do vậy khi vận dụng quy luật này yêu cầu nhân tố chủ quan phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn nội dung của nó, để từ đó vận dụng nó một cách phù hợp với thực tiễn địa phương, đây là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển sản xuất vật chất nói riêng, sự phát triển của xã hội nó chung. Chương 2: VẬN DỤNG QUAN HỆ GIỮA LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NGHỆ AN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA. 2.1- Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An. Nghệ An là tỉnh thuộc Bắc trung bộ, có toạ độ địa lý từ 18 033’10” đến 19024’43” vĩ độ Bắc và từ 103052’53’’ đến 105045’50’’ kinh độ đông, phía Bắc giáp Thanh Hoá với đường biên dài 196,13km; phía Nam giáp Hà Tĩnh với đường biên dài 92,6 km; phía Tây giáp nước bạn Lào với đường biên dài 419 km, đã có lịch sử quan hệ hữu nghị lâu đời, là điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế và khai thác những tiềm năng phát triển của nước bạn Lào; phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 82 km; Diện tích đất tự nhiên: 1.648.729 ha; Nghệ An có 1 thành phố loại một, 1 thị xã và 17 huyện, thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò, 10 huyện miền núi… Về địa hình: Nghệ An là tỉnh nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, địa hình đa dạng, phức tạp và bị chia cắt bởi hệ thống các đồi núi, sông suối. Về khí hậu - Thời tiết: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Nghệ An chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khô và nóng và gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt, Độ ẩm trung bình hàng năm là: 84%. Sông ngòi: Cả tỉnh có tổng chiều dài sông suối là 9.828 km, mật độ trung bình là 0,7 km/km2. Tổng lượng nước hàng năm khoảng 28.109 m3. 8 Nhìn chung nguồn nước khá dồi dào, đủ để đáp ứng cho sản xuất và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của nhân dân. Biển, bờ biển: Hải phận rộng 4.230 hải lý vuông, đáy biển tương đối bằng phẳng, từ độ sâu 40m trở ra có nhiều đá ngầm, cồn cát. Vùng biển Nghệ An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Bãi biển Cửa Lò là một trong những bãi tắm đẹp và hấp dẫn. Tài nguyên đất: Tổng quỹ đất đã sử dụng là 956.250 ha/tổng diện tích đất tự nhiên: 1.648.729 ha, chiếm 58%. Trong đó đất nông nghiệp chiếm gần 196.000 ha chiếm 11,9%, đất lâm nghiệp trên 685.000 ha, chiếm 41,8%, đất chuyên dùng trên 59.000 ha chiếm 3,6%, đất ở gần 15.000 ha chiếm 0,9%. Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất có rừng trên 685.000 ha. Tổng trữ lượng gỗ trên 50 triệu m3; nứa, mét 1.050 triệu cây, trong đó trữ lượng rừng gỗ kinh tế gần 8 triệu m3; nứa 415 triệu cây, mét 19 triệu cây. Ngoài ra còn có các loại lâm sản: song, mây, dược liệu tự nhiên phong phú để phát triển các mặt hàng xuất khẩu. Tài nguyên biển: Bờ biển Nghệ An dài 82 km. Cảng biển Cửa Lò được xác định là cảng biển Quốc tế quan trọng của vùng Bắc Trung bộ, là cửa ngõ vận tải cho nước bạn Lào và vùng đông bắc Thái Lan. Hải phận Nghệ An có khoảng 4.230 hải lý vuông, biển có nhiều loại động vật phù du, là nguồn thức ăn tốt cho các loại hải sản sinh sống và phát triển. Tài nguyên khoáng sản: Đa dạng, phong phú trong đó có nhiều loại khoáng sản quý hiếm như vàng, đá quý Rubi, thiếc, đá trắng, đá granit, đá bazan… Tài nguyên nước: Nghệ An có nguồn nước mặt dồi dào (trên 30 tỷ m3) thuận lợi cho phát triển sản xuất, dân sinh kinh tế. Dân số: Đến năm 2007, dân số Nghệ An có khoảng 3.122.405 người, trong đó thành thị 350.629 người, nông thôn 2.771.776 người. Nghệ An là tỉnh có quy mô dân số và lao động đứng thứ 4 trong cả nước, bình quân mỗi năm số lao động đến tuổi bổ sung vào nguồn hơn 3 vạn người. 9 Giáo dục đào tạo chuyển biến tích cực. Hệ thống trường lớp được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp, mua sắm các trang thiết bị đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu học tập. Chất lượng giáo dục toàn diện có tiến bộ. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác dân số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở khám chữa bệnh từ tỉnh đến xã từng bước được củng cố nâng cấp. Chất lượng khám và điều trị bệnh được cải thiện. Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm. Tỷ lệ trạm xã xã phường có bác sĩ đạt 70%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 41% năm 2000 xuống còn 28% năm 2005 [22 - tr 17]. Tóm lại, những đặc điểm về kinh tế - xã hội nói trên có ảnh hưởng rất lớn đến sự vận dụng quy luật phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An nói riêng cũng như cả nước nói chung. 2.2. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trƣớc thời kỳ đổi mới. Trước năm 1986, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đều có những quan niệm cứng nhắc về CNXH, đó là quan niệm cho rằng cần phải đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH. Thiết lập và duy trì quá lâu kiểu QHSX với những đặc trưng như vậy làm cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh ngay trong lòng kinh tế quốc doanh và Hợp tác xã ngày càng phổ biến, các cấp lãnh đạo và đơn vị cơ sở đều ra sức khắc phục trong nhiều năm, song vẫn không giảm bớt. Chúng ta đã đồng nhất tư hữu tư liệu sản xuất (mà tư hữu đó được sử dụng vào việc bóc lột lao động của người khác) với sở hữu cá nhân của các thành viên, do đó khi đưa lao động vào làm ăn tập thể là xoá ngay sở hữu cá nhân đối với các tư liệu sản xuất của họ. Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô và vai trò quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã không được tách bạch rõ ràng. 10 Tất cả những tiêu cực nảy sinh trong lòng kinh tế quốc doanh, tập thể và những vướng mắc nan giải trong cơ chế quản lý, phân công, phân cấp quản lý, trong xác định phương hướng kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phương án sản phẩm và tổ chức sản xuất đều đã được các cấp lãnh đạo quan tâm nắm bắt và xử lý, nhưng chuyển biến tiến bộ không đáng kể. Kết quả là tình hình sản xuất và phân phối lưu thông càng rối ren, bế tắc, càng cải tiến quản lý, mở rộng quy mô sở hữu kinh tế quốc doanh và tập thể thì làm ăn càng kém hiệu quả, người lao động càng xa lánh thờ ơ. Kết luận: Nghệ An có điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, song dù sao, đó cũng mới chỉ là những khả năng và điều kiện quan trọng, cần thiết cho sự phát triển. Vấn đề có tính chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chính là phương thức sản xuất. Quy luật này mang tính đặc thù khi tác động vào tỉnh Nghệ An, cũng như các tỉnh khác của miền Trung trước đây, Nghệ An bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới và phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện đặc biệt - đất nước có chiến tranh. Do đó, để tạo sự ổn định của hậu phương, dồn sức cho tiền tuyến đánh Mỹ và đảm bảo cho bộ đội yên tâm chiến đấu trên các mặt trận, Nghệ An đã đẩy nhanh quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, xúc tiến xây dựng hàng loạt hợp tác xã nông nghiệp và nâng chúng lên quy mô lớn. Đó là các biện pháp đặc biệt phù hợp với một thời kỳ đặc biệt. Tuy nhiên sau khi đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta vẫn trung thành với mô hình và kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã và kinh tế quốc doanh trước đó. Hậu quả là làm cho nền kinh tế - xã hội trong tỉnh phát triển không bình thường, nhiều mặt sản xuất đình đốn trì trệ, các thế mạnh kinh tế hàng hoá sa sút dần, lực lượng sản xuất nhìn chung bị kìm hãm nặng nề, có mặt bị phá hoại, kinh tế - xã hội địa phương lâm vào tình trạng khủng hoảng. 2.3. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và 11 QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong những năm gần đây. 2.3.1. Thành tựu đạt được và nguyên nhân. * Thành tựu: Nhờ thực tiễn tháo gỡ khó khăn để phát triển sản xuất của người lao động trong tỉnh, đồng thời với một số chủ trương tháo gỡ những vướng mắc trên một số lĩnh vực kinh tế của Trung ương đối với đất nước, Đảng bộ Nghệ An cũng đã đề ra những chủ trương, chính sách về đổi mới kinh tế địa phương. Do đó trong những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 đạt 10,3% (vượt chỉ tiêu kế hoạch), GDP bình quân đạt 5,59 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 2 lần so với năm 2000. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng: Tăng tỷ trọng Công nghiệp - Xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản. Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 2000 xuống 34,2% năm 2005 và 31,03% năm 2007, tỷ trọng nghành công nghiệp, xây dựng tăng từ 18,6% lên 30,4% và 32,01% năm 2007; khu vực dịch vụ từ 36,57% năm 2006 lên 36,96 năm 2007. Từ một tỉnh trước đây thiếu đói triền miên, đến nay Nghệ An đã cơ bản giải quyết và cân đối được lương thực cho nhân dân. Năm 2006, sản lượng lương thực đạt 1,142 triệu tấn. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi phát triển khá nhanh; Nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển khá; Công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng: giá trị sản xuất công nghiệp tăng gấp 4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện tích cực, nhất là cổ phần hoá, nhờ vậy các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định và hiệu quả hơn. Các loại hình kinh tế tư nhân phát triển khá nhanh, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng thu ngân sách của tỉnh. 12 Dịch vụ có chuyển biến theo hướng đa dạng hoá. Ngành thương mại tiếp tục được tổ chức lại đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Hoạt động du lịch có khởi sắc, hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư, khai thác du lịch khá; tổ chức tốt năm du lịch quốc gia Nghệ An 2005 và đón trên 1 triệu lượt khách du lịch. Thu ngân sách hàng năm tăng khá, năm 2005 đạt trên 1.700 tỷ đồng, tăng 4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Đến năm 2007 ước đạt 2.010,8 tỷ đồng đạt 104,5 dự toán và tăng 16,6% so với năm 2006. Chi ngân sách đã có nhiều cố gắng đảm bảo đáp ứng các yêu cầu thiết yếu. Thu hút đầu tư có bước chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư xã hội được huy động tăng 40% so với 5 năm trước, Đặc biệt trong năm 2007, mặc dù Nghệ An gặp nhiều thiên tai, dịch bệnh gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, giá cả nhiều mặt hàng tăng cao… Song Đảng bộ và nhân dân Nghệ An phấn đấu đạt và vượt 20/23 chỉ tiêu chủ yếu và kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của tỉnh năm 2007 ước đạt 12.520 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994) tăng 10,5% so với năm 2006. Trong đó: Nông Lâm nghiệp - Thuỷ sản tăng 2,88%; Công nghiệp, xây dựng tăng 17,07%; Dịch vụ tăng 11,72%. Năm 2007, tỉnh đã thu hút được 2 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là: 61,7 triệu USD và 36 dự án trong nước với tổng số vốn đăng ký 10.976 tỷ đồng. Đến nay sự nghiệp giáo dục, đào tạo đã có bước phát triển vượt bậc. Cùng với giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hoá, thể dục, thể thao cũng đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh ngày càng được xây dựng vững mạnh, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Đã và đang xuất hiện nhiều nhân tố mới, tận tình, tận tâm trong sản xuất kinh doanh phát triển văn hóa xã hội, tiêu biểu mô hình Thanh niên xung 13 phong xây dựng kinh tế ở miền Tây. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được tăng cường. Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống 23% (năm 2006, theo chuẩn mới). * Nguyên nhân của thực trạng đó. Nền kinh tế - xã hội của Nghệ An trong những năm gần đây bên cạnh những mặt hạn chế đã có nhiều bước phát triển rõ rệt, có được những kết quả đó là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ngày càng đúng đắn hơn. Hai là, Đảng bộ tỉnh đã nhận thức và hiểu rõ nguồn gốc, bản chất và tác hại của chủ nghĩa chủ quan, bệnh giáo điều, máy móc và tư tưởng ỷ lại. Từ đó, Đảng bộ Nghệ An đã ban hành những chủ trương phù hợp, điều chỉnh, đổi mới cả ba mối quan hệ của quan hệ sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển Ba là, thấy được sự tất yếu phải thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong một nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều hình thức tổ chức quản lý và phân phối khác nhau. Bốn là, đảng bộ tỉnh đã nhận ra những sai lầm khuyết điểm của mình và kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Do những nguyên nhân trên nên những năm gần đây, nền kinh tế - xã hội của Nghệ An đã có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, Nghệ An hiện nay vẫn là một tỉnh còn nhiều khó khăn, nhiều vướng mắc cần được giải quyết để đưa Nghệ An sớm trở thành một tỉnh khá nhất ở miền Bắc như chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. 2.3.2. Những khuyết điểm yếu kém. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu quan trọng song nhìn chung Nghệ An vẫn còn là một tỉnh nghèo, mức tăng trưởng kinh tế dưới tiềm năng, khai 14 thác nội lực cho đầu tư phát triển còn yếu, chưa phát huy thế mạnh tiềm năng Hoạt động dịch vụ, trong đó thương mại và du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp thua nhiều so với bình quân chung toàn quốc. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp chưa tích cực chuẩn bị các điều kiện để thích ứng với cơ chế thị trường khi hội nhập với khu vực và quốc tế. Các thành phần kinh tế dân doanh chưa được quan tâm chỉ đạo đúng. Tiến độ xây dựng các khu công nghiệp chậm, hiệu quả chưa cao, một số dự án chưa thực hiện được. Tốc độ đô thị hoá chậm. Mức tăng cơ học dân cư đô thị thấp (tỷ lệ dân đô thị trong 5 năm chỉ tăng 3%), văn minh đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Quản lý quy hoạch, kiến trúc, xây dựng ở một số địa phương còn yếu Quản lý và xử lý môi trường ở một số nhà máy công trình xây dựng bệnh viện, khu đô thị… chưa tốt đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Đầu tư phát triển sản xuất, khai thác tài nguyên khoáng sản chưa gắn kết chặt chẽ với công tác bảo vệ môi trường. - Những mặt hạn chế trong công tác chỉ đạo dẫn đến kết quả không cao trong nông nghiệp. - Trên lĩnh vực kinh tế, tốc độ phát triển còn chậm, chất lượng tăng trưởng chưa bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu. Hiệu quả xúc tiến đầu tư, tốc độ xây dựng cơ bản chưa đạt yêu cầu. - Việc củng cố, xây dựng QHSX mới còn lúng túng, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, nhất là cổ phần hoá làm chậm. Việc tổng kết để cải tiến quản lý nông trường làm chậm, chỉ đạo thực hiện không kiên quyết. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chất lượng hàng hoá và sức cạnh tranh còn yếu; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh kém phát triển, 15 nhiều khó khăn vướng mắc về thuê đất và giao quyền sử dụng đất, về vay vốn, về đầu tư chưa được tháo gỡ kịp thời. Lĩnh vực văn hoá - xã hội còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết tốt. Các cơ sở khám chữa bệnh, nhất là tuyến huyện chậm được đầu tư nâng cấp. Vấn đề việc làm cho người lao động, tai nạn giao thông, ma tuý, lây nhiễm HIV… chưa được giải quyết, ngăn chặn có hiệu quả. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng ven biển, vùng giáo, vùng dân tộc vẫn cao, lực lượng lao động tăng gây sức ép mạnh về vấn đề giải quyết việc làm. *Những tồn taị yếu kém mà hiện nay Nghệ An đang mắc phải là do những nguyên nhân sau: - Nghệ An là tỉnh có diện tích miền núi rộng lớn (chiếm 83,3%), địa hình hiểm trở và chia cắt, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, lại là một tỉnh nằm xa các cực tăng trưởng và các trung tâm kinh tế văn hoá lớn của cả nước, xuất phát điểm của nền kinh tế. Bên cạnh đó tỉnh nhà chưa có sự nỗ lực thật cao, hơn nữa, trong thời gian qua, sự đầu tư của nhà nước cho vùng đất này để đẩy mạnh sản xuất ở một địa phương trọng yếu là chưa đúng mức. - Năng lực sản xuất còn yếu, thiếu vốn, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, do đó quy mô và năng lực cạnh tranh kinh tế còn thấp; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến hết sức phức tạp. - Sản xuất hàng hoá trên địa bàn tỉnh ta chưa phát triển, một số chương trình, đề án phục vụ xuất khẩu triển khai không đảm bảo tốc độ hoặc thấp so với mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp làm công tác nhập khẩu của tỉnh đều là doanh nghiệp nhỏ, chưa có doanh nghiệp đầu tàu, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập, thiếu cán bộ giỏi nghiệp vụ, ngoại ngữ, thiếu đội ngũ thợ lành nghề, cán bộ quản lý năng động… - Giá cả biến động, nguồn nguyên liệu không ổn định và trên thị trường cả nước sự cạnh tranh gay gắt. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan