Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nh...

Tài liệu Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào việc nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

.PDF
90
281
131

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *************** ĐỖ HỒNG HUYỀN VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VÀO VIỆC NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành Triết học HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *************** ĐỖ HỒNG HUYỀN VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VÀO VIỆC NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Triết học Mã số: 60.22.80 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Dương Văn Thịnh HÀ NỘI – 2010 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................ 2 NỘI DUNG ............................................................................................. 9 CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ........................... 9 1.1. Khái niệm thực tiễn và nhận thức trong triết học Mác - Lênin ......... 9 1.1.1. Thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của con ngƣời ........................ 9 1.1.2. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con ngƣời .............................................................................................. 20 1.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức .......................................... 29 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ VIỆC NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ................... 38 2.1. Tính tất yếu của con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ... 38 2.2. Thực tiễn xã hội Việt Nam và sự đổi mới nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ........................................ 44 2.2.1. Thực tiễn xã hội và sự nhận thức của Đảng về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trƣớc thời kỳ đổi mới .............................. 45 2.2.2. Nhận thức của Đảng về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam .................................................................. 50 2.3. Tiếp tục đổi mới nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá .................................................................. 71 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 83 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việc đƣa phạm trù thực tiễn vào làm cơ sở cho lý luận nhận thức là bƣớc phát triển về chất của triết học Mác. Quan điểm coi thực tiễn là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý đã khắc phục đƣợc những hạn chế, sai lầm có tính siêu hình, duy tâm, không khoa học của nhận thức luận trƣớc Mác, đồng thời bác bỏ mọi luận điệu nhằm tách rời thực tiễn khỏi nhận thức, từ đó phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con ngƣời. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, về khả năng hiểu biết thế giới của con ngƣời đƣợc coi là thành quả vĩ đại của nền triết học khoa học. Luận điểm đó đã khuyến khích con ngƣời tích cực tƣ duy, tích cực tìm hiểu thực chất các hiện tƣợng để phát hiện ra các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và vận dụng những quy luật đó vào phục vụ chính cuộc sống con ngƣời. Lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong quan điểm của triết học Mác về thực tiễn và nhận thức, mà một trong những hoạt động thực tiễn quan trọng nhất là thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, định hƣớng xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn rất cơ bản, vừa liên quan đến đƣờng lối, chính sách, giải pháp, vừa liên quan tới nhận thức, ý chí cách mạng. Trƣớc những biến động không ngừng của thực tiễn xã hội trong và ngoài nƣớc, đặc biệt là với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những thập niên 70, 80 thế kỷ trƣớc ở nƣớc ta, sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu năm 1991 và xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội luôn đứng trƣớc đòi hỏi cần đƣợc hoàn 2 thiện dần. Qua 10 kỳ Đại hội, Đảng ta không ngừng tổng kết thực tiễn, thẳng thắn chỉ ra những ƣu, khuyết điểm trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, từ đó bổ sung, hoàn chỉnh thêm một bƣớc nhận thức về vấn đề này. Đó là biểu hiện sinh động của việc vận dụng quan điểm có tính chất phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Thực tiễn công tác lý luận hiện nay của chúng ta cho thấy trong việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta còn một số biểu hiện sách vở, giáo điều, lý luận xa rời thực tiễn, không bám sát vào tình hình thực tiễn đất nƣớc để xem xét toàn diện vấn đề. Vì lẽ đó việc làm rõ vai trò thực tiễn đối với nhận thức, từ đó vận dụng vào phân tích, xây dựng, phát triển đƣờng lối đổi mới là công việc mang tính cấp thiết. Với những lý do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức đã đƣợc đề cập, đặc biệt là ở các tác phẩm: “Luận cƣơng về Phoi-ơ-bắc” của C. Mác; “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên” của Ăngghen; “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của V.I. Lênin... Qua các tác phẩm đó, thực tiễn đƣợc khẳng định là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Và trong mối quan hệ với thực tiễn, nhận thức cũng có tác động trở lại, góp phần biến đổi thực tiễn theo ý muốn của con ngƣời. Ở tác phẩm “Lênin và vai trò của thực tiễn trong nhận thức” (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961), tác giả M.A. Tác-khốp-va đã chỉ ra một cách khá thuyết phục sự đối lập giữa chủ nghĩa Ma-khơ và chủ nghĩa thực dụng với chủ nghĩa 3 Mác - Lênin trong quan điểm về thực tiễn và nhận thức. Những kẻ theo chủ nghĩa Ma-khơ, chủ nghĩa thực dụng cho rằng thế giới là tập hợp của các cảm giác, kinh nghiệm của con ngƣời, vì thế không thể đƣa tới chân lý khách quan. Bọn chúng hoặc tách rời thực tiễn khỏi nhận thức, hoặc quy quá trình nhận thức vào thực tiễn dẫn tới quan điểm sai lầm về vai trò thực tiễn đối với nhận thức. Tác giả cũng có sự phân tích kỹ càng về thực tiễn với tƣ cách là tiêu chuẩn chân lý. Song khi bàn đến vai trò là cơ sở, mục đích, động lực cho nhận thức của thực tiễn thì tác giả vẫn chƣa có sự trình bày cụ thể, sâu sắc. Sau khi công cuộc đổi mới đƣợc tiến hành ở nƣớc ta, nhiều vấn đề về lý luận nhận thức, thực tiễn đƣợc đề cập. Đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học đƣợc công bố, đăng tải trên các báo, tạp chí nhƣ: Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Triết học, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Khoa học xã hội, Tạp chí Giáo dục lý luận… Trong đó có một số công trình đáng chú ý nhƣ: “Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của GS. Phạm Thành (Tạp chí Cộng sản, số 15, 1998); “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta” của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9, 2003), “Tiến trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (Tạp chí khoa học xã hội, số 3, 2003), “Nhận thức mới của Ðảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của GS. TS. Trịnh Quốc Tuấn” (Báo Nhân Dân ra ngày 23/1/2010)… Mỗi công trình tuy nghiên cứu những khía cạnh khác nhau nhƣng đều đi sâu khai thác vấn đề ở góc độ lý luận và thực tiễn cơ bản. Tuy nhiên dễ dàng nhận thấy giữa việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta và cơ sở thực tiễn của việc nhận thức ấy đƣợc các tác giả bàn đến một cách riêng lẻ mà chƣa quan tâm nhiều tới sự thống nhất giữa chúng 4 với tƣ cách là phƣơng pháp để nhận thức rõ hơn con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Trong cuốn “Về định hƣớng xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001), các tác giả đã phân tích vấn đề định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta dƣới nhiều góc độ, gắn liền con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời các tác giả cũng đã đƣa ra những nhận xét mang tính tổng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta trong thời gian 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Cuốn sách cũng đã dành một phần quan trọng làm rõ hơn nữa bản chất của chủ nghĩa xã hội và sự cần thiết phải giữ vững định hƣớng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới cùng với những thách thức không nhỏ. Năm 2009, với cuốn sách “Đổi mới tƣ duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam”, GS.VS. Nguyễn Duy Quý đã nhấn mạnh muốn hiểu rõ đổi mới tƣ duy một cách khoa học cần làm rõ lý luận và phƣơng pháp luận tiếp cận khái niệm tƣ duy trên bình diện triết học. Đây là cách giúp chúng ta tìm hiểu bản chất của tƣ duy mà ta muốn đổi mới và để làm đƣợc điều này phải lấy thực tiễn để làm cơ sở nghiên cứu. Đổi mới đã dẫn đến những thành công đặc biệt trên phƣơng diện tƣ duy lý luận nhƣ: đạt đƣợc chuyển biến từ tƣ duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hoá với cơ chế bao cấp và bình quân sang tƣ duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của nhà nƣớc, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa; Đảng ta quan niệm sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện thực tiễn cụ thể; Đảng ta quan tâm đến các nhận thức mới về nhân tố con ngƣời, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của nhận thức về xã hội chủ nghĩa có liên quan đến vấn đề con ngƣời… 5 Có thể thấy số lƣợng các bài viết bàn về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, về thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhận thức của Đảng ta về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội là khá đồ sộ. Song bàn đến một cách trực tiếp vấn đề vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và sự vận dụng quan điểm này vào việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta thì chƣa nhiều. Tuy nhiên với những cách tiếp cận, triển khai vấn đề khác nhau, cùng với những kết luận quan trọng, các công trình ở trên đã có tác dụng gợi mở, định hƣớng cho công việc nghiên cứu của chúng tôi. Xuất phát từ đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng đất nƣớc, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn quan điểm nêu trên của triết học Mác - Lênin là một công việc quan trọng, góp phần hoàn thiện hơn nữa nhận thức lý luận về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội cũng nhƣ hiện thực hóa lý luận đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ quan điểm triết học Mác Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, luận văn chỉ ra cơ sở của việc nhận thức đúng đắn con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. (Con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở đây đƣợc nghiên cứu dƣới góc độ là cách thức, đƣờng lối mà Đảng ta tiến hành trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện 2 nhiệm vụ: Thứ nhất: Khái quát quan điểm của triết học Mác - Lênin về thực tiễn, nhận thức và mối quan hệ giữa chúng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Thứ hai: Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin để phân tích cơ sở khoa học của việc nhận thức đúng đắn con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở 6 Việt Nam trong giai đoạn mới cũng nhƣ yêu cầu cần hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức, trong đó nhấn mạnh chủ yếu đến vai trò của thực tiễn trong việc nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, vì thế nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải xuất phát từ chính thực tiễn Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức trong phạm vi một số tác phẩm kinh điểm của Mác, Ăngghen, Lênin nhƣ: “Luận cƣơng về Phoi-ơ-bắc”, “Hệ tƣ tƣởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, “Bút ký triết học”…; đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng; thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trƣớc năm 1986 và từ năm 1986 trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nhƣ: phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, khái quát hóa… để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đã hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam qua từng thời kỳ, có sự so sánh đối chiếu giữa các thời kỳ đó để làm nổi bật lên bƣớc tiến trong nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, trƣớc những biến động của thực tiễn, nhận thức 7 của Đảng (cụ thể hóa qua các Văn kiện Đại hội Đảng) lại có sự biến đổi, vận động để trƣớc hết là phản ánh đúng đắn thực tiễn khách quan, và sau đó là tìm ra phƣơng thức thích hợp hƣớng dẫn thực tiễn, chỉ đạo thực tiễn hƣớng theo con đƣờng đúng đắn đã xác định. 7. Ý nghĩa luận văn Luận văn làm rõ nội hàm các khái niệm thực tiễn và nhận thức, chỉ ra mối quan hệ giữa chúng, trong đó thực tiễn có vai trò quyết định. Luận văn còn chỉ ra tầm quan trọng của việc tổng kết, nghiên cứu thực tiễn, lý luận hóa thực tiễn và sự vận dụng, phát triển lý luận nhận thức trong điều kiện thực tiễn một cách sáng tạo, đó là thực tiễn hóa lý luận. Luận văn cũng đã làm rõ sự vận dụng của Đảng về quan điểm thực tiễn, nhận thức của triết học Mác - Lênin vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn đang đặt ra, đồng thời thấy đƣợc sự hoàn thiện dần trong nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra gay gắt hiện nay. Ở một mức độ nhất định, luận văn có thể giúp ích cho những ai quan tâm đến quá trình phát triển nhận thức về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta. 8. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm hai chƣơng, 5 tiết. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC 1.1. KHÁI NIỆM THỰC TIỄN VÀ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN 1.1.1. Thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của con ngƣời Thực tiễn là một phạm trù cơ bản, nền tảng của lý luận nhận thức mácxít nói riêng và của toàn bộ triết học Mác - Lênin nói chung. Việc nhìn nhận đúng đắn khái niệm thực tiễn và vai trò của thực tiễn là một vấn đề quan trọng đối với hoạt động nhận thức của con ngƣời. a. Quan niệm của triết học trước Mác về thực tiễn Có thể thấy rằng một trong những giá trị khoa học đích thực của phƣơng pháp luận duy vật trƣớc Mác dù là siêu hình hay biện chứng đó là đã sử dụng phƣơng pháp đặc trƣng riêng của mình để giải thích và nhận thức thế giới. Những nhà duy vật trƣớc Mác có công trong việc phát triển thế giới quan duy vật, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Song, do hạn chế về mặt lịch sử và khoa học, thiếu sót căn bản nhất trong tất cả các phƣơng pháp luận trƣớc Mác là chỉ dừng lại ở việc nhận thức và giải thích thế giới, không thấy đƣợc vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Chủ nghĩa duy vật trƣớc Mác cũng chỉ mang tính trực quan, siêu hình và máy móc. Mác đã chỉ ra “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác đƣợc, chỉ đƣợc nhận thức dƣới hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không đƣợc nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là 9 thực tiễn” [55, tr. 9]. Có thể coi đây là sự khác nhau về nguyên tắc giữa chủ nghĩa duy vật cũ, là sự đối lập giữa tính chất thực tiễn và tính trực quan của toàn bộ hoạt động của con ngƣời. Có những nhà triết học duy tâm tuy đã thấy đƣợc mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con ngƣời nhƣng cũng chỉ hiểu thực tiễn nhƣ là hoạt động tinh thần chứ không phải hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con ngƣời, “thành thử mặt năng động đƣợc chủ nghĩa duy tâm phát triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhƣng chỉ phát triển một cách trừu tƣợng vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác đƣợc, đúng nhƣ hoạt động hiện thực, cảm giác đƣợc” [55, tr. 9]. Cho tới đỉnh cao nhất trong cách tiếp cận phạm trù thực tiễn của triết học trƣớc Mác là phép biện chứng của Hêghen thì thực tiễn cũng chỉ là phƣơng tiện giúp cho việc “tha hóa” ý niệm tuyệt đối, thực hiện một bƣớc trong quá trình tự hoàn thiện của ý niệm tuyệt đối. Lý luận của Hêghen đã chỉ ra rằng: bằng thực tiễn, chủ thể “tự nhân đôi mình”, đối tƣợng hóa bản thân mình trong quan hệ với bên ngoài. Theo ông, hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con ngƣời chính là công cụ để “tinh thần tuyệt đối” với tƣ cách là sự thống nhất giữa tƣ duy và tồn tại, tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể nhận thức và trở về với chính bản thân mình. Thực tiễn theo Hêghen chỉ dừng lại ở mức độ “ý niệm”, ở hoạt động tƣ tƣởng, thực tiễn chỉ là một “suy lý logic, một hình tƣợng logic” [67, tr. 234]. Trong việc xây dựng lý luận nhận thức, Hêghen cho rằng “Thực tiễn là hoạt động có ý chí của tƣ tƣởng”, là ý niệm tuyệt đối tự tạo mục đích cho mình, với tƣ cách là cái chủ quan nó lại “có tiền đề là một tồn tại tự nó; nó là khuynh hướng tự mình hiện thực mình, nó là cái mục đích muốn cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách quan và muốn thực hiện mình” [67, tr. 228-229]. Nhƣ vậy thực tiễn theo Hêghen là sự thống nhất giữa 10 tính khách quan và tính chủ quan, bằng thực tiễn, chủ thể đối tƣợng hóa mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Và vì thế, “thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ƣu điểm không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [67, tr. 230]. Quan niệm của Hêghen về thực tiễn mới chỉ giới hạn thực tiễn ở tính mục đích của ý niệm tuyệt đối, ở hoạt động lý luận trừu tƣợng của con ngƣời. Con ngƣời nhận thức đƣợc thế giới nhƣng không phải là thế giới hiện thực mà là thế giới của “ý niệm tuyệt đối”. Song với quan niệm này Hêghen cũng đã thấy đƣợc vai trò của thực tiễn nhƣ là một mắt khâu của quá trình nhận thức. Các nhà triết học duy tâm mà tiêu biểu là Hêghen nhìn chung đã thấy đƣợc mặt tích cực, sáng tạo của thực tiễn nhƣng mới chỉ hiểu thực tiễn là hoạt động tinh thần chứ chƣa thấy đƣợc tính khách quan của hiện thực, tính độc lập có mục đích trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy tâm là quan điểm của các nhà duy vật cũ, song chủ nghĩa duy vật cũ cũng chỉ nhìn thấy vai trò của cái khách thể đối với nhận thức, không thấy đƣợc vai trò của hoạt động cảm giác đƣợc của con ngƣời là thực tiễn đối với nhận thức. Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc – nhà duy vật triệt để nhất trƣớc Mác – không thể vƣơn tới chủ nghĩa duy vật lịch sử đƣợc bởi Phoi-ơ-bắc muốn xem xét những khách thể “cảm giác đƣợc” thực sự khác biệt với khách thể của tƣ tƣởng, nhƣng ông không xem xét hoạt động của con ngƣời nhƣ là hoạt động khách quan. Đối với ông, những gì không liên quan tới tƣ tƣởng là khách quan, do đó ông không thấy đƣợc hoạt động tƣ duy của con ngƣời cũng là hoạt động khách quan – hoạt động cải tạo hiện thực. Mác chỉ ra việc Phoiơ-bắc quá đề cao hoạt động lý luận, cho rằng chỉ có hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con ngƣời dẫn tới nhận thức sai lầm về thực tiễn, coi nhẹ vai trò của thực tiễn, “thực tiễn chỉ đƣợc ông xem xét và xác định trong hình 11 thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông không hiểu đƣợc ý nghĩa của hoạt động “cách mạng”, của hoạt động “thực tiễn - phê phán” ” [55, tr. 9]. Tuy nhiên, cho dù các nhà duy vật cũ đã thừa nhận sự tồn tại khách quan, độc lập của thế giới vật chất với ý thức của con ngƣời nhƣng họ chỉ dừng lại ở sự hiểu biết về thế giới đó nhƣ một sự tồn tại thuần túy, không chịu sự tác động trở lại của con ngƣời, không thấy đƣợc tự nhiên là sản phẩm hoạt động sáng tạo của con ngƣời khi “thế giới không thỏa mãn con ngƣời, và con ngƣời quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” [66, tr. 229]. Đó là hành động sáng tạo, có ý thức và tự giác, thông qua đó con ngƣời tự cải biến bản thân mình. Con ngƣời không chỉ là một thực thể vật chất mà hơn thế còn là thực thể xã hội năng động, sáng tạo và không ngừng hoàn thiện, không chỉ thích nghi đƣợc với cuộc sống hiện thực mà luôn có ý thức cải tạo, nắm bắt hiện thực. Do đó, qua hoạt động thực tiễn, con ngƣời ngày càng phát triển hơn về nhận thức. Chủ nghĩa duy vật trƣớc Mác đã không thấy đƣợc ý nghĩa của hoạt động thực tiễn đối với con ngƣời, không thấy đƣợc tính tích cực chủ động cải tạo thế giới của con ngƣời, do đó đã phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của thực tiễn trong nhận thức, cải tạo thế giới và rơi vào quan điểm duy tâm về lịch sử. Có thể thấy trong phƣơng pháp luận và nhận thức luận trƣớc Mác, chức năng thực tiễn – cải tạo hiện thực – đã bị lãng quên. Mác khẳng định “các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách, song vấn đề là cải tạo thế giới” [55, tr. 12]. Luận điểm này của Mác đã nói lên thực chất của bƣớc tiến mới về chất trong cách hiểu chức năng thực tiễn – cải tạo thế giới, điều mà các nhà triết học trƣớc đó đã không thể vƣơn tới. b. Quan niệm của triết học Mác - L ênin về thực tiễn 12 Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trƣớc đó và cùng với Ăngghen xây dựng nên một hệ thống quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phủ định quan điểm về thực tiễn của các trào lƣu triết học trƣớc đó nhƣng không phải là sự phủ định sạch trơn. Đó là do các nhà duy vật biện chứng đã lấy vấn đề “con ngƣời hiện thực hoạt động” làm xuất phát điểm khi nghiên cứu lịch sử - xã hội, có thể coi xuất phát điểm này là trung tâm cho mọi vấn đề khác. Mác đã tìm hiểu tác động của con ngƣời đối với hiện thực để giải thích hiện thực. Mác khẳng định: “những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà ngƣời ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tƣởng tƣợng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng nhƣ những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Nhƣ vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm đƣợc bằng con đƣờng kinh nghiệm thuần túy” [55, tr. 28-29]. Con ngƣời hiện thực đƣợc bàn đến ở đây không phải là con ngƣời chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tƣởng tƣợng, biểu tƣợng của ngƣời khác mà là con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt với những hoạt động thực tiễn của họ. Luận điểm xuất phát của Mác thực sự là một luận điểm có tính chất đột phá, mang đến một cách tiếp cận khoa học về vấn đề thực tiễn, loại bỏ những quan điểm trực quan, duy tâm về lịch sử, tạo ra cơ sở hiện thực cho quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội của triết học Mác. Nếu nhƣ “phái Ma-khơ” ở nƣớc Nga đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp mỗi ngƣời phân biệt đƣợc ảo tƣởng và hiện thực, đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, ngoài giới hạn của lý luận về nhận thức thì ngƣợc lại Mác, Ăngghen và Lênin cho rằng thực tiễn của con ngƣời chứng minh sự đúng đắn 13 của lý luận duy vật về nhận thức và hai ông gọi những ý định không dựa vào thực tiễn để giải quyết vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức là “triết học kinh viện” và là “những điều quái tƣởng trong triết học”. “Chính nơi mà tƣ biện dừng lại – chính trong đời sống hiện thực – là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển của con ngƣời” [54, tr. 39]. Nguyên tắc thực tiễn của Mác với tƣ cách là cơ sở lý luận để chỉ đạo hoạt động thực tiễn cách mạng không phải đã đƣợc hoàn chỉnh ngay từ đầu mà đƣợc hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời của các nhà tƣ tƣởng xây dựng nên học thuyết đó. Những luận điểm mà Mác, Ăngghen, Lênin đề ra không phải từ sự suy tƣ tƣ biện mà đƣợc rút ra từ sự kế thừa, phát huy những tinh hoa lý luận của tất cả các học thuyết triết học trƣớc đó và từ sự khái quát những thành tựu khoa học mới. Với việc đƣa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã tạo nên một bƣớc chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Triết học Mác - Lênin quan niệm “Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội” [3, tr. 261]. Hoạt động thực tiễn trƣớc hết là hoạt động vật chất, mà hình thức cơ bản nhất là sản xuất vật chất, vì đời sống xã hội, sự sống con ngƣời là do sản xuất quyết định. Hoạt động sản xuất vật chất của con ngƣời là dạng hoạt động cơ bản bởi nó là cơ sở cho sự tồn tại xã hội và phân biệt con ngƣời với tƣ cách chủ thể xã hội với con vật. Bản chất của hoạt động này đƣợc thể hiện ra là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể của hoạt động thực tiễn là con ngƣời (tồn tại ở những cấp độ khác nhau) thông qua việc sử dụng công cụ, phƣơng tiện lao động để biến đổi khách thể nhằm đạt những mục đích nhất định, đồng thời chủ thể cũng tự biến đổi cả bản thân mình. Con ngƣời với tƣ 14 cách là chủ thể của hoạt động thực tiễn luôn có sự tác động một cách tự giác, sáng tạo lên thế giới khách quan – khách thể của hoạt động con ngƣời. Theo đó, khách thể của hoạt động thực tiễn là tất cả những gì con ngƣời hƣớng sự tác động vào nhằm cải tạo theo yêu cầu của mình. Và nhƣ vậy, triết học Mác Lênin không chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới. Quan hệ giữa con ngƣời với thế giới khách quan là mối quan hệ vật chất, quan hệ thực tiễn. Con ngƣời tồn tại và không ngừng phát triển là do xác lập đƣợc mối quan hệ mật thiết với thế giới. Đó là mối quan hệ vật chất và là một quá trình biện chứng. Thông qua hoạt động thực tiễn, con ngƣời chủ thể hoá khách thể. Con ngƣời không chỉ tiêu dùng sản phẩm có sẵn trong tự nhiên mà còn biết sử dụng cả những công cụ lao động do chính mình tạo ra để có đƣợc sản phẩm mới, qua đó chủ thể làm giàu thêm năng lực của mình. Song song với quá trình đó là quá trình khách thể hóa chủ thể. Qua việc sử dụng công cụ, phƣơng tiện lao động, con ngƣời thực hiện phƣơng thức sống đặc thù của mình. Năng lực vật chất, năng lực tinh thần của con ngƣời đƣợc chuyển vào sản phẩm, con ngƣời luôn thấy mình ngay trong đối tƣợng mình chinh phục và tác động tới sản phẩm nhƣ đối xử với chính mình. Do đó “họ là nhƣ thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng nhƣ với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là nhƣ thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” [55, tr. 30]. Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động thực tiễn là dạng quan hệ có tính phổ biến song đó cũng là quan hệ đặc biệt – quan hệ vật chất và ý thức. Nó đòi hỏi con ngƣời phải hoạt động không ngừng và không ngừng cải biến giới tự nhiên bởi chỉ qua đó con ngƣời mới có thể thiết lập đƣợc vị trí của mình trong thế giới, buộc thế giới vật chất bộc lộ ngày càng nhiều hơn thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến, tất yếu, những quy luật, 15 bản chất,… để con ngƣời ngày càng có thể đi sâu, khám phá và nhận thức sâu sắc hơn về thế giới. Song thực tiễn không chỉ dừng lại là dạng hoạt động vật chất giản đơn, thụ động mà hơn thế còn có tính mục đích. Nếu nhƣ con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài thì con ngƣời nhờ vào thực tiễn nhƣ là hoạt động có mục đích, có tính xã hội, mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Có thể nói lao động và ngôn ngữ là hai động lực cơ bản nhất giúp cho con ngƣời thực sự thoát ra khỏi thế giới loài vật. Trong bài viết “Tác động của lao động trong quá trình chuyển biến từ vƣợn thành ngƣời”, Ăngghen đã chỉ ra vai trò của lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài ngƣời và nhƣ thế đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói “Lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con ngƣời”. “Con ngƣời không chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người”, nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài” [56, tr. 234]. Con ngƣời không bằng lòng với những gì tự nhiên ban phát, có sẵn mà tiếp tục lao động sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống mình qua việc chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Đó là cơ sở giúp cho sự tồn tại của bản thân con ngƣời, là yêu cầu tất yếu của cuộc sống, đồng thời là động lực cho sự đấu tranh sinh tồn. Nhƣ vậy, nếu không có hoạt động thực tiễn mà trƣớc hết là sản xuất vật chất thì con ngƣời và xã hội loài ngƣời không thể tồn tại và phát triển đƣợc. Thực tiễn được xem như phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi nhƣng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động 16 cơ bản và phổ biến của xã hội loài ngƣời, nó chỉ có thể tiến hành trong các quan hệ xã hội, bị các quan hệ xã hội chi phối. Nhƣng mặt khác thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển riêng của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con ngƣời. Sự phát triển nội tại của thực tiễn ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của con ngƣời trong việc chinh phục tự nhiên, cải biến chính bản thân mình. Có thể kết luận rằng thực tiễn xét về mặt nội dung cũng nhƣ phƣơng thức thực hiện mang tính lịch sử - xã hội. Hoạt động con ngƣời không phải là cái bất di bất dịch mà luôn thay đổi, trải qua những giai đoạn khác nhau theo hƣớng hoàn thiện dần. Mỗi sự kiện, mỗi bƣớc tiến của thực tiễn tạo tính lịch sử của chính nó. Trong khi đó tính xã hội của thực tiễn biểu hiện ở hai mặt: thứ nhất, đó là sự liên hệ giữa con ngƣời với con ngƣời không phải trong hoạt động nói chung mà trong phƣơng tiện họ hoạt động; thứ hai, hoạt động thực tiễn đƣợc tiến hành trong những tổ chức xã hội, những chế độ xã hội nhất định, do đó hoạt động của cá nhân tách ra khỏi xã hội không đƣợc coi là hoạt động thực tiễn. “Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đƣa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều đƣợc giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con ngƣời và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy” [55, tr. 12]. Thực tiễn có nhiều dạng hoạt động và bất kỳ một dạng hoạt động nào cũng bao gồm những yếu tố nhƣ nhu cầu, lợi ích, mục đích, phƣơng tiện và kết quả. Chúng có sự liên hệ với nhau, tác động hữu cơ và quy định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra đƣợc. Hoạt động thực tiễn có những dạng cơ bản sau: Dạng thứ nhất là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng cơ bản nhất, nguyên thủy, sơ khai nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển toàn xã hội loài ngƣời, đồng thời quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn. Từ 17 hoạt động sản xuất vật chất, tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con ngƣời hình thành và đƣợc coi là cơ sở nền tảng cơ bản giúp con ngƣời thoát khỏi giới hạn của động vật, thoát khỏi những gì thuộc về bản năng không mang tính ngƣời. “Bản thân con ngƣời bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con ngƣời sản xuất ra những tƣ liệu sinh hoạt của mình – đó là một bƣớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngƣời quy định. Sản xuất ra những tƣ liệu sinh hoạt của mình, nhƣ thế con ngƣời đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [55, tr. 29]. Rõ ràng hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản nhất mà thông qua đó con ngƣời biến đổi không những sự tồn tại hiện thực của mình mà cả tƣ duy và sản phẩm của tƣ duy. Dạng cơ bản thứ hai của thực tiễn là dạng hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi quan hệ xã hội, chế độ xã hội thông qua hàng loạt các hoạt động khác nhƣ: đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho tự do, bình đẳng, đấu tranh vì hòa bình… Hoạt động chính trị - xã hội ở một góc độ nào đó cũng đƣợc xem là hoạt động cách mạng. Hoạt động này thuộc về những lực lƣợng xã hội, những giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm mục đích xóa bỏ chế độ xã hội nào già cỗi, không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội đƣơng đại để thay thế vào đó bằng một chế độ xã hội mới, tiên tiến, phù hợp và thuận lợi cho sự tiến bộ của xã hội. Cách mạng xã hội là sự cải biến căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế chế độ xã hội này bởi chế độ xã hội khác tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển của lịch sử. Tiêu biểu cho cách mạng xã hội thời nay là cách mạng xã hội chủ nghĩa – một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tƣ bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi những điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay thế đó đã có ở mức nhất định và khi đã hình thành tình thế cách mạng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan