MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đâu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.3. Các giải pháp
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
3. Kết luận, Kiến nghị:
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị
Trang
2
2
3
3
3
4
4
7
9
15
18
18
18
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Thiết bị dạy học là một một phận của cơ sở vật chất trường học, bao gồm
những đối tượng vật chất được thiết kế sư phạm mà giáo viên sử dụng để điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh; đồng thời là nguồn tri thức, là phương
1
tiện giúp cho học sinh lĩnh hội tri thức để từ đó hình thành các kĩ năng, kĩ xảo…
đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu dạy học. Thiết bị dạy học là cầu nối giữa lý
thuyết và thực tiễn, giữa học và hành. Cao hơn của việc “học đi đôi với hành’’ là
“học thông qua quá trình thực hành’’, là một nguyên tắc của nền giáo dục hiện
đại.
Hưởng ứng cuộc vân động đổi mới phương pháp dạy học mà Bộ GD&ĐT
đã phát động. Để khuyến khích giáo viên bộ môn, học sinh sử dụng thiết bị, đồ
dùng dạy học và cán bộ quản lí thiết bị dạy học cũng phải luôn biết giữ gìn và bảo
quản các thiết bị sao cho bền và tăng thời gian sử dụng và tiết kiệm kinh phí cho
cơ quan và cho nhà nước. Sự hiếu động và ý thức giữ gìn trang thiết bị thực hành
của học sinh trung học cơ sở còn rất nhiều hạn chế, các em hay tò mò và có nhiều
khi làm hư hỏng rất nhiều thiết bị. Nhiều thiết bị hiện nay rất khó mua trên thị
trường do việc sản xuất có tính chất đặc thù. Vấn đề đặt ra là làm sao để các tiết
học có thí nghiệm, thực hành học sinh được nghiên cứu, quan sát một thí nghiệm
cụ thể, chính xác khoa học. Giáo viên có thể luôn sẵn có thiết bị, giáo cụ trực
quan để giảng dạy mà không ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của thiết bị
dạy học. Qua nhiều năm nghiên cứu và suy nghĩ vận dụng một số kỹ thuật cơ khí
công nghệ trong sửa chữa, bảo dưỡng các trang thiết bị dạy học phục vụ cho công
tác giáo dục tôi đã đúc kết và chọn đề tài: “Vận dụng kĩ thuật cơ khí, công nghệ
trong sửa chữa và tái sử dụng một số thiết bị dạy học ở trường thcs” để viết
thành sáng kiến kinh nghiệm. Tôi hy vọng rằng sáng kiến của mình là một tư liệu
nhỏ bé góp phần cho đồng nghiệp có thể tham khảo và vận dụng vào công việc
thực tiễn của mình.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng xuống cấp, thiếu của
thiết bị thí nghiệm theo thời gian, đó là việc sửa chữa và làm đồ dùng thiết bị dạy
học phục vụ cho việc dạy học thực hành.
2
Luôn luôn đảm bảo những thiết bị dạy học tối ưu nhất cho các giờ học thực
hành, thí nghiệm, đặc biệt là những tiết thực hành, thí nghiệm cho học sinh làm
trong các tiết học.
Tạo điều kiện tốt cho việc sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học để
nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học từ đó góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu suất sử dụng thiết bị mà tiết kiệm được ngân sách cho cơ quan và nhà nước.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học cho nhà trường nói riêng và cho
giáo dục huyện nhà nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Tất cả các loại kệ giá, thiết bị, đồ dùng dạy học được trang cấp của bộ giáo
dục.
Tìm ra các biện pháp làm và sửa chữa những thiết bị đồ dùng dạy học trong
quá trình dạy học bị hư hỏng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc, tìm kiếm tài liệu, xử lí thông tin tài
liệu, tham khảo tài liệu nghiên cứu…bao gồm:
- Phương pháp thực nghiệm:
+ Xác định mục đích thực nghiệm
+ Hình thành giả thuyết khoa học
+ Tìm hiểu thực trạng
+ Xây dựng giải pháp, kỹ thuật…
- Phương pháp quan sát.
- Phân tích, tổng hợp, rút ra nhận xét, rút kinh nghiệm tổng kết.
2. Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Thiết bị dạy học:
3
Là hệ thống đối tượng vật chất và tất cả những phương tiện được giáo viên
và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học.
2.1.2. Vị trí, vai trò của thiết bị dạy học trong đổi mới PPDH:
- Thiết bị dạy học là điều kiện để thực hiện nguyên lý giáo dục “ học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn ’’.
- Cung cấp kiến thức cho học sinh một cách chắc chắn, chính xác và trực
quan; do đó hấp dẫn và kích thích được hứng thú học tập của học sinh.
- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm học sinh lĩnh hội đủ nội
dung học tập.
- Gia tăng cường độ lao động của cả giáo viên và học sinh; từ đó nâng cao
hiệu quả dạy học.
- Thể hiện được những yếu tố trong thực tế khó hoặc không quan sát, tiếp
cận được.
- Thúc đẩy sự giao tiếp, trao đổi thông tin, do đó giúp học sinh học tập có
hiệu quả.
- Giúp học sinh tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.
- Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã
hội và môi trường sống.
- Giúp học sinh nhận ra được những sự việc, hiện tượng, khái niệm một
cách cụ thể, dễ dàng hơn.
- Giúp khắc phục những hạn chế của lớp học bằng cách biến cái không thể
tiếp cận được thành cái có thể tiếp cận được. Điều này thực sự đúng khi thực hiện
phim ảnh mô phỏng và các phương tiện tương tự.
- Cung cấp kiến thức chung, qua đó học sinh có thể phát triển các hoạt động
học tập khác nhau.
- Giúp phát triển mối quan tâm về các lĩnh vực học tập và khuyến khích học
sinh tham gia chủ động vào quá trình học tập.
4
- Giúp học sinh làm việc với thiết bị dạy học, tự học với thiết bị dạy học, là
quá trình giúp các em trực tiếp làm việc với nguồn tri thức với tư cách là người
tìm tòi, khám phá, phát hiện tri thức và kỹ năng.
- Giúp hướng dẫn hoạt động nhận thức của học sinh thông qua việc đặt các
câu hỏi gợi mở của giáo viên để nhận biết tên gọi, tính năng của thiết bị, lắp ráp
thiết bị để tiến hành thí nghiệm nhận biết, thu thập dữ liệu và phân tích kết quả thí
nghiệm.
- Giúp rèn luyện cho học sinh có tính kiên trì, cẩn thận, khéo léo, cần cù và
trung thực. Qua đó rèn luyện cho học sinh lòng say mê nghiên cứu, mong muốn
tìm kiến thức, say mê khoa học.
2.1.3. Đặc tính vật liệu, cấu trúc kỹ thuật của thiết bị dạy học:
- Đặc tính vật liệu của thiết bị dạy học rất phong phú và đa dạng. Do mục
đích và đối tượng sử dụng cũng như ý nghĩa của thiết bị dạy học nên phần lớn các
thiết bị đều có hướng chung là sử dụng các loại vật liệu nhẹ, an toàn, có cấu trúc
vật lí, hóa học, sinh học khá đơn giản có thể phân loại ra các nhóm như: nhóm
nhựa Composite nhóm nhôm; nhóm hợp kim; nhóm thủy tinh, nhóm gỗ; nhóm
chất dẻo; nhóm sắt; nhóm đồng; nhóm giấy; nhóm vải…hầu hết các loại vật liệu
làm thiết bị dạy học đều có tính chất dễ vỡ, dễ cháy, dễ gãy, bong, cong vênh…
- Cấu tạo các thiết bị dạy học thường được thiết kế, chế tạo theo hình thức
tháo rời rồi liên kết các chi tiết linh kiện, hoặc được đúc nguyên khối, được gắn
với nhau bằng các chất hoặc thiết bị kết nối rất đặc trưng đó là: keo, ốc vít, rút,
tán Vie-rê, mối hàn, đúc sẵn…với đặc điểm đó nên chỉ cần hết thời hạn sử dụng,
rơi, tác động lực không đều, hoặc bị ăn mòn, bị tác động nhiệt độ vượt quá khả
năng giãn nở đều có thể dấn đến hư hỏng hoặc sai số cho lần sử dụng tiếp theo…
2.1.4. Yêu cầu, nguyên tắc đối với sử dụng thiết bị dạy và học
Đảm bảo an toàn: Đây là một nguyên tắc quan trọng khi sử dụng thiết bị
dạy học. Các thiết bị dạy học được sử dụng phải an toàn với các giác quan của
5
học sinh, đặc biệt khi sử dụng các thiết bị nghe nhìn. Do vậy, trong quá trình sử
dụng, giáo viên cần chú ý một số vấn đề an toàn như: an toàn điện, an toàn cho thị
giác, an toàn cho thính giác…
Đảm bảo nguyên tắc 3Đ: Đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ. Cụ thể:
Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đúng lúc”là: Sử dụng đúng
lúc thiết bị dạy học là việc trình bày phương tiện vào lúc cần thiết, lúc học sinh
cần được quan sát, gợi nhớ kiến thức, hình thành kỹ năng trong trạng thái tâm,
sinh lý thuận lợi nhất (trước đó, giáo viên đã dẫn dắt, gợi mở, nêu vấn đề chuẩn
bị).
Nguyên tắc sử dụng thiết bị dạy học “Đúng chỗ”: Sử dụng thiết bị dạy
học đúng chỗ là tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trên lớp học hợp lý nhất, giúp
học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương tiện một
cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp học.
Vị trí trình bày thiết bị dạy học phải đảm bảo các yêu cầu chung cũng như
riêng của nó về chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kỹ thuật đặc biệt khác.
Ngoài ra còn phải đảm bảo vị trí đảm bảo tuyệt đối an toàn cho giáo viên và học
sinh trong và ngoài giờ dạy. Phải bố trí chỗ để thiết bị dạy học tại lớp sau khi
dùng để không làm phân tán tư tưởng của học sinh khi tiếp tục nghe giảng.
Nguyên tắc sử dụng thiết bị dạy học “Đủ cường độ”: Từng loại thiết bị
dạy học có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài việc trình diễn hoặc
dùng lặp lại một loại phương tiện quá nhiều lần trong một buổi giảng, hiệu quả
của chúng sẽ giảm sút.
Đảm bảo tính hiệu quả: Đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn về
nội dung dạy học (sử dụng kết hợp nhiều loại phương tiện dạy học một cách có hệ
thống, đồng bộ và trọn vẹn; các phương tiện dạy học không mâu thuẫn, loại trừ
nhau).
6
Trên cơ sở phân tích thực trạng các thiết bị dạy và học ở trường đã tổng
hợp thành các tiêu chí đánh giá đối với các thiết bị dạy học cụ thể đó là:
- Phù hợp với nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy
học mới; Dễ sử dụng, tốn ít thời gian trên lớp; Kích thước, màu sắc phù hợp;
Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, sử dụng; Có tài liệu hướng dẫn cụ
thể bằng tiếng việt.
2.2.Thực trạng của việc sử dụng trang thiết bị dạy và học:
2.2.1. Thống kê nhu cầu dụng thiết bị dạy học của các môn học trong nhà
trường
Theo quy định của Bộ GD&ĐT về Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu
cấp
T
T
1
2
3
4
5
6
7
8
Trung học cơ sở phải đảm bảo tối thiểu 731 thiết bị phục vụ dạy học.
Môn
Số TB cần có
Các môn dùng chung
Số TB cần có
Vật lý
Hoá học
Công nghệ
Địa lí
Sinh học
Lịch sử
Ngữ văn
Thể dục
174
115
107
85
83
63
25
23
Nhiều môn học
Toán học
Tin học
Âm nhạc
Ngoại ngữ
Mĩ thuật
17
10
9
8
4
4
2.2.2. Thực trạng thiết bị dạy học
*Ưu điểm :
Bộ thiết bị dạy học tương đối đầy đủ và đồng bộ ở tất cả các môn, các khối
lớp.
Giáo viên dễ sử dụng, có điều kiện để thực hiện tốt các nội dung trong từng
bài dạy ở các môn học. Học sinh được quan sát, thực hành, làm thí nghiệm giúp
cho quá trình lĩnh hội tri thức được chủ động và sáng tạo.
*Tồn tại:
7
Công tác quản lý, khai thác sử dụng, bảo quản thiết bị còn gặp khó khăn do
kinh nghiệm của một số giáo viên còn hạn chế.
Một số thiết bị dạy học chưa chính xác, hư hỏng, chất lượng thấp, thao tác
sử dụng thiết bị dạy học của một số học sinh còn chưa khoa học, chưa thành thạo.
Hiện nay do sử dụng thiết bị dạy học nhiều nên có một số thiết bị đã bị
hỏng và sử dụng hết. Kinh phí nhà trường không đủ để mua, sắm bổ xung thường
xuyên.
2.2.3. Thực trạng quản lý và sử dụng thiết bị dạy học.
* Ưu điểm:
Nhà trường thực hiện nghiêm túc các văn bản hướng dẫn của ngành về sử
dụng thiết bị dạy học.
Ngay khi có thiết bị cung cấp về nhà trường. Nhà trường đã tiến hành tiếp
nhận, kiểm kê, bố trí sắp xếp và đưa vào sử dụng.
Giáo viên cơ bản nhận thức rõ được vai trò của thiết bị dạy học trong đổi
mới phương pháp dạy học.
* Tồn tại:
Đối với đội ngũ giáo viên: Đội ngũ giáo viên có thời điểm chưa đồng bộ về
cơ cấu bộ môn, một số bộ môn giáo viên còn dạy trái ban chưa được đào tạo, nên
ảnh hưởng không ít đến hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học.
Công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên
đôi lúc còn hình thức, nể nang chưa đi vào thực chất.
2.1.6. Một số nguyên nhân gây hư hỏng thiết bị dạy học và nguyên tắc khắc
phục hư hỏng:
- Về chủ quan: do giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học có thể
do sơ ý, do thiếu tinh thần trách nhiệm. Do học sinh tò mò, hiếu động và thiếu cẩn
thận trong quá trình luân chuyển, vận chuyển các trang thiết bị, phương tiện dạy
học. Các phương tiện, thiết bị còn bị hư hỏng do vận hành sai quy cách trong quá
8
trình thực hành cũng khiến cho các thiết bị, phương tiện dạy học bị hư hỏng toàn
bộ hay bộ phận, một phần…
- Về khách quan: do đặc điểm cấu trúc vật lí, hóa học, cấu trúc vật liệu, kết
cấu thiết bị, bản vẽ kỹ thuật và môi trường bảo quản mà các thiết bị dạy học có
quá trình bị ăn mòn bởi các yếu tố hóa học, bị cong, vênh, gãy, vỡ do sự giãn nở
vì nhiệt độ, ánh sáng và độ ẩm của môi trường bảo quản…mà các phương tiện và
thiết bị dạy học có thể bị hư hỏng một phần hoặc hư hỏng toàn phần.
2.3.Các giải pháp:
2.3.1. Đặt ra nguyên tắc trong khắc phục hư hỏng
Có thể nói hiện nay chưa có một nguyên tắc, hay quy chuẩn nào quy định
về việc khắc phục những hư hỏng cho thiết bị, đồ dùng dạy học. Tuy nhiên dựa
trên kinh nghiệm của bản thân và trên những quy định, yêu cầu của ngành giáo
dục, các đặc thù bộ môn về các thiết bị và đồ dùng dạy học tôi mạnh dạn đặt ra
cho mình các nguyên tắc đó là:
- Đảm bảo tính thẩm mỹ và trung thành với hình dáng, kích thước, quy
cách thiết kế ban đầu của các thiết bị- đồ dùng dạy học.
- Vật liệu và thiết bị thay thế phải đồng bộ, cùng tính chất lý- hóa hoặc
tương đương trong khả năng chịu lực, chịu nhiệt và các yếu tố hóa học ăn mòn…
- Đảm bảo giá trị giáo dục, đảm bảo tính khoa học đủ khả năng cho học
sinh nhận dạng và nhận thức, rút kinh nghiệm và kết luận được vấn đề trong quá
trình thực hành, quan sát và tiến hành thí nghiệm.
- Thiết bị thay thế, vật liệu thay thế và chất liệu, tính chất lí - hóa - sinh và
các vấn đề trong quá trình thay thế phải đảm bảo rẻ hơn so với mua mới (trừ
những thiết bị, phương tiện không có để mua mới).
- Việc tiến hành sửa chữa, thay thế phải đảm bảo bền vững hơn so với tuổi
thọ của trang thiết bị, thí nghiệm, phương tiện dạy học…
9
2.3.2. Phân loại, phân nhóm các thiết bị đồ dùng dạy học theo đặc tính vật lí,
hóa học.
Công tác sắp xếp các loại thiết bị đồ dùng dạy học là một yếu tố vô cùng
quan trọng, giúp kéo dài tuổi thọ, thời gian sử dụng cho đồ dùng tránh được các
hư hỏng do các tính chất lý, hóa khác nhau của mỗi thiết bị, đồ dùng dạy học khác
nhau.
Ví dụ ngay tại phòng thực hành hóa – sinh có những loại hóa chất có tính
ăn mòn như: H2SO4 hay HCl là những hóa chất ăn mòn kim loại nên nếu để các
giá đỡ ống nghiệm bên cạnh những vật liệu này có thể gây ra ăn mòn, hư hỏng
nên tôi đã thường xuyên phân loại và sắp xếp cũng như dùng các loại tấm vật liệu
có thể hạn chế ăn mòn khi sắp xếp các loại vật liệu này gần nhau như tấm Gỗ, Alu
Composite…
Hình 1: Sắp xếp đồ dùng dạy học
2.3.3. Tìm kiếm vật liệu, chất liệu thay thế để khắc phục, sửa chữa thiết bị đồ
dùng dạy học.
Qua thực tế quan sát tôi nhận thấy rất nhiều các trang thiết bị, đồ dùng dạy
học được thiết kế, chế tạo từ những chất liệu có hình dạng gắn liền với thực tiễn
đời sống như sắt, nhôm, nhựa, Inox,…và những đồ dùng này rất gần gũi với thưc
tiễn đời sống và được sử dụng rộng rãi trong thực tế. Vì vậy mỗi khi có đồ dùng
dạy học bị hư hỏng thì bản thân tôi đã luôn tìm kiếm và sẵn sàng các đồ dùng này
để thay thế cho các thiết bị, đồ dùng không may bị hư hỏng thông qua việc thu
10
thập, sưu tầm các đồ dùng này từ cuộc sống, từ gia đình hay mỗi lần đi qua các
cửa hàng đồng nát đều tiến hành sưu tầm và cất giữ để sẵn sàng thay thế định kỳ
vào mỗi đầu tháng, đầu quý và đầu năm học. Nhờ đó mà nhiều đồ dùng, thiết bị
dạy học được sử dụng rất lâu cho đến nay. Ví dụ như chiếc giá gắn ống ngắm tiêu
cự hay đế chiếc kính ngắm toán học đều được sử dụng rất lâu dù đã nhiều lần gãy
nhưng đã được thay thế rất kịp thời.
Hình 2: Nhôm và các loại khung phế liệu có thể thu thập
2.3.4 Nghiên cứu đặc tính cấu trúc, cấu tạo của thiết bị dạy học để tìm ra
hướng sửa chữa, khắc phục những hư hỏng của thiết bị dạy học.
Qua nhiều năm làm công tác thiết bị thí nghiệm và qua nhiều lần thực hiện
khắc phục những hỏng hóc của các trang thiết bị - đồ dùng dạy học tôi nhận thấy
việc hàn gắn, cắt ghép các trang thiết bị cũng cần có sự đồng bộ về chất liệu và
các đặc tính lý hóa của vật liệu.Vì vậy tôi đã dành thời gian nghiên cứu về các đặc
tính này của thiết bị như: đặc tính vật lí là khả năng chịu lực, chịu nhiệt, khả năng
giãn nở của vật liệu…ví dụ khi muốn nối lại mối nối cho các dạng hình học của
bộ thiết bị môn toán học (hình học) thì đặc tính của Mêca nếu dùng keo sinh nhiệt
sinh ra chảy mêca và làm cho mêca bị mờ. Vì vậy phải dùng loại keo kết dính
nhưng không sinh nhiệt như X666 hay keo hai thành phần thì mới có thể vừa kết
dính tạo hình vừa không bị làm biến dạng mầu sắc và hình ảnh của bộ mẫu vật. Ví
dụ bộ mẫu vật hình học nếu dùng keo sinh nhiệt như 502 thì sau khi gắn thường
bị bốc hơi keo gây mờ và thậm chí gây cháy góc không đảm bảo tính khoa học.
11
Vì vậy sau khi tôi dùng keo X666 đã gắn lại hoàn toàn các hình hộp này mà vẫn
đảm bảo tính thẩm mĩ cho bộ đồ dùng này
Hình 3: Phục chế đồ dùng theo từng loại thiết bị (nhôm, nhựa)
2.3.5 Tận dụng, lắp ghép những đồ dùng, thiết bị hư hỏng cùng nhóm, loại
hiện có chọn lọc những chi tiết đồ dùng có khả năng phục hồi được để lắp
ghép, tái tạo thành những đồ dùng dạy học mới.
Một trong những đặc điểm quan trọng của thiết bị hiện nay là mang tính
chất trực quan minh họa nên tương đối dễ vỡ, hỏng hóc nhanh theo thời gian. Vì
thế qua 3 năm sử dụng một bộ đồ dùng có thể khiến cho bộ đồ dùng đó hỏng một
phần hoặc hỏng toàn phần. Vì vậy tôi đã giữ lại toàn bộ đồ dùng hỏng một phần
đó của nhiều năm thì sau hai đến ba lần thay thế thì lần tiếp theo có thể gép lại và
sửa chữa, lắp ghép thành một bộ đồ dùng mới tương đối hoàn chỉnh và tương
đương mua mới một bộ khác. Ví dụ bộ ống nghiệm cho môn hóa học. qua thời
gian sử dụng nếu một bộ có 5 cái sau khi do thời gian hoặc do giáo viên và học
sinh thực hành bị hỏng mất 2 cái, bộ mới năm sau lại hỏng 1 cái và bộ mới năm
sau nữa hỏng đi 4 cái thì sau ba lần như vậy tôi đều giữ lại và đến lần thứ tư vẫn
ghép lại thành một bộ hoàn chỉnh và tiếp tục tái sử dụng vì thực tế nếu mua của
công ty thiết bị từng bộ phận rời họ sẽ từ chối bán riêng lẻ vì vậy nếu muốn có
một bộ mới phải mua đồng bộ nên việc tận dụng và tái sử dụng từng bộ phận của
bộ thiết bị đó ta sẽ có một bộ thiết bị hoàn chỉnh.
12
Bộ hỏng
Bộ sau dồn
Hình 4: Dồn các bộ thiết bị để có bộ hoàn chỉnh
2.3.6. Vận dụng các kỹ thuật cơ khí, mộc dân dụng, công nghệ, điện tử để sửa
chữa khắc phục thiết bị dạy học
- Kỹ thuật cơ khí: hàn, khoan, rút, bắn vít…kĩ thuật này được tôi áp dụng
vào việc hàn và gắn kết các mối nối của các loại thiết bị có cấu trúc vật liệu bằng
sắt, nhôm, nhựa, compsite…với đặc tính của các loại thiết bị có cấu trúc bằng các
chất liệu này có thể nóng chảy hoặc có thể khoan thủng và gắn kết với nhau bằng
mối nối nên vẫn có thể đảm bảo tính kết nối vật lí và đảm bảo hình dáng hình học
ban đầu của chúng đồng thời cũng không mất đi giá trị sử dụng của chúng.
Hình 5: Hàn kết nối thiết bị
- Mộc dân dụng: Một số thiết bị dạy học được sử dụng bằng các chất liệu
như gỗ thông, gỗ tự nhiên nên trong quá trình sử dụng có thể hư hỏng nhưng việc
mua những chi tiết nhỏ là khá khó khăn. Nhưng chỉ với một máy khoan và một
13
mũi khoan 6mm tôi có thể phục chế hoàn toàn những vật dụng này như kẹp ống
nghiệm, thước đo góc, compa…mà vẫn đảm bảo việc tái sử dụng bình thường và
rất hiệu quả.
- Điện tử: Với những thiết bị tại phòng thực hành vật lí – công nghệ qua
quá trình học sinh sử dụng rất nhiều mối hàn bị bong, đứt mạch hoặc bị gãy đã
được tôi dùng mỏ hàn điện tử hàn lại và duy trì hiệu quả hoạt động cho các bộ
thiết bị này hiệu quả. Ví dụ bàn thực hành lý công nghệ có rất nhiều các ổ cắm,
các dắt cắm nếu học sinh nghịch nghợm hoặc sử dụng không đúng cách có thể
gây gãy, đứt dây và tôi đã thực hiện nối lại rất hiệu quả…
Ảnh
2.3.7 Thường xuyên kiểm tra, chăm sóc, bảo dưỡng, tu bổ đồ dùng dạy học.
Trong môi trường có nhiều hóa chất và ẩm của nhà trường cũng như những
tháng nghỉ hè kéo dài nên nhiều thiết bị tự ôxi hóa nên rất dễ hỏng hóc. Vì vậy
sau mỗi buổi học, tuần học và sau mỗi tháng tôi đều tiến hành kiểm tra ngay và vệ
sinh, bảo dưỡng kịp thời cho các trang thiết bị, đồ dùng dạy học này. Vì thế mà
các thiết bị đã thường xuyên được sửa chữa, bổ sung và bảo quản kịp thời đảm
bảo cho quá trình dạy và học.
Hình 6: Chăm sóc, bảo dưỡng đồ dùng, thiết bị
2.3.8. Tập huấn, nhắc nhở đối với từng học sinh về cách thức sử dụng, và ý
thức bảo quản thiết bị đồ dùng dạy học sau mỗi tiết học.
14
Qua thực tế quan sát các tiết học thực hành tại các phòng chức năng nhiều
học sinh do chưa được sử dụng thiết bị nên các em học sinh chưa biết cách lắp ráp
hay chưa biết cách sử dụng cũng như thực hiện chưa đúng quy trình vận hành của
các thiết bị dạy học dẫn đến nhiều thiết bị hay bị hỏng hóc. Vì vậy sau mỗi tiết
giáo viên giảng dạy tôi đều tranh thủ hướng dẫn cho học sinh các bước lấy, dùng,
cất, nhấc các thiết bị đồ dùng dạy học về đúng vị trí ban đầu của các thiết bị, đồ
dùng đó. Nhờ đó mà nhiều thiết bị đã được gia tăng thời gian và tuổi thọ sử dụng.
Nhiều thiết bị còn có đặc tính nhỏ gọn, rất giống với các loại đồ chơi nên
nhiều học sinh thường nảy sinh ý định lấy về để chơi, tôi đã kịp thời tham mưu
với Ban giám hiệu trong việc xây dựng nội quy phòng thực hành, thí nghiệm và in
ấn tài liệu này đến từng học sinh, nhờ đó mà tình trạng học sinh lấy cắp thiết bị
cũng giảm đi rõ rệt qua từng năm học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
2.4.1. Hiệu quả đối với việc sử dụng thiết bị dạy học với giáo viên bộ môn và
học sinh trong nhà trường
- Đối với bộ môn học và giáo viên bộ môn: hàng năm thì thông qua quá
trình thực hiện sửa chữa, tái sử dụng các trang thiết bị đồ dùng dạy học đã đảm
bảo cho các giáo viên bộ môn và các môn học không còn xảy ra tình trạng thiếu
đồ dùng dạy học mỗi khi lên lớp, thao giảng và tham gia thi giảng giáo viên dạy
giỏi cấp Huyện, cấp Tỉnh. Giáo viên cảm thấy hài lòng về chất lượng và số lượng
trang thiết bị do tôi quản lí và chuẩn bị cho giáo viên dạy học, nhất là các giáo
viên bộ môn thuộc tổ khoa học tự nhiên. Qua đó chất lượng các giờ dạy được
nâng cao số giáo viên sử dụng thiết bị theo đăng kí giảng dạy có tần xuất tăng dần
theo từng năm học.
Thống kê số lượt sử dụng thiết bị dạy học qua đối chiếu giữa đăng kí giảng
dạy và thực tế chuẩn bị qua các năm học gần nhất
Năm học
Môn
Số lượt sử dụng
15
Số lượt sử dụng
Tỉ lệ %
theo đăng kí giảng
thực tế giảng dạy
hiệu
dạy
quả
Vật lí
120
80
70,1
Hóa học
150
100
66,5
2014 - 2015
Sinh học
105
70
67,6
Toán
70
40
57,1
Vật lí
120
95
79,2
Hóa học
150
110
73,3
2015 - 2016
Sinh học
105
85
80,9
Toán
150
55
52,3
Vật lí
120
112
93,3
Hóa học
150
115
76,7
2016 - 2017
Sinh học
105
90
85,7
Toán
70
60
85,7
- Đối với học sinh: học sinh luôn yêu thích các tiết học diễn ra tại phòng
học thực hành của nhà trường. Ý thức ham học của các em được nâng cao và quá
trình chuẩn bị của các em cho các tiết thực hành cho đáo và hiệu quả hơn. Học
sinh bắt đầu hiểu được vai trò của các trang thiết bị đồ dùng học tập tại các phòng
thực hành nên hiện tượng học sinh lấy cắp thiết bị giảm hẳn, học sinh làm hư
hỏng thiết bị cũng nhờ đó giảm đến mức rất thấp. Đặc biệt là chất lượng học sinh
giỏi của nhà trường cũng ngày càng được nâng cao qua các kì thi của cấp Huyện
và cấp Tỉnh. Quan trọng hơn là học sinh từ các phòng thực hành đã hình thành ý
tưởng sáng tạo trong học sinh và trong 4 năm liền khi phòng giáo dục Thọ Xuân
tổ chức cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật cho học sinh nhà trường liên tục đều
đạt giải cao là Nhì và Ba và 4 năm liền được chọn tham dự cuộc thi cấp tỉnh và
đạt giải Ba, khuyến khích cấp tỉnh liên tục sau nhiều năm.
2.4.2. Hiệu quả đối với công tác bảo quản, sáng tạo thiết bị dạy học
Qua thực tiễn thực hiện các sáng kiến áp dụng cho công tác bảo quản thiết
bị dạy học tôi nhận thấy có những hiệu quả rất rõ nét đó là: Đảm bảo, duy trì, bổ
sung số lượng thiết bị dạy học; Tăng tuổi thọ của thiết bị dạy học; Làm phong
phú, đa dạng thiết bị dạy học; góp phần giảm mất mát các thiết bị qua từng năm
16
học. Ngoài ra tôi còn sáng tạo ra một số thiết bị mới chưa có trong danh mục. Ví
dụ mô hình Hệ mặt trời không gian 4D cho môn Địa Lí có cả hình ảnh, âm thanh
và thiết bị tra cứu thông tin giúp cho môn học thêm hấp dẫn và hiệu quả cao.
Hình 7: Kết quả sáng tạo thiết bị - đồ dùng dạy học (Hệ Mặt trời không gian 4D)
2.4.3. Hiệu quả kinh tế:
Qua quá trình áp dụng và thực hiện các sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân
tôi nhận thấy đã thu được những hiệu quả kinh tế rất rõ ràng và góp phần tiết
kiệm rất lớn cho ngân sách của nhà nước và của nhà trường. Số tiền chi phí cho
mua mới giảm dần và số thiết bị được tái sử dụng tăng dần theo từng năm học.
Thống kê số trang thiết bị và số tiền tiết kiệm được thông qua quá trình sửa
chữa, tái sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học qua một số năm học
Năm học
Thiết bị
Số tiền
Số thiết bị được
Số tiền tiết kiệm
mua mới
(đồng)
3.000.00
tái sử dụng
được
5
300.000
8
400.000
11
550.000
16
700.000
17
1.050.000
2012 - 2013
15
2013 - 2014
13
2014 - 2015
10
2015 - 2016
8
0
2.500.00
0
2.000.00
0
1.750.00
0
2016 - 2017
4
950.000
2.4.4. Hiệu quả đối với bản thân.
17
Qua thực tế đảm nhận công tác tôi nhận thấy bản thân đã có rất nhiều tiến
bộ trong việc sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học. Bản thân đã có thêm được nhiều
kinh nghiệm quản lý, sửa chữa, làm mới các trang thiết bị, và bảo quản thiết bị;
Có cơ hội vận dụng lý thuyết về thiết bị dạy học được học vào thực tiễn công tác;
Có kinh nghiệm trong việc bảo quản và quản lí không để cho thiết bị bị mất mát,
hư hỏng và nâng cao được hiệu quả sử dụng…
3. Kết luận, Kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Mỗi một thiết bị - đồ dùng dạy học cũng là một phần quan trọng trong bài
dạy và bài học của mỗi giáo viên và học sinh trong quá trình hình thành kiến thức
và trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh. Do đó mỗi cán bộ được phân công
làm công tác quản lí, chuẩn bị, các thiết bị, đồ dùng dạy học ngoài việc quản lí
tốt, cũng luôn luôn cần nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc bảo quản, sửa
chữa và sáng tạo để góp phần nhỏ nhưng cũng không kém phần quan trọng nâng
cao chất lượng dạy và học cho giáo dục nhà trường đồng thời góp phần tiết kiệm
ngân sách cho nhà nước và nhân dân.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với các cấp quản lý:
Qua thực tế làm công tác thiết bị dạy học nhất là trong giai đoạn cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 hiện nay và mục tiêu học phải đi đôi với hành. Vì vậy tôi
luôn mong các cấp quản lí hãy là những người tiên phong, quan tâm hơn nữa đến
việc trang cấp, mua sắm, khích lệ những cán bộ làm công tác thiết bị trường học
như chúng tôi có cơ hội được sáng tạo và thực hành những việc làm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học.
Cần tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thiết bị được tham gia tập huấn, học
tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao hơn nữa hiệu quả
18
sử dụng các trang thiết bị dạy và học trong nhà trường. Ví dụ như tập huấn các kỹ
năng sử dụng thiết bị hàng năm cho cán bộ đảm nhiệm công tác này…
3.2.2. Đối với cơ sở sản xuất trang thiết bị dạy học:
Thực tế sử dụng của giáo viên và học sinh và làm công tác quản lí, chuẩn bị
đồ dùng cho giáo viên và học sinh tôi nhận thấy nhiều thiết bị đã có quá trình
nhiều năm không thay đổi cấu trúc, cấu tạo và có xu hướng lạc hậu so với thực tế,
nhiều sản phẩm chất lượng còn hạn chế nhanh hỏng hóc và xuống cấp nên đề nghị
các cơ sở sản xuất thiết bị, đồ dùng dạy học cần luôn tìm tòi cải tiến công nghệ
sản xuất sao cho các thiết bị, đồ dùng dạy học ngày càng hoàn thiện, hiện đại và
bền vững hơn đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
19
- Xem thêm -