Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống (ngữ văn 6) tìm hiểu tr...

Tài liệu Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống (ngữ văn 6) tìm hiểu truyền thuyết trên địa bàn quận long biên

.PDF
16
1080
71

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN LONG BIÊN TRƯỜNG THCS NGỌC LÂM BÀI DỰ THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG TRONG THỰC TIỄN Tên tình huống: “Tìm hiểu truyền thuyết trên địa bàn quận Long Biên” TÁC GIẢ Nguyễn Phương Anh – Lớp 6A1 1 CUỘC THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC - Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội - Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Long Biên - Trường THCS Ngọc Lâm - Địa chỉ: Số 6/370 – Nguyễn Văn Cừ – Long Biên – Thành phố Hà Nội. - Điện thoại: 043.8271485 - Email: [email protected] - Tên tình huống: Tìm hiểu truyền thuyết trên địa bàn quận Long Biên - Các môn học tích hợp: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân - Thông tin về học sinh: Nguyễn Phương Anh - Lớp 6A1 Sinh ngày: 16/7/2003 2 1. Tình huống: Trong chương trình Ngữ văn 6, em đã được học về Văn học dân gian, trong đó có thể loại Truyền thuyết. Đây là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kỳ ảo. Truyền thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể. Sau những tiết học về văn học dân gian, đặc biệt là truyền thuyết, em vẫn luôn suy nghĩ: Quận Long Biên, nơi em sinh ra và lớn lên, có truyền thuyết không? 2. Mục tiêu: Bài giới thiệu đảm bảo về các yêu cầu: - Nguồn gốc - Vị trí địa lí - Đặc điểm về kinh tế xã hội, văn hóa - Truyền thuyết 3. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống: Cần kết hợp các tri thức khách quan ở địa phương: - Lịch sử hình thành và phát triển - Đặc điểm địa lý, địa hình - Đặc điểm kinh tế xã hội, văn hoá 4. Giải pháp giải quyết tình huống: Vận dụng các kiến thức liên môn: - Lịch sử – nguồn gốc. - Ngữ văn – truyện truyền thuyết. - Địa lí – vị trí địa lí, địa hình, đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa - Giáo dục công dân – bài học về biết ơn. 5. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống: Viết các ý chính –> Tìm hiểu –> Trao đổi –> Viết thành bài –> Giới thiệu * Tư liệu sử dụng: sách địa phương. * Sưu tầm thông tin từ các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn quận Long Biên. * Ứng dụng công nghệ thông tin: máy tìm kiếm google * Giải quyết tình huống: 3 5.1. LỊCH SỬ - NGUỒN GỐC: 5.1.1. Khái quát về lịch sử Hà Nội Hà Nội ngày nay nằm trên cùng đất bồi tụ của ngã ba sông Hồng, sông Đuống, là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, bởi vậy sự hình thành vùng đất Hà Nội cùng gắn liền với sự kiện tạo vùng châu thổ sông Hồng, vùng đồng bằng Bắc Bộ. Danh thắng Hà Nội 4 Hà Nội cổ 4000 năm trước từ thời vua Hùng dựng nước, là một vùng đất cổ của một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Căn cứ vào các tài liệu sử học và văn hoá dân gian thì đất Phong Châu là nơi vua Hùng đóng đô. Kinh đô nước Âu Lạc là Phong Khê nay là Cổ Loa - huyện Đông Anh, trải qua bao năm tháng, bao mùa lũ phù sa bồi đắp dần dần hồ đồng bằng đã trở thành đồng bằng. Vào thời ấy khu vực Cổ Loa là bãi bồi, bậc thềm của bờ sông Hồng, sông Ngũ Huyện,..Cổ Loa vừa là thung lũng, vừa là đê ngăn lũ cho kinh kỳ. Trong tình hình địa lý thời bấy giờ không đâu sánh kịp Cổ Loa về địa thế thuận lợi cho một kinh kỳ. Từ thời khởi thuỷ Hà Nội cổ chỉ mới là một làng quê cổ nằm ven sông Tô Lịch. Làng quê này có cái tên huyền thoại Long Đỗ vào thời Hùng Vương, An Dương Vương. Đến thế kỷ thứ năm khu làng gốc của đất Hà Nội cổ đã phát triển thành một huyện, một quận tên là Tống Bình vào thời nhà Tuỳ. Đến năm Giáp Tý (544) Lý Nam Đế, sau khi đánh đuổi thứ sử nhà Lương, lên ngôi vua đổi tên nước thành Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diêm Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng ngày nay) và dựng thành luỹ bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch thông ra sông Nhĩ Hà là đất phường Giang Khẩu hay Hà Khẩu (nay là phố Chợ Gạo – Hoàn Kiếm). Sang thế kỷ thứ VII Tống Bình trở thành trung tâm của nhà Tuỳ thống trị cả đồng bằng Bắc Bộ. Năm 621 nhà Đường thay nhà Tuỳ bắt đầu xây dựng thành luỹ ở Tống Bình và năm 679 đặt ở đấy trụ sở của “An nam đo hộ phủ”. Đến thế kỷ thứ X, Tống Bình là thành luỹ chính của bộ máy đô hộ phủ phương Bắc, Trương Bá Nghi xây La Thành, Trương Chu đến Cao biền đắp rộng ra lấy bờ sông Tô làm hào tự nhiên. Hà Nội cổ từ đó mang tên Đại La thay cho Tống Bình. Sau 1000 năm ngoại thuộc, Ngô Quyền giành lại độc lập và trở về kinh đô ở Cổ Loa xưa. Đất nước chưa hoàn toàn thống nhất nên phải đóng đô ở Hoa Lư, một vị trí khuất, địa thế hiểm trở không có khả năng phát triển thành nơi đô hội. Đến triều đại độc lập thứ 3, Lý Công Uẩn đã hạ “chiếu thiên đô” năm 1010, lời chiếu nói rõ lợi của việc thiên đô là “cốt để mưu việc lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì rời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Năm 1010 Lý Công Uẩn rời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên là Thăng Long. Tục truyền 5 khi thuyền ngự từ sông nước Hoa Lư cập bến Đại La, bỗng có Rồng vàng hiện lên trên sông rồi bay vút lên trời, vua Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành nên nhân hình ảnh đó mà đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên. Từ năm 1010 – 1225 thời kỳ kiến thiết đất nước trên qui mô lớn và Thăng Long xây dựng xứng đang là quôc đô của một nước hùng cường mở đầu một thời kỳ văn hoá rực rỡ, văn hoá Thăng Long. Năm Mậu Thân 1428, nhà Lê lên ngôi vẫn lấy Thăng Long – Đông Đô là quốc đô nhưng đổi thành Đông Kinh (1430). Triều Mạc ngắn ngủi vẫn lấy Đông Kinh làm quốc đô, thời ấy lái buôn phương tây bắt đầu đến, tên Đông Kinh họ phiên âm ra tiếng La tinh là “Tonquin”. Còn trong dân gian thì “Kẻ Chợ” là tên gọi phổ biến cho đô thị Thăng Long – Đông kinh bấy giờ. Qua các thời kỳ Lý, Trần, Lê kinh thành Thăng Long – Đông đô của nước Đại Việt đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Nền văn hoá Thăng Long tiêu biểu cho cả kỷ nguyên văn minh Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Thăng Long vừa qui tụ, vừa tập trung tinh hoa văn hoá cả nước, vừa toả sáng văn hoá ra cả nước. Sau hàng nghìn năm bị đế chế Bắc đô hộ, hơn 100 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. nhân dân Việt Nam mới giành được độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Thành phố rồng bay đã vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá. Kể từ ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954) đến nay Hà Nội đã trải qua hơn 40 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày ấy đã cắm một mốc son sáng ngời, mở ra một thời kỳ mới cho Hà Nội trên con đường đổi mới và phát triển. Hà Nội đã hoà nhập cùng đát nước, hoà nhập với khu vực và quốc tế để bước vào một thời đại mới, hứa hẹn những thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Hà Nội hôm nay là “chàng trai mười bảy” vươn vai Thánh Gióng trên thế tựa Rồng bay với hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ thuộc mọi ngành nghề khác nhau. Thủ đô Hà Nội đang bước vào thời kỳ phát triển và đổi mới. Mọi hoạt động xã hội đều chuyển theo cái trục kinh tế. Tuy nhiên Hà Nội ngày nay còn là hiện thân của ngàn năm văn hiến, của bản sắc văn hoá, là biểu tượng, là tinh hoa của đất nước. 6 5.1.2. Long Biên – Vị trí địa lý, địa danh Ngày 06/11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 132/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập Quận Long Biên thuộc Thành phố Hà Nội, trên cơ sở tách ra từ huyện Gia Lâm. Cầu Long Biên Theo cuốn Địa chí Hà Bắc, tên huyện Gia Lâm có từ thời Lý, “sở lỵ lần lượt đóng ở Đặng Xá, Phú Thuỵ và Ái Mộ. Sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX cho biết thêm: Thời Lý, Gia Lâm quận là tên gọi một vùng đất rộng gồm toàn bộ Bắc Ninh, sau tên đó dùng để gọi một phần đất thu nhỏ lại còn một huyện. Tức là phía Nam Kinh Bắc, giáp sông Hồng, bên dưới là huyện Văn Giang. Còn theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Gia Lâm vào đầu thời Lê bao gồm địa phận của 68 xã, hai sở, ba trại, là một trong năm huyện thuộc phủ Thuận An, trần Kinh Bắc. Cũng theo sách này, phủ Thuận An là đất châu Gia Lâm và hai huyện Siêu Loại và Gia Lâm thuộc phủ Bắc Giang thời thuộc Minh. Thời Lê Sơ đổi gọi là phủ Thuận An thuộc Kinh Bắc. Thời Nguyễn cũng gọi là phủ Thuận An, sau đổi là phủ Thuận Thành. Phủ Thuận An (đầu thời Lê) gồm 5 huyện: Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Long Trì. Thực ra, cái tên Gia Lâm có từ rất sớm. Theo Lê Văn Lan trong Thăng Long-Hà Nội, ngàn năm văn hiến, Gia Lâm trước khi trở 7 thành tên gọi của một huyện (địa danh cấp huyện) như đang thấy bây giờ, thì nguyên thuỷ, chỉ là tên của một địa điểm (tức một vùng đất nhỏ) nhưng rất quan trọng, nhờ vị thế chiến lược của mình, và có quy mô tương đương một làng ở thời gian về sau này. “Như thế, Gia Lâm, với tư cách là một tên huyện, không những chắc chắn đã có từ năm 1445, mà còn có thể đã xuất hiện bắt đầu từ năm 1408, thậm chí, từ cuối thế kỉ XIV (thời “Trần Mạt”)”. Còn theo Đại Nam nhất thống chí, huyện Gia Lâm là đất Gia Lâm quận, thời Lý, thời Lê và thời Nguyễn đều gọi là Gia Lâm. Huyện Gia Lâm thời Nguyễn có 10 tổng 88 xã thôn; thời Pháp rút xuống còn 7 tổng 55 xã thôn. Trước năm 1945, Gia Lâm vẫn thuộc Bắc Ninh và nhập vào thành một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội, bao gồm 4 thị trấn và 31 xã. Suốt gần 1000 năm thời Đại Việt, Gia Lâm chỉ cách kinh thành có một con sông, thế nhưng dường như triều đình phong kiến chưa bao giờ có ý định mở rộng, phát triển kinh đô sang bờ phía Đông sông Hồng này. Tuy nhên, theo Nguyễn Văn Uẩn trong Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, tập 3: “Thăng Long và Kinh Bắc từ lâu đời đã gắn bó với nhau bằng nhiều quan hệ tình cảm và chính trị, nhất là ở thời kỳ các triều đại Lý, Hậu Lê và chúa Trịnh. Nhà Lý dựng nhà Thái miếu ở Đình Bảng, hành cung ở Hoa Lâm (Du Lâm) trên bờ sông Đuống; vua Lê có hành cung ở Lệ Chi viên cũng trên bờ sông Đuống; chúa Trịnh Cương xây cất cả một khu phủ đệ là phủ Kim Thành ở Cổ Bi. Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền của vua Lê Hiển Tông, người Phù Ninh có lập dinh Thiết Lâm để thờ mấy mẹ con Lê Ngọc Hân sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi”. Huyện Gia Lâm ở liền sát với kinh thành Thăng Long nên ngay từ thời Pháp thuộc đã sẵn có những tuyến đường giao thông chính toả đi khắp nơi. Ngoài đường sắt, đường bộ, còn có đường thuỷ là mạng lưới giao thông quan trọng nối liền Gia Lâm với các địa danh khác, tạo nên những yếu tố kinh tế thuận lời. Có 2 con sông lớn chảy qua địa phận huyện Gia Lâm: sông Hồng (Hồng Hà) dài 13 km, sông Đuống (Thiên Đức) dài 17,5 km. Đây vốn là vùng đồng bằng được bồi đắp bởi phù sa sông nên đất đại màu mỡ, nông nghiệp phát triển sầm uất bên cạnh các nghề thủ công sản xuất hàng hoá dân dụng. Giao thông thuỷ bộ đều thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, phát triển kinh tế. Gia Lâm cũng là nơi có nhiều làng nghề trù phú, từ làng nông, làng buôn đến các 8 làng nghề, cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng hoá cho đời sống cư dân kinh thành. Từ thời Nguyễn, trong huyện đã có những ngôi chợ khá lớn như chợ Phù Lưu, Đình Bảng, Bát Tràng, Đông Dư, Kiêu Kị, Như Quỳnh, Huê Cầu… Dân một số làng trong huyện đã ra Thăng Long làm ăn buôn bán từ rất sớm và trở nên giàu có như dân Phù Đổng, Kiêu Kị, Cầu Nôm, Phù Lưu, Đình Bảng, Nội Duệ, Du Lâm… Sông Hồng Nhưng cũng vì nằm giữa hai con sông lớn, hàng năm có những cơn mưa lũ dữ dội đổ về nên cùng này ít khi tránh được tai hoạ lụt lội nếu đê không được thương xuyên củng cố. Trong Thăng Long-Hà Nội, ngàn năm văn hiến, Lê Văn Lan có viết về vùng đất cổ Gia Lâm: Trong địa giới của một huyện Gia Lâm hiện tại…, còn dễ dàng nhận ra ở đâu một cái “túi nước” mở dần về hướng Đông, mà đáy túi chính là nơi gặp nhau (“giao nước”) của hai dòng sông huyết mạch: sông Cái (Hồng Hà) và sông Đuống (Thiên Đức), ở chính giữa tam giác châu thổ sông Hồng – “Cái nôi sinh thành của dân tộc”. 5.2. TRUYỀN THUYẾT VỀ MỘT SỐ VỊ THẦN TIÊU BIỂU ĐƯỢC THỜ CÚNG TẠI CÁC LỊCH SỬ VĂN HOÁ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN: 9 Bản đồ phân bố di tích quận Long Biên 5.2.1. Truyền thuyết về Huyền Thiên Trấn Vũ Truyền thuyết về Huyền Thiên Trấn Vũ có nhiều dị bản khác nhau. Trong đó có một bản kể cho rằng: “Vào thời Tuỳ Khai Hoàng (617), sau khi tu luyện đắc đạo ở núi Vũ Đương, Huyền Thiên Thượng Đế thường đi du ngoạn khắp nới để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Rất nhiều lần Ngài xuất hiện ở trần gian để tiễu trừ yêu ma cứu giúp lành. Ngài đến hồ Linh Động ở bên sông Nhĩ, hương Long Đỗ để diệt trừ yêu quái. Sau đó, Ngài tiếp tục ngồi trên gò Kim Quy. Về sau nhân dân ở vùng này tưởng nhớ đến công ơn của Thần nên xây dựng quán để phụng thờ…”. Thời Đường do kiếng chữ Huyền nên đổi là Chân, thời Tống 10 kiêng chữ Chân nên đổi là Trấn. Do vậy, Thần còn có tên là Huyền Vũ, Chân Vũ hay Trấn Vũ. Huyền Thiên Trấn Vũ Theo quan niệm của Đạo giáo, thần Huyền Thiên Trấn Vũ (Huyền Vũ) có nhiệm vụ trấn giữ phương Bắc. Người xưa cho rằng trấn phía Đông có Thần Thanh Long, biểu tượng cho mùa Xuân; trấn phía Nam có Thần Chu Tước, biểu tượng cho mùa Hạ, trấn phía Tây có Thần Bạch Hổ, biểu tượng cho mùa Thu và trấn phía Đông có Thần Huyền Vũ, biểu tượng cho mùa Đông. Thần Huyền Thiên Trấn Vũ được thờ ở nhiều nơi. Trên địa bàn Hà Nội có Trấn Vũ quán ở Quán Thánh (Ba Đình), Huyền Thiên Đại quán ở Thuỵ Lâm (Đông Anh), Huyền Thiên Cổ quán ở phường Đồng Xuân, đền Trấn Vũ ở phường Thạch Bàn (Long Biên)… 5.2.2. Truyền thuyết về Đức thánh Linh Lang Linh Lang tự Hoàng Chân, là con trai thứ tư của vua Lý Thánh Tông. Đức Thánh sinh vào giờ Thìn ngày 13 tháng Chạp năm Ất Mùi, 1055. 11 Đức thánh Linh Lang Năm 1076, nhà Tống lợi dụng lúc vua Lý Nhân Tông mới 7 tuổi lên ngôi thay cha là Lý Thánh Tông, ráo riết sửa soạn động binh xâm lược nước ta. Theo lệnh của Thái uý Lý Thường Kiệt: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của địch” (Thiên phát chế nhân). Hoàng Chân đã chỉ huy đội tượng binh và kỵ binh chiến đấu dũng cảm, góp phần đánh tan đồn trú của giặc từ tại Hoành Sơn phía Tây đến Châu Dung phía Đông và chiếm thành Ung Châu cho danh tướng Tô Giám trấn giữ, đó là nơi quân tống chuẩn bị quân lương, vũ khí để xâm lược nước ta. Mùa xuân năm Đinh Tị (1077), Hoàng Chân đã chủ huy một đoàn thuyền 49 chiếc từ Vạn Xuân ngược lên Khao Túc, lợi dụng đêm tối bất ngờ đánh thẳng vào phòng tuyến phía Đông của giặc, đuổi chúng về tận núi Nham Điền, góp phần cùng toàn dân đập tan âm mưu xâm lược nước ta của quân Tống. Trong trận này, thuyền của chủ tường Hoàng Chân bị những tản đá lớn của giặc bắn từ trên bờ sông xuống, nước ào ào vào khoang. Thuyền chao đảo dữ dội, nhưng ông cùng các thuỷ binh cận về vẫn hiên ngang đứng trên thuyền ngập nước. Nhìn chiên thuyền chìm dần trên thuyền ngập nước, bọn Giới Định, Đặng Trung kinh sợ bảo nhau: “Thật không thể kinh nhờn”. Được tin hoàng tử Hoàng Chân hi sinh, vua Lý vô cùng thương tiếc, xuống chiếu cho nhân dân xây đền thờ và ban phong mỹ tự “Thượng đăng phúc thần vạn cổ huyết thực” cho hoàng tử Hoàng Chân. 12 Ghi nhớ công ơn của Đức thánh Linh Lang, có 269 nơi xây dựng đình đền thờ người là Thành hoàng. Chỉ tính riêng trên địa bàn quận Long Biên đã có 12 đình đền thờ Đức thánh Linh Lang. Đó là đình Lâm Du, đình Phú Viên ở phường Bồ Đề; đình Thổ Khối, đình Xuân Đỗ Thượng ở phường Cự Khối; đình Nha, đình Tư Đình ở phường Long Biên; đình Ngọc Lâm ở phường Ngọc Lâm; đình Gia Thượng ở phường Ngọc Thuỵ; đình Sài Đồng ở phường Phúc Đồng; đình Ngô ở phường Thạch Bàn và đình Kim Quan, đình Trường Lâm ở phường Việt Hưng. 5.2.3. Truyền thuyết về Cao Sơn đại vương . Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh khi nói về các Sơn thần được thờ là thành hoàng ở Việt Nam đã lý giải: “Sơn thần nước ta thể hiện thành một hệ tương đối thống nhất. Đó là hệ Sơn Tinh tức là hệ Tản Viên”. Rồi ông cho rằng: Sự tích về Sơn thần ban đầu được ghi chép lại trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử ký toàn thư. Đến khi Nguyễn Bính biên soạn lại thần tích trên cơ sở lời khai của dân địa phương đã xuất hiện nhiều tình tiết khác về hệ Sơn thần. Bên cạnh Tản Viên sơn thánh ở ngôi tối cao, còn có Cao Sơn thống lĩnh tả bộ Sơn thần, Quý Minh thống lĩnh hữu bộ sơn thần. Ba vị Sơn thần này gắn với ba đỉnh núi Ba Vì – Tam vị Tản Viên Sơn thánh. Bản kể truyền thuyết phổ biến nhất về Cao Sơn đại vương như sau: Vào đời Hùng Duệ Vương có hai vợ chồng người Hồng Châu đến chùa Thiên Thai cầu tự. Đêm nằm thấy hai ngôi sao sa xuống, từ đấy thụ thai, sau sinh ra một bọc hai con trai, mặt mũi khôi ngô khác thường đặt tên là Cao Sơn và Quý Minh, năm lên 6 tuổi đi học, năm 16 tuổi học lực tinh thông, kiêm cả tài võ nghệ. Hùng Duệ Vương cho tìm người tài, hai ngài bèn đến chầu vua. Vua phong cho làm Đô chỉ huy sứ Tướng quân. Thục Phán của bộ Ai Lao dấy quân, vua sai hai ngài đem quân đi bình giặc Thục, phong hai ngài làm Tả, Hữu tướng quân. Hai ngài cùng Đức thánh Tản Viên đem quân đến núi Sóc Sơn, đạo Kinh Bắc, mới đánh một trận giặc Thục thua chạy tan tác. Vua ban cho ngài thực ấp ở đạo Kinh Bắc. Ngài về chỗ trú sở đóng quân trước, tự nhiên trời nổi cơn mưa gió, có một đám mây sa xuống dinh ngài, rồi ngài hoá vào ngày 12 tháng 11. 13 Cao Sơn đại vương Cao Sơn đại vương là vị thần được nhiều địa phương thờ cúng như một vị thành hoàng làng, nổi tiếng nhất là đền Kim Liên – trấn phía Nam trong Thăng Long tứ trấn. Trên địa bàn quận Long Biên, có 7 đình đền thờ Cao Sơn đại vương: đình Thổ Khối ở phường Cự Khối; đình Ô Cách ở phường Đức Giang; đình Thạch Cầu Dõi ở phường Long Biên; đình Gia Thượng ở phường Ngọc Thuỵ; đình Gia Quất, đình Thượng Cát ở phường Thượng Thanh và đình Trường Lâm ở phường Việt Hưng. 5.2.4. Truyền thuyết về Đức thánh Lệ Mật Ở xứ Kinh Bắc, phủ Thuận An, huyện Gia Lâm, xã Lệ Mật, có hai vợ chồng họ Hoàng nọ ăn ở hiền lành, nhân đức nhưng nhà nghèo, muộn con. Một hôm, Thái bà đến lễ ở chùa Đại Bi, thấy có một tượng đá đứng giữa cửa chùa, bà vào thắp hương cầu nguyện xin được một người con trai giống như tượng đá thì quý hoá vô cùng. Thái bà quỳ lại trước tượng, rồi trở về nhà. Ít lâu sau bà có thai, sinh được một người con trai vào giờ Ngọ, ngày 13 tháng Giêng năm Bính Dần (1026). Người con trai diện mạo khôi ngô, vẻ người đức độ, giống y như tượng đá, duy chỉ không có “ngọc hành”. Hai vợ chồng lấy làm buồn hận. Năm con 13 tuổi, ông bà mới dám đặt tên, gọi là Quý Công. Năm 16 tuổi, Quý Công trở thành người tài giỏi xuất sắc, sức mạnh tuyệt vời… 14 Lễ hội làng Lệ Mật Vào đời Lý Thái Tông (1028-1054) có một nàng công chúa chơi thuyền trên sông Thiên Đức, chẳng may bị đắm thuyền, chết đuối. Vua sai quan quân mò tìm suốt cả đoạn sông vẫn bạt tăm hơi, không tìm thấy xác. Nhà vua rất buồn phiền, chiếu chỉ cho muôn dân, ai tìm thấy xác công chúa sẽ trọng thưởng. Ngã ba Nhị Đuống là nơi hợp lưu của hai dòng sông nên lúc nào cũng có sóng to gió lớn. Việc tìm kiếm kéo dài nhiều ngày mà không có kết quả. Giữa lúc ấy, Hoàng Quý Công người làng Lệ Mật xin yết kiến nhà vua, đảm nhận công việc khó khăn này. Với tài trí bơi lội, thông thạo nghề sông nước, ông lặn xuống đáy sông Thiên Đức giao đấu với loài thuỷ tặc trong vùng hợp lưu nước xoáy, tìm vớt được xác công chúa, được vua khen là bậc kì tài, ban tặng 100 cân vàng, 100 tấm lụa và sắc phong “Thái giám nội thị tự khanh”… Trên đường về kinh đô, đi qua Phúc Quảng môn (cửa phía Tây), thấy có khu vườn cấm đầy cỏ hoang, cây mọc tốt như rừng, ông trình tấu xin khước từ chức quan, trả lại vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc… chỉ xin vua ban cho khu đất hoang phía Tây kinh thành, vua ưng thuận. Trở về làng, ông chiêu tập dân nghèo, vượi qua Nhị Hà sang khu vườn phía Tây phát hoang, sinh cơ, mở nghiệp, lập nên 13 trại (Thập tam trại). Đây là một khu vực rộng, trù phú, giáp với hoàng thành, được bao bọc bởi đê La Thành theo tả ngạn sông Tô Lịch, từ Bưởi đến Cầu Giấy qua Giảng Võ tới ô Chợ Dừa. 15 Múa Giảo long Ngày 12 tháng 10 năm Kỷ Mùi, Hoàng Quý Công lâm bệnh qua đời. Nhân dân 13 làng trại ở kinh quán và Lệ Mật từ già đến trẻ vô cùng thương tiếc. Nhà vua cũng thương xót vị công thần, xuống chiếu đưa thi hài người về an táng tại nguyên quán và lệnh cho dân 13 làng trại tổ chức nghênh táng. Việc chưa kịp thực hiện, thì chỉ sau một đêm, nơi để thi hài mối xông đất đắp thành mộ. Vua xuống chiếu ban tặng cho các trại 300 quan tiền làm hương hoả, lệnh cho xây lăng mộ, lập miếu thờ ở Quảng Đức huyện, Phụng Thiên phủ, kém sắc phong “Thành hoàng Thái giám trung đẳng thần”. 6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống: Vận dụng những điều đã học nhất là từ chương trình địa phương ở môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý em đã sưu tầm và giới thiệu về truyền thuyết quận Long Biên. Em đã có thêm cho mình những hiểu biết về chính mảnh đất mà em sinh ra và lớn lên. Qua đó, em thêm biết ơn các vị anh hùng dân tộc, những người đã gây dựng nên đất nước Việt Nam yêu dấu. Theo em, mọi người, nhất là những người được sinh ra và lớn lên tại mảnh đất này phải biết trân trọng và có ý thức gìn giữ những nét đặc sắc nơi đây! 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan