SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN HUỆ
------------------------------
Cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình
huống thực tiễn dành cho học sinh trung học
Họ Và Tên:1. Ngô Thị Hồng Nhung
2. Trần Bảo Châu
Lớp: 10 Văn - THPT chuyên Nguyễn Huệ
HÀ NỘI, 2014
1. Tên tình huống
* Những điều cần biết và nhiệm vụ cần có của mỗi người dân đất Việt về
quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
2.Mục tiêu giải quyết tình huống
* Vận dụng kiến thức liên môn, trong đó bao gồm môn : Ngữ văn, Lịch sử
và Địa lý để từ đó đưa ra những điều cần biết và nhiệm vụ cần có của mỗi công
dân Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, chủ quyền thiêng liêng của
Tổ quốc.
3. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết tình huống
* Về Địa lý :
a. Quần đảo Hoàng Sa
- Quần đảo Hoàng Sa là một trong hai quần đảo xa bờ thuộc chủ quyền của
Việt Nam từ lâu đời. Trong lịch sử quần đảo Hoàng Sa còn có tên là “Bãi cát
vàng”. Tên quốc tế thường được thể hiện trên các hải đồ là Paracels. Quần đảo
gồm 37đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm và một số đối tượng địa lý khác thuộc huyện
Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng. Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng
khoảng 30.000 km2. Phạm vi quần đảo được giới hạn bằng các đảo, bãi ở các
cực Bắc, Nam, Đông, Tây như sau:
Vị trí các cực của quần
Vỹ độ Bắc
Kinh độ Đông
đảo
17o 06' 0"
111o 30' 8"
Cực Nam: Bãi ngầm Ốc
Tai Voi
15o 44' 2"
112o 14' 1"
Cực Đông: Bãi cạn Gò
16o 49' 7"
112o 53' 4"
Cực Tây: đảo Tri Tôn
15o 47' 2"
111o 11' 8"
Cực Bắc: đảo Đá Bắc
Nổi
- Về khoảng cách đến đất liền, từ đảo Tri Tôn đến mũi Ba Làng An, tỉnh
Quảng Ngãi là 135 hải lý, đến huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré) tỉnh Quảng Ngãi
123 là hải lý.Tổng diện tích phần nổi của quần đảo Hoàng Sa khoảng 10 km2,
đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 1,5 km2. Quần đảo Hoàng Sa
nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một
phần tỉnh Quảng Ngãi.
2
- Hoàng Sa nằm trong vùng "xích đạo từ" có độ sai lệch từ không thay đổi
hoặc thay đổi rất nhỏ, rất thuận lợi cho việc đi biển. Quần đảo này có khí hậu
nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù và nhiều giông bão, nhất là
từ tháng 6 đến tháng 8 hằng năm. Trên một sốđảo có nguồn nước ngọt, cây cối
um tùm, vô số chim và đặc biệt là có nhiều rùa biển sinh sống.
- Nằm phía Đông của Việt Nam, Hoàng Sa án ngự đường hàng hải quốc tế
huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng
biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản và nguồn hải sản, thuận lợi trong việc
phát triển kinh tế, quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế
đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc Biển Đông.
b. Quần đảo Trường Sa
- Quần đảo Trường Sa nằm cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về
phía Nam, bao gồm hơn 100 đảo, đá, bãi ngầm, bãi san hô, nằm rải rác trong
phạm vi biển, khoảng từ vĩ tuyến 6030’ Bắc đến 12000’ Bắc và khoảng từ kinh
tuyến 111030’ Đông đến 117020’ Đông. Đảo gần đất liền nhất là đảo Trường Sa
cách vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 250 hải lý, cách điểm gần nhất của
3
đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 600 hải lý và cách đảo Đài Loan khoảng
960 hải lý.
- Các đảo của quần đảo Trường Sa thấp hơn các đảo của quần đảo Hoàng
Sa. Độ cao trung bình trên mặt nước khoảng 3 - 5m. Quần đảo Trường Sa được
chia làm tám cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa,
Thám Hiểm, Bình Nguyên. Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao khoảng 4 - 6m lúc
thủy triều xuống); Ba Bình là đảo rộng nhất (0,6 km2). Ngoài ra còn có nhiều
đảo nhỏ và bãi đá ngầm như Sinh Tồn Đông, Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven,
Ken Nan, Đá Lớn, Thuyền Chài. Tổng diện tích phần nổi của tất cả các đảo, đá,
cồn, bãi ở quần đảo Trường Sa chỉ khoảng 3 km2 nhỏ hơn tổng diện tích của
quần đảo Hoàng Sa (10 km2) nhưng lại trải ra trên một vùng biển rộng gấp hơn
nhiều lần quần đảo Hoàng Sa.
- Trên đảo Trường Sa và Song Tử Tây có đài khí tượng ngày đêm theo
dõi và thông báo các số liệu về thời tiết ở vùng biển này cho mạng lưới quan
trắc khí tượng thế giới và trên một số đảo có đèn biển của Tổng Công ty Bảo
đảm hàng hải Việt Nam như đảo Song Tử Tây, đảo An Bang, đảo Đá Tây.
- Trên các đảo có nhiều loại cây xanh như phong ba, phi lao, bàng vuông và
một số loại dây leo cỏ dại. Chất đất trên các đảo của quần đảo Trường Sa là cát
san hô, có lẫn những lớp phân chim lẫn mùn cây có bề dày khoảng 5 - 10 cm.
Một số đảo trong quần đảo có nước ngầm như đảo Song Tử Tây, đảo Song Tử
Đông, đảo Trường Sa. Nguồn lợi hải sản ở quần đảo Trường Sa rất phong phú,
đặc biệt có loại vích là động vật quý hiếm, cá ngừ đại dương có giá trị kinh tế
cao. Không chỉ có trữ lượng tài nguyên khá lớn, đa dạng mà quần đảo Trường
Sa còn có vị trí quân sự chiến lược quan trọng án ngữ phía Đông Nam nước ta.
- Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng gió, giông
bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Một số hiện tượng
thời tiết cũng diễn biến khác với trong đất liền. Khí hậu ở quần đảo Trường Sa
có thể chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5,
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm rất
lớn vào khoảng hơn 2.500 mm. Hiện tượng dông trên vùng biển quần đảo này
rất phổ biến, có thể nói quanh năm, tháng nào cũng có dông và là nơi thường có
bão lớn đi qua, tập trung vào các tháng mùa mưa.
4
* Về Lịch sử :
- Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được người Việt Nam biết đến từ
rất sớm. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được xác định trong
các bản đồ do người Việt Nam hay người phương Tây soạn vẽ từ thế kỷ XVII
với tên gọi Bãi Cát vàng, Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa... Hai quần đảo cũng
được ghi chép trong các cuốn sử của Việt Nam với các sự kiện xảy ra từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XVIII. Sau khi xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã tuyên
bố hai quần đảo là lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp. Khi đất nước bị chia
cắt, Chính phủ Việt Nam cộng hòa quản lý hai quần đảo theo đúng công ước
quốc tế. Sau ngày đất nước thống nhất, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về lãnh
hải, vùng tiếp giáp, đường cơ sở và khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là một bộ
phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
* Về văn học :
- Cuốn sách “Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển
Đông” vừa được Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam công bố. Sách do
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
thực hiện, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành, nằm trong chương trình
nghiên cứu chung về biển Đông của hơn 50 cán bộ viện này trong hơn 10 năm qua.
- Đề tài nghiên cứu đã được nghiệm thu cấp Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, với bản thảo có độ dày khoảng 3.000 trang. Nhưng để phục vụ
kịp thời công tác nghiên cứu, khai thác và phát huy hiệu quả của đề tài, 46 tư
liệu Hán Nôm và 18 bản đồ có giá trị, được lựa chọn và in trong cuốn sách với
5
độ dày 500 trang. Các tư liệu và hình ảnh bản đồ được thu thập từ kho tư liệu
của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và sưu tầm từ các địa phương. GS.TS Nguyễn
Xuân Thắng khẳng định trong đó có nhiều tư liệu gốc lần đầu tiên được công bố
qua cuốn sách. Đặc biệt, cuốn sách không chỉ đề cập tới chủ quyền của Việt
Nam với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn cả chủ quyền với các vùng
khác thuộc biển Đông, cũng nằm trong vùng tranh chấp với Trung Quốc.
- Là người tham gia biên soạn cuốn sách, PGS Trịnh Khắc Mạnh, Nguyên
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, chia sẻ: “Trong quá trình sưu tầm các tư liệu, bước đầu chúng tôi đã
tiến hành sưu tầm tư liệu Hán Nôm về chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và các cùng biển của Việt Nam ở biển Đông, gồm các loại
văn bản như bản đồ, địa chí, lịch sử, văn bản hành chính, tạp văn, cùng nhiều
loại tài liệu khác. Trong đó, có các tập bản đồ đáng chú ý là “Thiên Nam tứ chí
lộ đồ thư” được soạn vẽ vào năm 1686, hay “Thiên hạ bản đồ”, “Thiên Nam lộ
đồ” có những ghi chép quan trọng về Bãi Cát Vàng - tức Hoàng Sa.
- Các bộ sử, địa chí, hội điển cũng được giới thiệu trong cuốn sách như
“Đại Việt sử ký tục biên” do chúa Trịnh Sâm sai biên soạn vào năm 1775; “Phủ
biên tạp lục” do Lê Quý Đôn soạn và viết tự năm 1776; bộ “Đại Nam nhất thống
chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1882… cho tới các tập châu
bản triều Nguyễn. Các loại tư liệu này đều minh chứng, Nhà nước đã phái người
ra quần đảo Hoàng Sa để đo đạc, cắm mốc, vẽ bản đồ mang về trình tấu triều
đình và đặt đội hải thuyền mang tên Hoàng Sa, Bắc Hải thực hiện những chuyến
ra khơi để quản lý biển đảo.
- Ngoài ra, cuốn sách còn bao gồm các tập thơ văn, tạp văn viết về hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa là những ghi chép của các nhà thơ, nhà văn trong
những chuyến công cán về hiện trạng lịch sử địa lý lúc bấy giờ, điển hình là tập
thơ “Đông hành thi thuyết” của Lý Văn Phức. Đồng thời, trong sách còn có
những ghi chép từ cuốn “Khải đồng thuyết ước” do Phạm Vọng và Ngô Thế
Vinh nhuận sắc. Đây là cuốn sách giáo khoa dạy các kiến thức về xã hội, địa lý,
đề cập tới bản đồ ghi Hoàng Sa thuộc Việt Nam. Điều đó cho thấy Nhà nước
phong kiến Việt Nam đã luôn quan tâm đến việc giáo dục ý thức coi trọng chủ
quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển ở biển Đông cho những
thế hệ người Việt Nam. Dự kiến, những tư liệu, bản đồ trong cuốn sách “Một số
tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển Đông” sẽ sớm được đưa vào
sách giáo khoa, trong chương trình giảng dạy của giáo viên, để tuyên truyền
nhận thức một cách sâu rộng hơn tới các thế hệ học sinh Việt Nam về vấn đề
chủ quyền biển đảo.
6
4+5. Giải pháp giải quyết tình huống và thuyết minh tiến trình giải
quyết tình huống
- Trong thời đại ngày nay, sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép
con người mở rộng khả năng khai thác tài nguyên biển vượt qua các giới hạn về
độ sâu và tiến tới khả năng sống ở môi trường biển. Trước sức ép ngày càng
tăng về dân số và cạn kiệt dần tài nguyên trên đất liền, tiến ra biển và bảo vệ chủ
quyền, tài nguyên biển trở thành một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên thế
giới. Việt Nam là một quốc gia ven biển, có những lợi thế về vị trí địa lý tự
nhiên và tiềm năng kinh tế, nên tiến ra biển, khai thác và bảo vệ vững chắc toàn
vẹn lãnh thổ, trong đó có chủ quyền các vùng biển, đảo là một nhiệm vụ chiến
lược.
Lịch sử dân tộc ta còn ghi lại bao lời tuyên bố vang vọng mãi với non sông
đất nước, thấm sâu trong tâm trí con người Việt Nam như lời thề non nước;
trong đó, có lời căn dặn của Bác Hồ khi về thăm Bộ đội Hải quân năm 1961:
“Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Biển
ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lịch sử dân tộc cũng chứng tỏ rằng,
Việt Nam tuy là nước nhỏ (xét cả về lãnh thổ, dân số, tiềm lực kinh tế và quân
sự so với nhiều nước đã từng xâm lược nước ta), nhưng vẫn có thể tạo nên sức
mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đó là chiến lược: “Dĩ
đoạn chế trường” (lấy ngắn chế dài) của Trần Quốc Tuấn; “Dĩ nhược chế cường,
dĩ quá địch chúng” (lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều), “Dĩ đại nghĩa nhi
hung tàn, dĩ chi nhân nhi địch cường bạo” (lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy
chí nhân mà thay cường bạo) theo lời Nguyễn Trãi. Đặc biệt, để tạo nên sức
mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến 30 năm (1945 - 1975) của nhân dân ta
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta đã biết khai thác và
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời
đại để đánh thắng kẻ thù.
- Ngày nay, bối cảnh thế giới, khu vực và tình hình trong nước đã đổi thay
so với những thời kỳ trước, song truyền thống giữ nước cùng bài học chống
ngoại xâm của ông cha vẫn giữ nguyên giá trị. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng
định: chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có các vùng biển, đảo là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm. Nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam có đủ ý chí
quyết tâm và sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giữ gìn, bảo vệ các vùng biển
và hải đảo của mình.
- Gần đây, tình hình Biển Đông xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, nhạy cảm,
liên quan đến nhiều nước, đe dọa đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của nước ta. Ngư dân nước ta khi ra khơi xa đánh bắt hải sản luôn phập
7
phồng, lo âu bị nước ngoài bắt giữ, chiếm đoạt tài sản, phạt tiền, nhất là trên các
vùng biển giáp ranh với các nước khác. Hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí,
một trong những hoạt động kinh tế mũi nhọn trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa 200 hải lý, thuộc chủ quyền nước ta, được luật pháp quốc tế thừa
nhận, cũng có lúc bị nước ngoài ngăn chặn, xâm hại. Vấn đề đáng quan ngại là,
lợi dụng những vấn đề mới phát sinh ở Biển Đông, các lực lượng cơ hội, phản
động ở trong và ngoài nước ra sức xuyên tạc, nói xấu, phá hoại công cuộc bảo
vệ, xây dựng đất nước và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Trước
tình hình đó, chúng ta phải phối hợp và tiến hành đồng bộ các biện pháp để bảo
vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Dưới đây, chúng tôi xin tập trung vào
mấy biện pháp chủ yếu:
1. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về biển, đảo.
- Vừa qua, sau khi nước ngoài có những hành động gây hấn, xâm phạm chủ
quyền của Việt Nam ở ngay trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thì
công tác tuyên truyền biển, đảo đã được đẩy mạnh hơn, báo chí nói nhiều, nói rõ
ràng, cụ thể, nói đúng bản chất vấn đề về tranh chấp trên Biển Đông. Phản ứng
mạnh mẽ của Việt Nam theo đường ngoại giao, cùng tiếng nói rất đúng, kịp thời,
cần thiết, không né tránh một số vấn đề mà trước đây thường cho là nhạy cảm
của các nhà khoa học, sử học, luật sư và báo chí trong nước đã nâng cao nhận
thức, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân; đồng thời, qua đó các cơ quan báo
chí, thông tấn lớn trên thế giới đưa tin nhiều về vấn đề này khiến dư luận quốc tế
hiểu hơn về cơ sở pháp lý, lịch sử, lập trường của Việt Nam trong việc giải
quyết tranh chấp trên Biển Đông. Điều đáng mừng là, qua thông tin rộng rãi trên
báo chí Việt Nam và nước ngoài, nhiều chính khách, học giả trên thế giới, dư
luận quốc tế đã lên tiếng đồng thuận, ủng hộ lập trường chính nghĩa, lẽ phải của
Việt Nam.
- Phát huy kết quả đã đạt được, thời gian tới, công tác tuyên truyền về biển,
đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các
phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất từ cơ
quan chức năng Trung ương. Đặc biệt, cần cung cấp thông tin kịp thời, minh
bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và
nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, cơ sở lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của
Việt Nam trên các vùng biển, đảo; biết quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà
nước ta về giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây
dựng niềm tin, ý chí quyết tâm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ
sự đồng tình của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và
các hoạt động kinh tế biển. Hiện nay, ủy ban Biên giới quốc gia đã có Trang
thông tin điện tử, phổ biến và cung cấp thông tin chính xác cho công chúng và
8
báo chí trong và ngoài nước. Nhưng, mới có nội dung thông tin bằng tiếng Việt
và lượng thông tin vẫn còn ít, chưa cập nhật thường xuyên, liên tục; còn thiếu
nhiều thông tin, tư liệu cần thiết cũng như các công trình nghiên cứu liên quan
đến Biển Đông. Sắp tới, Trang thông tin này nên có thêm bản tiếng Anh để phổ
biến rộng rãi tới cộng đồng quốc tế. Việc tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng cần thường xuyên hơn, nên có nhiều bài xã luận, bình luận ở
nhiều cấp độ khác nhau thể hiện rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước,
có những kiến nghị và giải pháp để định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận trong
nhân dân. Cùng với đó, cần kết hợp công tác tuyên truyền về biển, đảo với công
tác giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ các quy định trong pháp luật
nước ta và pháp luật quốc tế về biển, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 (UNCLOS), để từ đó, không chỉ chấp hành nghiêm các quy định
mà còn kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước
ngoài ở vùng biển Việt Nam. Chúng ta cũng cần sớm đưa các nội dung về chủ
quyền biên giới và lãnh thổ, biển đảo vào trong sách giáo khoa ở các cấp phổ
thông và đại học; in và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và
quốc tế các bản đồ mới về đường biên giới trên bộ và các vùng biển, đảo thuộc
chủ quyền của Việt Nam. Các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu cần đẩy
mạnh công tác nghiên cứu khoa học về Biển Đông, chú trọng vào các đề tài
khẳng định vững chắc chủ quyền của chúng ta, cả về mặt pháp lý, cơ sở lịch sử
và truyền thống giữ biển của ông cha qua các thời kỳ.
2. Kiên trì giải quyết tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, trên
cơ sở luật pháp quốc tế.
- Là thành viên của Hiến chương Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như
Tuyên bố của các bên về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân
thủ các quy định của luật pháp quốc tế, kiên trì con đường giải quyết các vấn đề
phát sinh bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau;
trong đó, biện pháp chủ yếu là thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm
kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên
quan, vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, vì hòa bình, ổn định
ở khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó, những vấn đề còn đang bất đồng, tranh
chấp song phương thì giải quyết theo hướng song phương; còn những vấn đề
tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết sức
công khai, minh bạch giữa các nước liên quan. Trong khi kiên trì phấn đấu tìm
kiếm một giải pháp cơ bản, lâu dài, chúng ta yêu cầu các bên liên quan kiềm
chế, không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, duy trì ổn định trên cơ sở
giữ nguyên hiện trạng, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, tuân thủ
cam kết giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các
9
nguyên tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 5 nguyên tắc chung sống hòa
bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an toàn biển,
nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau nghiêm chỉnh thực hiện DOC,
hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC) để Biển Đông thực sự là vùng
biển hòa bình, ổn định, hữu nghị và phát triển, vì lợi ích của tất cả các nước
trong khu vực, vì an ninh chung của khu vực và trên toàn thế giới. Tại các vùng
biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán của quốc gia ven biển, chúng ta có quyền áp dụng các biện pháp
cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nước ta. Bởi, theo Điều 73 của UNCLOS quy định “quốc gia ven biển
có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và
khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban
hành theo đúng Công ước”.
- Trước tham vọng kiểm soát phần lớn Biển Đông của nước ngoài, chúng ta
cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu
vực và toàn cầu. Một mặt, kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với
luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS; mặt khác, coi trọng sử dụng hiệu quả cơ
chế toàn cầu và khu vực, thông qua các diễn đàn của Liên hợp quốc và ASEAN
để các tổ chức này có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm
chủ quyền của một quốc gia thành viên.
- Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp
hòa bình, cần kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình, song
tránh gây phương hại cho yêu cầu giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát
triển; không để các thế lực phản động tìm cách lợi dụng, công kích, chống phá
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc, chia rẽ quan hệ giữa nước ta và
các nước liên quan.
3. Tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh.
- Trong bối cảnh bất ổn trên các vùng biển của Tổ quốc hiện nay, việc tập
trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo và các hoạt động kinh
tế biển, nhất là Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam,
- Bộ đội Biên phòng, dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững
mạnh, đủ sức hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao là một yêu cầu bức
thiết. Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên
biển - giữ vai trò nòng cốt và gánh vác trách nhiệm nặng nề trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây
dựng theo hướng hiện đại và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là các lực
lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo ở khơi xa. Cần phấn
10
đấu để trong tương lai gần, Hải quân ta có đủ các lực lượng: tàu mặt nước, tàu
ngầm, Không quân Hải quân, Hải quân đánh bộ và pháo - tên lửa bờ biển..., đủ
khả năng bảo vệ chủ quyền, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ nhân dân ta lao động sản
xuất trên biển, sẵn sàng ngăn ngừa và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược từ hướng
biển. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi
pháp luật trên các vùng biển của Tổ quốc cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện
về tổ chức biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành
nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng cho sự phát triển trong tương lai. Lực lượng Bộ
đội Biên phòng cần được đầu tư bảo đảm đủ trang bị kỹ thuật, phương tiện khí
tài, phương tiện cơ động..., đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự,
cứu hộ - cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển được phân
công. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển theo phương châm “rộng khắp”,
ở đâu có tàu, thuyền hoạt động trên biển, có dân định cư ở ven biển và trên đảo,
ở đó có dân quân tự vệ; lấy các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng
cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng địa phương, bảo
đảm tạo thành 3 tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng xây dựng lực lượng hoạt
động trên biển, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Kiểm ngư là
lực lượng cần sớm được xây dựng, đi vào hoạt động trong thời gian tới, với các
đội tàu được trang bị hiện đại từ cấp Trung ương đến các vùng, các chi cục
thuộc 28 tỉnh (thành phố) ven biển. Đây là lực lượng kiểm soát dân sự của Việt
Nam, có đầy đủ thẩm quyền để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của
tàu cá nước ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền
quốc gia ở các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
6. Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống
- Thông qua những hiểu biết và nhiệm vụ cần có của mỗi người dân đất
Việt về quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc,
chúng ta càng thêm thấu hiểu sâu sắc về chủ quyền và lãnh thổ của đất nước.
Cũng chính từ những hiểu biết ấy, bản thân mỗi chúng ta - những thế hệ trẻ,
những chủ nhân tương lai của đất nước đã phần nào có thêm tình yêu dành cho
biển đảo quê hương và cả tấm lòng biết ơn, tự hào sâu sắc về những gì mà cha
ông ta đã đem lại cho Tổ quốc. Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn bày tỏ
tấm lòng biết ơn chân thành nhất đối với những người lính đang ngày đêm canh
gác nơi đảo xa, bảo vệ vùng biên cương của Tổ quốc. Các anh sẽ mãi là niềm tự
hào của quê hương, của dân tộc Việt Nam thân yêu này !
- Đối với mỗi chúng ta một cuộc đời là để làm biết bao nhiêu điều, để học
tập, vui chơi, phấn đấu cho sự nghiệp, cho tình yêu, cho gia đình và cho nhiều
điều hơn thế nữa. Nhưng đối với những người chiến sĩ nơi biển đảo, cuộc đời là
để sống và bảo vệ thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Sống là để phục vụ hết
11
mình cho Tổ quốc thân yêu, những mất mát của các anh đôi khi chúng ta không
thể nói bằng lời. Dân tộc Việt Nam anh hùng là thế đó, đất nước chúng ta luôn
có những người con “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”.
- Gần đây chúng ta nghe nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại
chúng về tình hình rối ren, tranh chấp trên biển đảo. Giới trẻ chúng ta đôi khi chỉ
biết ngắm nhìn cái đẹp của biển mà lãng quên đi trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ chủ
quyền biển đảo Việt Nam. Nhưng không! tôi tin rằng thế hệ lớp trẻ chúng tôi,
những con người Việt Nam ưa chuộng hòa bình sẽ biết hóa tình yêu thành sức
mạnh, gieo hành động bằng chính phần công sức dù nhỏ bé của mình, một khi
cuộc đấu tranh ấy đến gần hơn, biển đảo cần chúng ta hơn thì sức mạnh của
"một dân tộc gan góc" ắt sẽ làm nên lịch sử.
Trước tình hình Tổ quốc như hiện nay, chúng ta hãy trở thành một tuyên
truyền viên giúp mọi người cùng hiểu, cùng nhau giữ gìn hải đảo biên cương
của Tổ quốc. Những thanh niên trẻ hăm hở cống hiến nhiệt tình và sáng tạo, góp
phần để Việt Nam trở thành quốc gia “mạnh về biển - giàu lên từ biển”. Bản
thân mỗi chúng ta cần đóng góp sức mình bằng những việc làm cụ thể vào công
cuộc xây dựng biển đảo quê hương. Hãy biến yêu thương thành hành động, quan
trọng hơn phải biết bình tĩnh, thận trọng trong suy nghĩ và hành động; hãy cùng
nhau tham gia tích cực những cuộc vận động Góp đá xây Trường Sa, Vì biển
đảo thân yêu, Triệu trái tim hướng về biển đảo Tổ quốc, Em yêu biển đảo Việt
Nam, Vì biển xanh quê hương…
-“Hỡi các anh những linh hồn không tuổi, hỡi các mẹ các chị các em máu
đã thấm vào lòng đất Việt, để ngàn năm còn mãi tự hào…Xin dâng hương
những linh hồn bất tử, như tượng đài sừng sững giữa phong ba, để đời sau còn
nghiêng mình cuối đầu trước những chiến công làm rạng rỡ Việt Nam” (Linh
thiêng Việt Nam)
Vâng có thể còn những âu lo, còn những khó khăn, thách thức nhưng tình
yêu, niềm tự hào và nỗi lo sẽ hóa sức mạnh khi mỗi người chúng ta sẵn sàng
hành động với những việc làm thiết thực xuất phát từ tình yêu quê hương, lòng
tự hào dân tộc và quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước. Tôi, bạn và tất
cả chúng ta hãy cùng bắt đầu hành trình vì biển đảo quê hương, vì đất nước Việt
Nam thân yêu này, bạn nhé !
- Trên đây là một số học hỏi của bản thân tôi về quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Tôi mong rằng những hiểu
biết trên sẽ giúp các bạn phần nào hiểu hơn về quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa
và chủ quyền thiêng liêng của đất nước. Thông qua đó, chúng ta hãy cùng nhau
bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển được sánh ngang với các
12
cường quốc năm châu như điều mà Bác Hồ hằng mong mỏi, bạn nhé ! Và điều
đó sẽ được tất cả chúng ta - mọi công dân của đất Việt thực hiện bằng những
việc làm và hành động cụ thể với một tình yêu đất nước thiết tha, sâu sắc, với "
một trái tim ấm nóng và cái đầu tỉnh táo."
---------- Hết ----------
13
- Xem thêm -