Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng v...

Tài liệu Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng việt trong chương trình ngữ văn 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy – học

.PDF
25
22
124

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những thế hệ con người có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, của dân tộc và phát huy tính tích cực của cá nhân trong việc làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ luật, có sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để đạt được nhiệm vụ đặt ra thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất. Với nhà trường phổ thông, ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức, phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học. Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ môn. Đối với môn ngữ văn, đây là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS, góp phần hình thành con người có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như : lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu cái ác; đồng thời, giúp các em bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học; có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn tiếng Việt nói riêng còn cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp giúp cho học sinh nói đúng, viết đúng, tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt. Mặt khác dạy tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và và yêu tiếng mẹ đẻ. Với phân môn tiếng Việt, nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và liên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi trong việc phân tích văn bản trong phân môn văn và phân môn Tập làm văn. Chương trình ngữ văn 9 dành một thời lượng cho các phần ôn tập, tổng kết, kiểm tra không chỉ ôn tập tổng kết những vấn đề của lớp 9 mà của cả cấp học, ở học kì I. Về tiếng Việt số tiết ôn tập, tổng kết và kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lí có hiệu quả việc ôn tập, tổng kết và cung 1 cấp kiến thức mới là một đòi hỏi khắt khe đối với việc tổ chức dạy - học ngữ văn 9 (cuối bậc THCS, cuối kì II của chương trình thay sách). Qua thực tế giảng dạy cũng như qua việc nghiên cứu các nguồn tài liệu dạy học, tôi mạnh dạn đúc rút đề tài: “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học”. Đây là một vấn đề mà trong quá trình dạy học chúng tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn cả về phía giáo viên và học sinh. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trước hết, nghiên cứu đề tài “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học” là để tìm ra biện pháp phù hợp, nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng trong giờ dạy - học phân môn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Bên cạnh đó, nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, rút ra kết luận về các giải pháp nhằm giúp học sinh tiếp nhận bài học một cách hiệu quả trong tiết ôn tập Tiếng Việt; phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong việc thực hiện các hoạt động học tập để phù hợp với mục tiêu dạy học là đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, giúp học sinh phát huy được những năng lực sẵn có. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt trong việc học tập của học sinh. Bên cạnh đó, mục đích của đề tài còn nhằm để: Hệ thống hóa kiến thức tiếng Việt đã học trong học kì (hoặc học kì II) của các lớp; đồng thời, kết hợp với các bài tập làm văn và các văn bản văn học trong chương trình để rèn luyện các kĩ năng tổng hợp về sử dụng tiếng Việt trong nói và viết; ngoài ra, còn góp phần tạo hứng thú cho HS khi học các tiết ôn tập nói chung và tiết ôn tập tiếng Việt nói riêng trong nhà trường THCS hiện nay. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng chủ yếu mà sáng kiến kinh nghiệm tập trung nghiên cứu là việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong việc giảng dạy tiết ôn tập tiếng Việt ở chương trình Ngữ văn lớp 9. - Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là một số tiết ôn tập tiếng Việt nói chung và tiết ôn tập tiếng Việt 9 nói riêng. 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1. 4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập những thông tin lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt trong dạy học ở Trung học phổ thông, Trung học cơ sở qua tài liệu, những kiến thức về tâm lí dạy học, tài liệu bồi dưỡng giáo dục thường xuyên… 2 1. 4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh thông qua các băng đĩa dạy mẫu. - Phương pháp điều tra Trò chuyện, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về hiệu quả của các phương pháp đổi mới dạy học phân môn tiếng Việt trong dạy học Ngữ văn. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết về ứng dụng các phương pháp dạy học trực quan, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học. Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp, các bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. 3 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề Trong sách Lý luận dạy và học có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học (PPDH) mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó, phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về bản chất của khái niệm PPDH ở một thời kỳ khác nhau. Nghị quyết TƯ 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ "đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học bậc học ", Nghị quyết TƯ 2 khóa VII ( 12-1996) nhận định: “phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính tích cưc, chủ động sáng tạo của người học". Hiện nay, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang nỗ lực đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập, theo tôi định nghĩa sau được xem là phù hợp: "phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên trong chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học". Trong tiến trình một tiết dạy – học, nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau, mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy (cô). Đó là những lí do cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới - Phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học: lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được tham gia hoạt động, đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện... 2.1.1.Phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học tích cực ( PPTC) là phương pháp dạy – học hướng tới hoạt động nhận thức của người học. Tích cực hóa trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú đúng là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập, suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực, độc lập, sáng tạo sẽ phát triển sự tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên (GV), bổ sung các câu hỏi của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề đặt ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích căn kẽ những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn. Tính tích cực học tập đạt được những cấp độ từ thấp đến cao: 4 + Bắt trước, gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy của bạn. + Tìm tòi, độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề; nêu, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề. + Sáng tạo, tìm ra cách giải quyết mới, độc lập, hữu hiệu. 2.1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực -Dạy học tích cực là dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của HS; - Chú trong rèn luyện phương pháp tự học; - Tăng cường học tập cá thể với phối hợp học tập hợp tác; - Kết hợp sự đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh. 2.1.3. Các phương pháp tích cực cần được vận dụngtrong tiết ôn tập tiếng Việt: - Vấn đáp, tìm tòi. - Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. - Dạy học theo nhóm…vv. 2.1.4. Quy trình dạy bài ôn tập nói chung 2.1.4.1. Kiểm tra bài cũ - Yêu cầu học sinh nêu ngắn gọn những điều đã được học ở tiết trước, cho ví dụ minh học hoặc giải các bài tập củng cố, vận dụng kiến thức đã học. - Hoặc GV không kiểm tra bài cũ mà kết hợp kiểm tra kiến thức cũ trong giờ ôn tập. - Trong trường hợp bài ôn tập không có câu hỏi củng cố lí thuyết thì giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại lý thuyết có liên quan và cho ví dụ minh họa. Ví dụ : Tiết 73 nội dung ôn về các phương châm hội thoại, xưng hô trong hội thoại, cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp. Khi kiểm tra bài cũ, giáo viên đưa ra một tình huống về một phương châm hội thoại bất kì và đưa ra câu hỏi: Em cho biết tình huống trên thuộc phương châm hội thoại nào? Em hiểu gì về phương châm hội thoại đó? Sau câu hỏi này, giáo viên dẫn vào bài. Như vậy khi vào bài sẽ tạo cho học sinh hứng thú trong việc lấy các tình huống thuộc các phương châm hội thoại khác. 2.1.4.2. Dạy bài mới - Khi giới thiệu bài, giáo viên nêu yêu cầu của tiết học, chú ý làm nổi bật mối quan hệ giữa nội dung bài ôn tập. - Giáo viên hướng dẫn học sinh ôn tập lí thuyết (theo quy trình trong SGK), sau đó, hướng dẫn các em trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập củng cố lí thuyết bằng các phương pháp sau: + Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập hoặc câu hỏi. + Cho HS đọc thầm rồi trình bày lại yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập. + Giáo viên giải thích thêm cho rõ yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập (nếu cần) + Tổ chức cho học sinh thực hiện làm mẫu một phần của câu hỏi hoặc bài tập để cả lớp nắm được yêu cầu của giờ ôn tập (nếu đó là bài tập khó). Sau đó, giáo 5 viên tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập theo các hình thức: làm việc cá nhân hoặc trao đổi theo cặp, nhóm để trả lời câu hỏi và thực hiện bài tập. Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau như: trao đổi với học sinh, sửa lỗi trực tiếp hoặc tổ chức cho học sinh góp ý cho nhau và tự đánh giá lẫn nhau trong quá trình làm bài. Cuối cùng là sơ kết, tổng kết, ghi bảng nếu cần thiết. 2.1..4.3. Hướng dẫn luyện tập. Đa số các bài ôn tập tiếng Việt đều được thiết kế từng phần lí thuyết đan xen với thực hành. Vì vậy, GV hướng dẫn HS làm bài tập thực hành như cách hướng dẫn luyện tập bài lý thuyết đã nêu ở trên, cần chú ý các dạng bài tập, nếu bài tập lập bảng biểu thì giáo viên chú ý lược đồ cho học sinh và so sánh kiến thức đã học trước đó, rèn kĩ năng thực hành, củng cố, khắc sâu kiến thức của toàn bài ôn tập. 2.2. Thực trạng của vấn đề 2.2.1. Về phía giáo viên Trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm các thầy cô được tập huấn về phương pháp dạy học, thảo luận ưu - nhược điểm của các phương pháp, được dự các chuyên đề, chủ đề để ngày càng đáp ứng tốt hơn mục tiêu của việc đổi mới, thực hiện đổi mới có hiệu quả hơn. Trong giảng dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học, nhường việc chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức cho người học. Học sinh được bày tỏ ý kiến, tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn, được trao đổi thảo luận nhiều hơn. Ở các trường THCS đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt có áp dụng một số phương tiện dạy học hiện đại như dạy học bằng công nghệ thông tin. Vì vậy, đã phát huy được tính tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp dạy theo phương pháp thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp. Đứng trước một tiết ôn tập, giáo viên dạy Ngữ văn thường hay mắc phải sai sót về thời gian cho tiết học tức là chưa xác định được thời gian dành cho lý thuyết và vận dụng cho học sinh thực hành là bao nhiêu. Trong khi đó, thời gian thì hạn hẹp, kết quả là học sinh chỉ học một cách thụ động, và như vậy là việc dạy học đã đi ngược với phương pháp đổi mới hiện nay. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp mới vào bài dạy. Đối với tiết ôn tập, nhiều giáo viên chưa áp dụng được nhiều phương pháp dạy học có sáng tạo, linh hoạt, kích thích để các em phát triển tư duy và ngôn ngữ, trau dồi vốn tiếng Việt. Sở dĩ, việc dạy tiết ôn tập thế nào cho tốt chưa được nhiều giáo viên dạy ngữ văn quan tâm bởi lẽ, tiết ôn tập là tiết dạy khó, cần phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cho việc soạn giảng. Khi dạy tiết này, giáo viên phải nắm 6 vững kiến thức và truyền đạt một cách có hệ thống, mang tính khái quát cao. Đồng thời, trong các tiết học ôn tập, không khí học tập của học sinh thường kém sôi nổi hơn so với các giờ học kiến thức mới. Vì vậy, đa số giáo viên rất ngại đăng kí thao giảng, dự giờ vào những tiết ôn tập chương hay tổng kết ôn tập cuối kì. Khi tổ chức dạy học, thường thì giáo viên hay cho học sinh ôn và hệ thống hết toàn bộ lý thuyết có trong SGK rồi mới cho học sinh làm bài tập ôn luyện, thực hành. Việc tách rời giữa lý thuyết và thực hành như vậy thường khiến cho các giờ học sa đà vào việc ôn tập, củng cố lý thuyết nhiều hơn là làm bài tập thực hành. Điều này dẫn tới việc học sinh thụ động nắm bài, không tích cực trong giờ ôn luyện và kết quả là nhiều học sinh hiểu và nắm kiến thức theo kiểu học vẹt, không sâu. 2.2.2. Về phía học sinh Một số yếu tố nữa ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy học của một tiết ôn tập, tổng kết là về phía học sinh. Trừ một số ít học sinh khá, giỏi có ý thức học tập tương đối tốt thì phần lớn học sinh còn lười học, chuẩn bị bài qua loa, hình thức, gây trở ngại lớn tới việc ôn tập. Nhiều học sinh vẫn quen lối học thụ động.Vì vậy, các em không thể tích cực chủ động tham gia vào giờ học dẫn tới kết quả học tập trên lớp chưa cao. 2.2.3. Về yêu cầu của việc đổi mới phương pháp và thời lượng chương trình của sách giáo khoa: Từ thực tế trên, trong mấy năm gần đây thực hiện chương trình sách giáo khoa hiện hành, tôi nhận thấy, chương trình SGK có nhiều cải tiến theo hướng tích cực. Phương pháp giảng dạy: Thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, trò chủ động tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức đã tạo cho giáo viên và học sinh làm việc trong giờ học nhịp nhàng và cởi mở hơn. Đối với các môn học khác nói chung và môn ngữ văn nói riêng , tất cả đều được giảng dạy theo quan điểm tích hợp và tích cực. Bộ môn ngữ văn không tách rời giữa phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn. Điều đó đã tạo cho chúng có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Học tốt phần tiếng Việt không chỉ giúp học sinh có khả năng sử dụng tốt tiếng Việt trong giao tiếp và tạo lập văn bản mà còn giúp học sinh tìm hiểu để thấy cái hay, cái đẹp trong cảm thụ văn chương. Ngược lại, học tốt phần văn học cũng giúp học sinh có thêm kiến thức, kĩ năng để học tốt phần tiếng Việt. Vì vậy, các giờ học tiềng việt, đặc biệt là các tiết ôn tập, tổng kết tiếng Việt nên chú trọng rèn luyện cho học sinh khả năng thực hành, hiểu và vận dụng tốt những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Cấu trúc SGK mới không tách rời phần lý thuyết và phần thực hành. Phần lớn các tiết ôn tập và tổng kết được trình bày bằng một hệ thống các bài tập nhằm giúp học sinh nhận diện, luyện tập, củng cố, nâng cao hơn những kiến 7 thức đã học. Đó cũng là điều kiện thuận lợi hơn cho giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập. Giáo viên hướng dẫn học sinh chú trọng vào việc rèn kĩ năng luyện tập và thực hành. Tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học được nâng cao hơn. Với lượng kiến thức được sắp xếp như vậy, học sinh sẽ đầu tư hơn vào công việc chuẩn bị bài ở nhà. Bởi vì, học sinh phải ôn kĩ lí thuyết trước thì mới có khả năng làm bài tập trên lớp được. Điều này khiến cho giờ học đạt kết quả cao hơn so với khi chưa đổi mới chương trình SGK. Trong hệ thống chương trình tiếng Việt các lớp 6,7,8,9 tiết ôn tập chiếm một vị trí không nhỏ. Theo chúng tôi, đây là những tiết học vô cùng quan trọng. Ôn tập tiếng Việt tức là giúp học sinh hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học trong một học kì, cả năm học hay cả cấp học. Như vậy, có thể coi giờ học ôn tập là một giờ củng cố, khắc sâu kiến thức tiếng Việt lần thứ hai. Thông qua đó, học sinh tự đánh giá kiến thức của mình và đáp ứng tốt yêu cầu của việc kiểm tra và thi cử. Về cấu trúc chương trình, thời lượng giành cho tiết ôn tập, tổng kết được bố trí một cách hợp lí, có hệ thống nhằm tạo điều kiện cho học sinh nắm được bài theo trình tự trong hệ thống ấy. Cụ thể: ở lớp 6 có hai tiết ôn tập tiếng Việt ở cuối chương trình, lớp 7 và lớp 8 đều có 3 tiết ôn tập. Nhưng tới lớp 9, tổng số tiết ôn tập tiếng Việt là 11 tiết. Điều này cho thấy, việc tăng dần thời thời lượng ôn tập ở các lớp 6, 7, 8 và tăng vọt ở lớp 9 là một sự thay đổi lớn của chương trình SGK hiện hành. Tất cả đều nhằm giúp cho học sinh có thể thực hiện tốt việc củng cố, hệ thống hóa kiến thức trong chương trình đã học, nhất là đối với học sinh lớp 9 chuẩn bị cho các em nắm vững kiến thức để học tiếp chương trình tiếng Việt ở Trung học Phổ thông. 2.3. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả một giờ dạy – học ôn tập tiếng Việt. 2.3.1. Việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh * Đối với học sinh - Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng tiết ôn tập ngay từ đầu năm học vì kiến thức ôn tập là một hệ thống. chúng tôi cho học sinh lập cuốn "Sổ tay Tiếng Việt", tạo cho các em một thói quen ghi lại những kiến thức cơ bản sau mỗi giờ học tiếng Việt. Đến giờ học, với những câu hỏi dạng lý thuyết như: nêu khái niệm, so sánh, đối chiếu..., các em có thể làm ngay được. Ví dụ: Nêu khái niệm của một số biện pháp tư từ từ vựng: điệp ngữ , chơi chữ, ẩn dụ hoán dụ, nhân hóa, so sánh... - Để chuẩn bị tốt cho tiết học ôn tập, giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước ở nhà thật kĩ càng. Đây là công việc quan trọng bởi nó phản ánh kết quả học tập của cô và trò trong giờ dạy - học ôn tập. Ở nhà, các em cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo, hệ thống hóa toàn bộ kiến thức, toàn bộ chương trình đã học. 8 Với học sinh trung bình, yếu, kém giáo viên có thể giới hạn kiến thức vừa sức. Chỉ yêu cầucác em nêu được khái niệm và cho ví dụ minh họa. Còn đối với học sinh khá giỏi thì cần yêu cầu các em chuẩn bị được đầy đủ kiến thức cơ bản và nâng cao dưới nhiều hình thức như: chuẩn bị trước đoạn văn mẫu có sử dụng kiến thức đã học một cách chuẩn xác, lập được bản đồ tư duy để khái quát các kiến thức đã học. * Đối với giáo viên Dạy một tiết ôn tập, chúng ta không sa vào lý thuyết, mục đích là tổ chức cho học sinh thực hành ứng dụng để mang lại hiệu quả thiết thực, luôn gắn với văn bản, làm cho các kiến thức tiếng việt trở thành công cụ để giúp cho việc đọc hiểu và tạo lập văn bản theo tinh thần tích hợp, ưu tiên cho bài tập rèn luyện kĩ năng. Từ yêu cầu trên, trong khâu chuẩn bị cho một giờ ôn tập tiếng Việt, giáo viên cần thực hiện theo các bước sau: * Lựa chọn hệ thống bài tập: Việc lựa chọn hệ thống bài tập phải đủ để thực hiện các yêu cầu: củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy... dưới nhiều hình thức (trắc nghiệm, điền vào dấu..., bài tập nhận biết, bài tập sáng tạo...), nhằm củng cố kiến thức đã học cho học sinh, nâng cao phương pháp, rèn kĩ năng nói - viết; bồi dưỡng các năng lực khác như: xây dựng đoạn văn, bài văn, nói hay, viết thạo...; huy động sự lựa chọn chính xác, tìm được phương án tối ưu, phát huy khả năng suy nghĩ độc lập, khả năng sáng tạo của học sinh. * Xây dựng nhóm bài tập cho các mức độ khác nhau của từng đơn vị kiến thức, bài học dựa trên cơ sở những bài tập đã có trong SGK, sách bài tập để vừa dẫn dắt học sinh, vừa rà soát, củng cố lại kiến thức, rèn luyện kĩ năng... nhóm bài tập này được GV thể hiện qua bảng phụ, phiếu học tập, sơ đồ, lược đồ. * Giúp học sinh phát hiện, tìm tòi lời giải cho những bài tập đã lựa chọn, chỉ ra được những kiến thức, những kĩ năng, phương pháp giải hệ thống bài tập để tất cả học sinh được chủ động suy nghĩ nhiều hơn, được hoạt động nhiều hơn, đặc biệt là học sinh phát huy được năng lực sáng tạo trong giờ học. * Rút ra những mục đích của từng dạng bài tập, định hướng cho học sinh xâu chuỗi các kiến thức đã học, tập luyện được các kĩ năng cần thiết... Thực hiện các bước như vậy, GV đã thiết kế được một hệ thống bài tập nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, có kĩ năng giải các bài tập tiếng Việt, tự khám phá, tự trình bày theo cách hiểu đúng của mình. Trong giờ ôn tập tiếng Việt, dựa vào những yêu cầu trên, giáo viên đã định hướng được kiến thức theo từng mảng, từng phần trong giờ ôn tập. Phân môn tiếng Việt ở các khối lớp 6,7,8 đã được tiến hành ôn tập theo trình tự của tiết học là đi từ hệ thống bài tập như lập bảng biểu, lược đồ đến củng cố lí thuyết cho từng phần. Hệ thống bài tập được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp, từ bài tập củng cố đến bài tập rèn luyện kĩ năng, phát triển óc tư duy sáng tạo của học sinh. Đối với tiết ôn tập tiếng Việt của lớp 9, giáo viên cũng nên dùng lược đồ, 9 bảng so sánh nhưng hình thức ôn tập phong phú hơn. Vì lớp 9 là lớp cuối cùng của cấp học, thời lượng kiến thức tăng, hệ thống bài tập cũng đa dạng, phong phú, có nhiều câu hỏi, bài tập phải vận dụng kiến thức kĩ năng cả ba phân môn (văn - tiếng Việt - tập làm văn) ở mức độ cao hơn. Điều đó, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ nhiều hơn. - Muốn dạy tốt một tiết ôn tập tiếng Việt, giáo viên cần chú trọng thật sâu vào các bài giảng lý thuyết. Nghiên cứu SGK là yêu cầu chung cho việc soạn bài lên lớp, đối với môn tiếng Việt cần phải nhấn mạnh hơn điều này vì SGK hiện nay có nhiều điểm mới. Ví dụ: + Khai thác kiến thức từ các văn bản đã học; + Tích hợp với các phân môn văn - tập làm văn; + Nhiều kiến thức mới được đưa vào (các phương châm hội thoại ...). - Xác định mục tiêu tiết học là khâu quan trọng đối với giáo viên khi soạn bài và đứng lớp. Đối với tiết ôn tập, mục tiêu chủ yếu là hệ thống, khắc sâu, củng cố kiến thức đã học. Thông qua đó, học sinh vận dụng một cách linh hoạt để giải các bài tập. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống câu hỏi cần phải lô gíc, hợp lí, phù hợp với nhận thức của học sinh. Câu hỏi mang tính hệ thống, khái quát song cũng cần có câu hỏi phản đề, so sánh, suy luận để kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Ví dụ: Trong tiết 138 Ôn tập tiếng Việt 9, giáo viên có thể đặt câu hỏi để học sinh phát hiện ra tác dụng của các thành phần biệt lập trong câu bằng cách đưa ra các ngữ liệu có chứa thành phần biệt lập, yêu cầu HS phát hiện và đặt câu hỏi: Nếu lược bỏ các thành phần biệt lập trong những ngữ liệu trên, ý nghĩa của câu có thay đổi gì không? (Để HS nhận thức cụ thể vấn đề, giáo viên có thể cho một em đọc lại các ngữ liệu khi lược bỏ thành phần biệt lập để dễ dàng so sánh). - Ngoài ra, giáo viên còn cần phải xây dựng một hệ thống câu hỏi tối ưu có tính khoa học, tính sư phạm và có tính tư tưởng, dạng câu hỏi này có thể khai thác ngay trong văn bản các em đã học hoặc thông qua các bài viết tập làm văn của học sinh để qua đó, khắc sâu kiến thức. Mục đích của các tiết ôn tập không chỉ dừng lại ở việc hệ thống khái niệm mà phải đạt đến việc rèn luyện kĩ năng. Muốn hình thành kĩ năng, phải coi trọng việc luyện tập và dành nhiều thời gian cho luyện tập. Bài tập tối ưu chính là các bài tập tích hợp được với các phân môn văn và tập làm văn. Ví dụ : Cũng trong bài Ôn tập tiết 138-139, giáo viên có thể đưa ra những bài tập luyện để củng cố lí thuyết như: - Chỉ ra thành phần biệt lập được sử dụng trong khổ thơ đầu của bài thơ “Sang thu” (Hữu Thỉnh), nêu tác dụng của thành phần biệt lập ấy? - Viết đoạn văn theo lối diễn dịch nêu cảm nhận của em về khổ thơ thứ nhất (hoặc khổ thứ hai) của bài “Sang thu” ( Hữu Thỉnh), trong đó có sử dụng thành phần khởi ngữ và một thành phần biệt lập. 10 - Viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật Bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, trong đó có sử dụng khởi ngữ... 2.3.2. Các phương pháp tiến hành trên lớp để tạo một giờ học hiệu quả. 2.3.2.1. Sử dụng đồ dùng , phương tiện dạy học Để giờ ôn tập dạt hiệu quả cao giáo viên cần chú trọng tới việc đầu tư làm và sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học. Các đồ dùng dạy học cần thiết là: * Bảng phụ: Đối với phân môn tiếng Việt, có lẽ đồ dùng không thể thiếu đó là bảng phụ, nó giúp cho học sinh nhận diện kiến thức thông qua các bài tập đã được ghi trên đó. Ở một số tiết, bảng phụ còn được dùng để ghi những sơ đồ ôn tập còn thiếu, khuyết nội dung. Giáo viên có thể gọi học sinh lên điền những nội dung còn thiếu khuyết vào bảng phụ rồi thông qua sơ đồ có thể hệ thống lại kiến thức một cách rõ ràng cho học sinh dễ nắm bài hơn. Tuy nhiên khi sử dụng bảng phụ cần chú ý đến yêu cầu: rõ ràng, khoa học,và mang tích thẩm mĩ cao. Ví dụ: Tổ chức dạy - học tiết 137- 138 ôn tập tiếng Việt ( lớp 9) Khi triển khai nội dung 1: Khởi ngữ và các thành phần biệt lập, Giáo viên treo bảng phụ có ghi các thông tin: Khởi Thành phần biệt lập Tình thái Cảm thán Gọi- đáp Phụ chú ngữ Sau đó, yêu cầu học sinh đọc nội dung bài tập 1 của SGK và Cho biết những từ ngữ in đậm là thành phần gì của câu? Học sinh ghi kết quả phân tích vào bảng. Giáo viên gọi 4 học sinh lên bảng làm 4 phần của bài tập 1. Từ bảng phụ này, GV có thể hỏi học sinh về kiến thức phần lí thuyết. ? Vì sao những từ bạn vừa điền là thành phần tình thái? Cho biết thành phần tình thái là gì? Với những câu hỏi như vậy, GV giúp học sinh củng cố lại khái niệm về các thành phần biệt lập và yêu cầu học sinh lấy ví dụ minh họa. * Phiếu học tập: Ngoài việc sử dụng bảng phụ, trong giờ Ôn tập tiếng Việt cũng rất cần đến các Phiếu học tập. Giáo viên đưa ra các câu hỏi quan trọng và các bài tập củng cố vào các phiếu bài tập phát cho HS làm trực tiếp vào đó. Sau đó, giáo viên sẽ thu lại để xem, chấm điểm và đánh giá khả năng của từng em. Cách sử dụng phiếu học tập có ưu điểm rất lớn là giúp cho tất cả HS có thể thực hành làm bài tập trong giờ học mà không mất nhiều thời gian, giáo viên có thể đánh giá toàn diện được khả năng nắm bắt kiến thức của HS đến đâu. Ví dụ: Đối với bài Tổng kết về từ vựng, giáo viên có thể tạo một phiếu học tập với những bài tập ôn lại kiến thức về từ đồng nghĩa như sau: Bài 1. Chọn cách hiểu đúng trong cách hiểu sau: A. Đồng nghĩa là hiện tượng chỉ có trong một số ngôn ngữ trên thế giới. 11 B. Đồng nghĩa bao giờ cũng là quan hệ giữa nghĩa hai từ, không có quan hệ giữa ba hoặc hơn ba từ. C. Các từ đồng nghĩa với nhau bao giờ cũng có nghĩa hoàn toàn giống nhau. D. Các từ đồng nghĩa với nhau có thể không thay thế cho nhau được trong nhiều trường hợp sử dụng. (HS trả lời bằng cách khoanh tròn vào đáp án đúng.) Bài 2. Đọc câu sau: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp.” ( Hồ Chí Minh – Di chúc) Cho biết, dựa trên cơ sở nào, từ “xuân” có thể thay thế cho từ tuổi? Việc thay từ trong câu trên có tác dụng diễn đạt như thế nào? (HS trả lời bằng cách viết ý kiến vào phiếu học tập.) * Giáo án điện tử. Một phương tiện nữa không thể thiếu trong giờ Ôn tập tiếng Việt là giáo án điện tử. Sử dụng giáo án điện tử trong giờ Ôn tập tiếng Việt mang lại hiệu quả rất lớn như: tiết kiệm thời gian, giúp học sinh theo dõi và hệ thống kiến thức, bài học một cách rõ ràng, sinh động. Trên giáo án điện tử, giáo viên có thể lập các bảng, biểu giống như trên bảng phụ để đưa ra đáp án chính xác cho học sinh. Nhờ đó, các em tiện theo dõi và nắm bắt kiến thức một cách dễ dàng hơn. Ví dụ dưới đây là hình ảnh một trang giáo án điện tử được sử dụng khi dạy bài Ôn tập tiếng Việt tiết 138, phần ôn tập lí thuyết Khởi ngữ bằng các câu hỏi trắc nghiệm. I. KHỞI NGỮ 1. Lý thuyết * Khởi ngữ là gì? A. Là thành phần đứng trước chủ ngữ B. Là thành phần dùng để nêu lên đề tài được nói đến trong câu. C. Là thành phần nêu lên đối tượng được nói đến ở vị ngữ. D. Là thành phần đứng trước chủ ngữ nêu lên đề tài được nói đến trong câu. Và dưới đây là một trang giáo án điện tử được sử dụng khi dạy bài ôn tập về các phương châm hội thoại, giáo viên đã chiếu đoạn văn bản ngữ liệu lên trang giáo án điện tử để giúp học sinh dễ dàng theo dõi, quan sát, làm tăng tính trực quan, sinh động cho bài giảng. 12 Kết hợp với các bảng biểu, trên giáo án điện tử, giáo viên cũng có thể sử dụng các Bản đồ tư duy để khái quát, tổng hợp các vấn đề lí thuyết mà các em đã được học và ôn tập giúp cho giờ học sinh động, học sinh dễ nhớ và dễ hiểu hơn rất nhiều. Ví dụ: Xây dựng bản đồ tư duy để khái quát nội dung bài học trong bài Ôn tập tiếng Việt (tiết 138-139), giúp cho học sinh có cái nhìn toàn diện, nhớ lại kiến thức và nội dung bài học tiếng Việt trong chương trình học kì II. Dưới đây là một bản đồ tư duy khái quát lý thuyết phần ôn tập về các phương châm hội thoại: 13 2.3.2.2. Phương pháp dạy bài ôn tập tiếng Việt đi từ hệ thống bài tập để củng cố lí thuyết. Từ trước tới nay, dạy bài ôn tập tiếng Việt thường có hai cách: cách 1, đi từ lí thuyết đến giải hệ thống bài tập; cách 2, đi từ hệ thống bài tập đến củng cố lí thuyết. Vì vậy, nhiều giáo viên thường dạy bài ôn tập theo quy trình SGK ( tức là đi từ lí thuyết đến bài tập củng cố). Qua nghiên cứu nội dung bài ôn tập, chúng tôi nhận thấy, việc thực hiện phương pháp dạy bài ôn tập cho học sinh đi từ hệ thống bài tập để củng cố kiến thức lí thuyết là hợp lí hơn và thu được kết quả cao hơn. Nhưng tiến hành dạy bài này như thế nào, phương pháp cụ thể ra sao còn tùy thuộc vào khả năng của từng người. Mục đích cuối cùng mà giáo viên phải đạt được trong tiết ôn tập là: củng cố khắc sâu kiến thức bài học cũ, chuẩn bị tâm thế cho học sinh làm bài kiểm tra và thi học kì đạt kết quả. Từ thực tế dạy các tiết ôn tập tiếng Việt của các khối lớp trong những năm qua, tôi đã đúc rút được một vài kinh nghiệm cho giờ dạy như sau: Theo tôi, để dạy tốt một bài ôn tập tiếng Việt theo phương pháp dạy học tích cực thì GV phải xác định được mục tiêu, yêu cầu cơ bản của bài dạy là gì ? (giúp HS hệ thống hóa một số nội dung kiến thức đã học, rèn cho các em các kĩ năng tổng hợp về sử dụng tiếng Việt trong nói, viết, tích hợp các kiến thức của cả ba phân môn văn - tiếng Việt- tập làm văn). Để đạt được những mục tiêu trên GV cần hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị bài cho tiết học cụ thể: Ví dụ: Bài ôn tập tiếng Việt - bài 15- tiết 73 - lớp 9 kỳ I 14 Đối với bài này GV phải có một hệ thống câu hỏi, bài tập để hướng dẫn cho học sinh và các bảng, lược đồ, bảng phụ...( tức là GV phải chuẩn bị tốt các đồ dùng dạy học). Bên cạnh đó, giáo viên yêu cầu học sinh ôn lại kiến thức đã học đã học, nghiên cứu kĩ hệ thống câu hỏi, bài tập trong SGK, đọc kĩ các văn bản liên quan đến bài tập ôn tập. + Cách tổ chức giờ dạy - học Giáo viên cần xác định hình thức ôn tập: đi từ hệ thống bài tập rút ra lí thuyết đã học từ đó tiếp tục hướng dẫn cho học sinh vận dụng củng cố kiến thức vừa ôn tập. * Bước 1: Giúp học sinh có cái nhìn tổng quát chương trình tiếng Việt ở học kì I. Giáo viên gợi dẫn: Chương trình tiếng Việt ở học kì I đã trang bị cho em những đơn vị kiến thức nào? Yêu cầu học sinh trả lời được: 1. Các phương châm hội thoại. 2. Xưng hô trong hội thoại. 3. Cách dẫn trực tiếp cách dẫn gián tiếp. 4. Thuật ngữ. 5. Sự phát triển của từ vựng. 6. Trau rồi vốn từ. 7. Tổng kết từ vựng. 8. Phương ngữ ( chương trình địa phương ) Tuy nhiên bài ôn tập này chỉ ôn lại những kiến thức và kĩ năng mới được học trong học kì I và chưa được ôn trong bài tổng kết từ vựng. Bước 2: hướng dẫn cho học sinh ôn tập ba nội dung kiến thức cơ bản. Hoạt động1: GV hướng dẫn học sinh ôn các phương châm hội thoại: sử dụng một số tình huống giao tiếp để dẫn vào bài hoặc đưa một số câu ca dao tục ngữ thể hiện các phương châm hội thoại để học sinh phát hiện nhập tâm nội dung bài ôn tập, sau đó GV hướng đẫn học sinh làm bài tập 2 (SGK trang 190). Giáo viên gợi dẫn: hãy kể một số tình huống giao tiếp mà trong đó có một hoặc một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân thủ ? Ở tình huống này giáo viên có thể đưa sẵn 2 ví dụ trên máy chiếu như sau : *Ví dụ 1: “Sóng” “ Trong giờ vật lí, thầy giáo hỏi một học sinh đang mải nhìn qua cửa sổ: - Em cho thầy biết sóng là gì ? Học sinh : - Thưa thầy " Sóng "là bài thơ của Xuân Quỳnh ạ !” *Ví dụ 2: Truyện cười Tây Ban Nha " Hết bao lâu" " Một bà già tới phòng bán vé máy bay hỏi: 15 - Xin làm ơn chơ biết từ Pa- ri tới Mê- hi- cô bay hết bao lâu ? nhân viên bán vé máy bay đang bận việc gì đó liền đáp: - Một phút nhé ! - Xin cảm ơn - bà già đáp và đi ra.” * Giáo viên gợi dẫn và yêu cầu học sinh chỉ rõ: + câu chuyện thứ nhất: người nói vi phạm phương châm quan hệ. + câu chuyện thứ hai: người nói vi phạm phương châm về lượng. Từ hai ví dụ trên GV có thể cho học sinh lấy thêm một số ví dụ khác. Sau đó, giáo viên Yêu cầu học sinh thực hiện gợi dẫn: Khi giao tiếp chúng ta cần tuân thủ phương châm hội thoại nào? Yêu cầu học sinh điền vào lược đồ như (SGK trang 190) trên bảng: CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI Từ đó, học sinh rút ra kết luận: Khi giao tiếp cần tuân thủ các phương châm sau: - Nói phải có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng yêu cầu của một cuộc giao tiếp không thừa, không thiếu (phương châm về lượng). - Đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có bằng chứng xác thực (phương châm về chất). - Cần nói đúng về đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề (phương châm quan hệ). - Cần tế nhị và tôn trọng người khác (phương châm lịch sự). Giáo viên cần lưu ý cho học sinh: Để tuân thủ các phương châm hội thoại, người nói phải làm gì? (phải nắm chắc được các đặc điểm của tình huống giao tiếp: mục đích, không gian, thời gian giao tiếp và trạng thái tâm lí, sức khỏe, công việc, vốn hiểu biết, văn hóa của người nghe). Phương châm hội thoại có phải là căn cứ chung bắt buộc trong mọi tình huống giao tiếp không? Vì sao? (phương châm hội thoại là yêu cầu chung trong giao tiếp chứ không phải là những quy định có tính chất bắt buộc trong mọi tình huống. Do đó, có những trường hợp, một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân thủ). 16 - Những trường hợp vi phạm phương châm hội thoại là do: + Người nói vô ý, vụng về,thiếu văn hóa trong giao tiếp. + Phải ưu tiên cho phương châm hội thoại quan trọng hơn. + Người nói muốn hướng người nghe hiểu câu nói theo một hàm ẩn nào đó. Từ gợi dẫn (1) và (2), giáo viên củng cố kiến thức về phương châm hội thoại, rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản khi sử dụng phương châm hội thoại trong giao tiếp phù hợp với tình hình giao tiếp. Sau đó, giáo viên có thể đưa ra một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để củng cố lại kiến thức vừa ôn tập ở phần trên, lấy thêm ví dụ khác để khắc sâu kiến thức và chuyển tiếp sang hoạt động thứ 2. 2.3.2.3. Phương pháp học hợp tác (thảo luận nhóm và tranh luận) Tùy từng bài ôn tập cụ thể và tùy vào yêu cầu của vấn đề học tập, giáo viên có thể phân nhóm, chuẩn bị nội dung câu hỏi cũng như bài tập cho từng nhóm. Các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng, trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên thực hiện một công việc, mỗi thành viên đều được hoạt động tích cực, không ỷ lại vào một người năng động nổi trội hơn. Các thành viên trong nhóm giúp nhau tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả thảo luận của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết quả của nhóm trước lớp, có thể bằng hình thức báo cáo, hình thức báo cáo cũng rất đa dạng: Có thể báo cáo trước giáo viên, có thể báo cáo trước lớp, báo cáo bằng giấy, bảng phụ, bảng chính. Ví dụ: khi dạy tiết 43: Tổng kết từ vựng ( lớp 9) Tiết ôn tập thứ nhất có 4 phần: từ đơn , từ phức - thành ngữ - nghĩa của từ - từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ. Giáo viên có thể chia lớp thành 4 nhóm, mỗi tổ 1 nhóm, mỗi nhóm một phần. Trước hết, yêu cầu học sinh các nhóm làm bài tập rồi từ bài tập, các em rút ra khái niệm chung của mỗi phần. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một bảng phụ nhỏ để học sinh ghi kết quả thảo luận vào đó. Sau thời gian 15 đến 20 phút, các em treo kết quả của nhóm mình lên trên bảng chính. các nhóm khác nhận xét và chữa lỗi cho các nhóm nếu sai. Như vậy, phần ôn tập mất rất ít thời gian, thời gian còn lại giáo viên đưa ra một số bài tập nâng cao để củng cố thêm kiến thức và rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn theo nội dung vừa ôn tập tổng kết. Ví dụ: Khi tổ chức dạy - học tiết 138-139, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh chuẩn bị ở nhà: Nhóm 1: Viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng trong đó có sử dụng thành phần khởi ngữ. 17 Nhóm 2: Viết đoạn văn cảm nhận về nhân vật anh thanh niên trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn thành Long, trong đó có sử dụng thành phần khởi ngữ. Trên lớp, các nhóm cử đại diện lên treo và đọc phần bảng phụ trình bày bài viết đã được làm ở nhà. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Với phương pháp làm việc nhóm, cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nêu suy nghĩ của mình, mỗi em có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Giờ ôn tập trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp cận thụ động từ giáo viên. Phương pháp này giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ hơn vì các em được tham gia trao đổi trình bày vấn đề nêu ra, cảm thấy hào hứng khi thành công chung của tổ, lớp có phần đóng gióp của mình. 2.3.2.4. Phương pháp tổ chức trò chơi Thường thì tiết ôn tập bao giờ kiến thức cũng nặng, giờ học rất trầm, nhưng nếu giáo viên biết cách tổ chức hoạt động dạy cho phù hợp thì vẫn gây được không khí hào hứng như các giờ dạy kiến thức mới. Có thể trong giờ học GV tổ chức chơi các trò chơi, tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm với nhau, đôi khi có cả phần thưởng nho nhỏ để tạo hứng thú cho giờ học. Tuy nhiên, việc áp dụng cũng phải linh hoạt theo từng bài, không nên gượng ép. Ví dụ khi dạy tiết 43: tổng kết từ vựng (lớp 9) *Phần I : Từ đơn và từ phức Bài tập: Trong các từ sau, từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy? ngặt nghèo, nho nhỏ, giam giữ, gật gù, bó buộc, tươi tốt, lạnh lùng, bọt bèo, xa xôi, cỏ cây, đưa đón, nhường nhịn, rơi rụng, mong muốn, lấp lánh. Từ ghép Từ láy -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Với dạng bài tập này, GV có thể chọn hai đội lên chơi trò chơi tiếp sức. bằng cách trong vòng 1 phút đội nào viết được nhiều từ vào bảng đội đó sẽ thắng. *Phần II: Thành ngữ Ở phần bài tập này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức giữa hai dãy bàn tìm các thành ngữ mà em biết rồi ghi lên bảng (trong vòng 3 phút đội nào tìm được nhiều thành ngữ đội đó sẽ thắng). Hoặc với trò chơi như vậy, khi ôn tập về Phương châm lịch sự ở tiết 73, giáo viên có thể yêu cầu HS như sau: Trong kho tàng tục ngữ ca dao việt nam có nhiều câu nêu lên những lời khuyên, những kinh nghiệm hay, sâu sắc về cách 18 xưng hô, cách ăn nói trong giao tiếp, ứng xử, hãy lấy một vài câu ca dao, tục ngữ nói về nội dung đó? Khi dạy tiết 139: GV có thể chia lớp làm hai nhóm, yêu cầu học sinh các nhóm thi tìm nghĩa hàm ý của những câu ca dao mà nhóm kia đưa ra. Nhóm nào đưa ra được nhiều câu ca dao có hàm nghĩa hay và giải đúng hàm nghĩa của nhiều câu ca dao của đội bạn thì sẽ thắng. Học sinh có thể lấy một số câu ca dao như: - “Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?” - “Bao giờ chạch đẻ ngọn đa Sao đẻ dưới nước thì ta lấy mình…” Những trò chơi này vừa giúp học sinh củng cố thêm kiến thức lí thuyết trong tiết ôn tập vừa giúp các em học tập được những lời hay ý đẹp từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao đó. 2.4. Hiệu quả quả của sáng kiến kinh nghiệm Với những phương pháp như vậy khi áp dụng vào bài giảng chúng tôi đã thu được những kết quả sau: - Học sinh biết hệ thống toàn bộ kiến thức đã học. -Học sinh phát triển ngôn ngữ khả năng tư duy, trau dồi vốn từ vựng, làm việc độc lập. - Qua việc sử dụng đồ dùng dạy học và áp dụng hình thức tổ chức trò chơi đã phát huy được hiệu quả của giờ học, kích thích tinh thần học tập của học sinh. - Áp dụng dụng được nhiều dạng bài tập cho học sinh trong tiết học. - Chú ý luyện được kỹ năng cho nhiều đối tượng học sinh trong lớp. - Học sinh không còn uể oải, chán nản như trong các giờ học ôn tập trước kia. Nhiều học sinh, kể cả học sinh lười phát biểu, học sinh nhận thức yếu cũng đã mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Giờ học đã thể hiện được tinh thần tự giác, tích cực tham gia vào các hoạt động học trên lớp của học sinh, đặc biệt là ở lớp học có nhiều đối tượng học sinh yếu, kém như ở lớp 9E. Đây chính là cái đích mà quá trình dạy – học cần hướng tới. + Chất lượng học tập Kết quả cụ thể qua bài khảo sát sau tiết học Ôn tập Tiếng Việt ( Tiết 138) của học sinh lớp 9I trong năm học 2017 - 2018 như sau: GIỎI KHÁ TB YẾU, KÉM Kết quả khảo sát Sĩ số SL TL SL TL SL TL SL TL Kết quả khảo sát bài kiểm tra 55 16 (%) 20,1 31 (%) 56,4 8 (%) 14,5 0 (%) 0 19 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Việc tìm tòi, nghiên cứu để đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học tiếng Việt - một phân môn khó trong chương trình Ngữ văn sẽ giúp học sinh học tập tích cực hơn. Đó chính là một trong những cách làm thiết thực để triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Vận dụng hợp lí các phương pháp tích cực trong dạy học giờ Ôn tập tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 9 sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập khoa học, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức và vận dụng kiến thức đó trong các bài làm tập làm văn, phục vụ đắc lực cho việc ôn thi cuối năm và thi đầu vào lớp 10 THPT. 2. Đề xuất và kiến nghị * Về phía học sinh: +Phải tích cực soạn bài ở nhà theo sự hướng dẫn của Giáo viên. +Phải chủ động, nghiêm túc trong các hoạt động học. * Về phía nhà trường và Tổ bộ môn: +Nên khuyến khích Giáo viên và học sinh suy nghĩ, thảo luận về các phương pháp dạy học tích cực hơn nữa để đổi mới giờ học ôn tập tiếng Việt cho học sinh nói chung, học sinh lớp 9 nói riêng. +Chọn những ý tưởng hay, hợp lý nhân rộng trong tổ bộ môn. Tôi đã vận dụng đề tài này vào quá trình giảng dạy trong thời gian qua và thấy được kết quả khả quan của nó. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong có được sự giúp đỡ, xây dựng của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện hơn nữa, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy – học môn ngữ văn trong nhà trường THCS. Tôi xin trân trọng cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 06 tháng 4 năm 2018 Tôi xin cam đoan không sao chép 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan