ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỖ THỊ LAN
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CHO THANH
NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2004
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỖ THỊ LAN
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG CHO THANH
NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành
: CNDVBC - CNDVLS
Mã số
: 5.01.02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN PHÚC THĂNG
HÀ NỘI - 2004
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác vận động thanh niên,
coi đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược.
Tầm quan trọng của công tác thanh niên còn được xác định bởi những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị Trung ương IV khóa VII đồng chí Bí thư
Đỗ Mười đã nói: "Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước
vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách
mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không,
phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên" 10, tr.82 .
Thanh niên nước ta hôm nay được thừa hưởng một di sản cách mạng quý
giá, họ lớn lên trong một đất nước độc lập, tự do hoàn toàn không bị ảnh hưởng
của nền giáo dục nô dịch như những thế hệ trước. Lớp trẻ bước sang thế kỷ 21
này là những người rất nhạy bén, đồng tình, hưởng ứng sự đổi mới của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với chính sách mở rộng quan
hệ quốc tế đã tạo ra một bước ngoặt cơ bản đưa nền kinh tế xã hội nước ta
thoát khỏi khủng hoảng, từng bước ổn định và phát triển. Điều đó đã tạo điều
kiện cho thanh niên có thể phát huy những mặt tích cực của mình, đóng góp
vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
quốc tế như hiện nay, thanh niên đang đứng trước những thử thách lớn về
trình độ, nghề nghiệp, về nhận thức xã hội, ý thức dân tộc... Không ít người
đang gặp khó khăn gay gắt về việc làm, học tập và cả thể lực. Một bộ phận
không nhỏ có những lệch lạc trong nhận thức, tiêu cực trong lối sống đạo đức.
1
Yên Bái là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, đời sống kinh
tế, xã hội còn nhiều khó khăn, mặt bằng dân trí chưa cao... Trong công cuộc
đổi mới đất nước hiện nay, lực lượng thanh niên ở đây đã có sự trưởng thành
và phát triển nhiều về học vấn, tầm hiểu biết. Họ đã tích cực hưởng ứng công
cuộc đổi mới của đất nước, mong muốn đem khả năng và nhiệt tình xây dựng
quê hương giàu mạnh. Tuy vậy, một bộ phận thanh niên Yên Bái cũng bộc lộ
những khuyết điểm: tính ích kỷ, vụ lợi, coi thường pháp luật và lẽ phải, tệ nạn
xã hội trong thanh niên, đặc biệt là nạn nghiện hút ma túy còn tồn tại...
Vì vậy, việc xây dựng lối sống mới cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay ở tỉnh Yên Bái là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa cấp bách vì
đây là việc chuẩn bị cho con người làm chủ đất nước trong thế kỷ 21 này.
Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài này, hy vọng góp phần nhỏ bé
vào việc khắc phục những tiêu cực trong thanh niên ở tỉnh Yên Bái, giúp họ
thực hiện tốt vai trò của tuổi trẻ đối với đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh khác
nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau. Một số tác phẩm và tác giả đã bàn về
vấn đề này là:
- Lê Như Hoa, Lối sống thanh niên đô thị hiện nay, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 1993.
- Phạm Xuân Cảnh, Tìm hiểu lối sống của sinh viên Hà Nội trong thời
kỳ đổi mới, Luận văn tốt nghiệp đại học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1996.
- Thái Duy Tiên - Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường - Đề tài KX 07, Hà Nội, 1997.
- Phùng Huy Cẩn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với nhiệm
vụ góp phần chống tệ nạn xã hội và xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên
trong thời kỳ đổi mới, Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997.
2
- Vai trò của văn hóa thẩm mỹ đối với việc xây dựng lối sống cho
thanh niên đô thị hiện nay, Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ văn hóa, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1998.
- Tạ Ngọc Tấn, Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống
tích cực của thanh niên sinh viên hiện nay, Đề tài cấp bộ, Phân viện báo chí
và tuyên truyền, 1998.
- Huỳnh Khái Vinh, Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã
hội để phát triển hoàn thiện con người, Tạp chí Thông tin lý luận, số 3-1999.
- Định hướng giá trị của thanh niên khi nước ta chuyển sang kinh tế
thị trường, Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
Lưu Thu Thủy, Thực trạng tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
học sinh, sinh viên qua kết quả khảo cứu tư liệu, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia
"Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho
học sinh, sinh viên Việt Nam", 12/2000.
- Nguyễn Khắc Hùng - Phạm Hồng Quang, Thực trạng lối sống sinh
viên đại học Thái Nguyên, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 2001.
- Thanh Lê (chủ biên), Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu
hóa, Nxb Khoa học xã hội, 2001.
Các tác phẩm trên tập trung vào những quan điểm chung về lối sống
và lối sống của thanh niên sinh viên Việt Nam nói chung. Vấn đề xây dựng
lối sống cho thanh niên Yên Bái chưa được đề cập đến dưới góc độ của một
luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng lối sống của thanh niên
hiện nay ở tỉnh Yên Bái, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng
lối sống lành mạnh cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Yên Bái.
3
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn phải giải quyết
được những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng ta về lối sống của thanh niên, những nội dung cơ
bản xây dựng lối sống mới cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng lối sống của thanh niên hiện nay ở tỉnh Yên Bái.
- Đưa ra những phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm xây
dựng lối sống mới cho thanh niên Yên Bái trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn chỉ tập trung làm rõ thực trạng lối sống của thanh niên
và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng lối sống mới cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Yên Bái.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn chủ yếu dựa vào quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề
cập trong luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải
vấn đề, kết hợp các phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, đối
chiếu, so sánh thống kê.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ vấn đề lối sống của thanh niên hiện nay dưới tác
động của nền kinh tế thị trường và những giải pháp nhằm xây dựng lối sống
mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở một tỉnh miền núi Yên Bái.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để dạy môn đạo đức học, giáo
dục công dân ở bậc phổ thông trung học, cho công tác đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
4
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề về lối sống và xây dựng lối sống mới cho
thanh niên trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Chương 2: Vấn đề xây dựng lối sống cho thanh niên Yên Bái hiện
nay. Thực trạng và giải pháp.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỐI SỐNG VÀ YÊU CẦU
CỦA VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1.1. Quan điểm mác xít về lối sống và xây dựng lối sống cho
thanh niên
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống
1.1.1.1. Các quan niệm về lối sống
Thuật ngữ lối sống xuất hiện như là kết quả của quá trình cải biến
xã hội nói chung và xây dựng đời sống văn hóa mới nói riêng. Và cùng với
quá trình xây dựng con người mới, lối sống mới được nghiên cứu trên bình
diện khoa học. Cho đến nay, chủ đề lối sống đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta.
Về mặt ngữ nghĩa, trong tiếng Việt, "lối sống" là một danh từ ghép
gồm lối và sống. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là
sinh hoạt, là quá trình hoạt động sống của mỗi con người và xã hội loài
người. Cho đến nay thuật ngữ đó đã được khái quát hóa dưới nhiều cách
thức khác nhau.
Các nhà nghiên cứu phương Tây thường nghiên cứu lối sống theo
quan điểm của chủ nghĩa vị chủng, chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa tương đối.
Chủ nghĩa vị chủng cho rằng: mọi chuẩn giá trị của lối sống phải
được kiểm chứng bằng trình độ độc tôn. Mọi giá trị được hình thành qua
5
nhiều thế kỷ theo chủ nghĩa vị chủng đều được thành lập từ một mô thức
quyền uy và coi mình, coi dân tộc mình là trên hết. Như vậy là đề cao cái
tôi, cái chúng tôi trong lối sống. Đây là quan điểm phiến diện, tuyệt đối hoá
yếu tố chủ quan trong lối sống.
Một biến tướng của chủ nghĩa vị chủng là chủ nghĩa toàn trị. Quan
điểm này cho rằng mọi cá nhân chìm trong cái xã hội toàn vẹn dưới quyền
lãnh đạo của một bộ óc tối cao chuyên ra lệnh. Như vậy quan điểm này là
đề cao lối sống chuyên chế độc quyền. Người lao động không thể được lựa
chọn chuẩn mực giá trị. Kẻ cầm quyền tự đứng trên chuẩn mực nhằm duy
trì sự bóc lột và sự thống trị của giai cấp thống trị.
Quan điểm của chủ nghĩa tương đối cho rằng, các giá trị và chuẩn
mực mà mỗi cá nhân tin tưởng là có độ tin cậy cao nhất. Theo họ, các tập
quán, đặc trưng giá trị đều có mâu thuẫn. Các nhóm xã hội không hề đồng
nhất các chuẩn mực giá trị. Chuẩn mực lối sống ở đây được đánh giá từ thị
hiếu cá nhân thích hay không thích. Ai thích gì thì làm theo cái đó gọi là
giá trị. Ai không thích gì và không làm theo cái đó tức là không có giá trị.
Như vậy lối sống không cần có sự định hướng của xã hội.
Những luận điểm trên về lối sống không có cơ sở lý luận đúng đắn
để định hướng lối sống. Họ xem xét lối sống không dựa trên cơ sở thực tiễn
xã hội. Họ tuyệt đối hoá chuẩn mực do cá nhân lựa chọn và tuyên truyền
cho nhóm thống trị, ủng hộ cho quan điểm khổ hạnh tầm thường.
Trong các thập niên 60 - 80 của thế kỷ XX tại Liên xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu có đến hơn 50 định nghĩa tiêu biểu về lối sống
và có thể quy về 3 khuynh hướng sau:
Khuynh hướng thứ nhất: Thường định nghĩa lối sống bằng cách liệt
kê càng nhiều các tốt tất cả các hoàn cảnh có liên quan tới cuộc sống con
người và toàn xã hội. Ví dụ, G.Glezerman (Liên xô cũ) cho rằng: " Lối
sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên những đặc điểm của các hoạt
động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các nhóm cá nhân
6
trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định" 38, tr.18 . Những định nghĩa
bao quát đó có thể phản ánh được đầy đủ" cái xã hội" của lối sống, nhưng
lối sống là cái xã hôị trong cái cá nhân cho nên tính chủ thể của lối sống
chưa được phản ánh rõ nét trong các định nghĩa thuộc khuynh hướng trên.
Khuynh hướng thứ hai: Có hai cách định nghĩa lối sống.
Cách thứ nhất: Nêu lên lối sống là một phạm trù nói lên các nhu cầu
con người và những cách thức thoả mãn các nhu cầu đó. Đây là cách giải
thích lối sống như một khái niệm chung nhất, một cái gì đó ngang hàng với
vật chất xã hội thay thế cho tất cả các khái niệm khác.
Cách thứ hai: cho rằng lối sống là phạm trù chỉ nếp nghĩ, nếp hành
vi, nếp sống nội tâm của con người.
Theo A.F Buchenco: Cả hai cách trên không dựa vào những hoàn
cảnh bên ngoài mà dựa vào những điều kiện bên trong vốn có của chủ thể
(nếp nghĩ và cách nghĩ). Như vậy người ta sẽ loại trừ hình thức hoạt động
sống quan trọng nhất của con người tức là tính lao động, tách hoạt động
chính trị - xã hội ra khỏi lối sống.
Khuynh hướng thứ ba: cho rằng lối sống gồm các định nghiã không
loại trừ bản thân hoạt động sống ra ngoài lối sống. Lối sống như là sự
thống nhất các hoạt động sống và nhiều điều kiện sống quan trọng. Như
vậy, lối sống là một phạm trù chỉ sự thống nhất hữu cơ của các hình thức
hoạt động sống và điều kiện sống nhất định.
Viện sỹ thông tấn viện hàn lâm khoa học Liên xô (cũ), nhà xã hội
học, tiến sỹ triết học M.N Rut-ke-vich quan niệm: " lối sống là một tổng
thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân
tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của
một hình thái kinh tế xã hội nhất định" 39,tr.27
Có thể nói, theo các quan điểm trên, các nhà nghiên cứu đã khắc
hoạ được đặc điểm cơ bản của lối sống, đã xem xét lối sống như một dạng
7
hoạt động thực tế của con người trong một xã hội nhất định, nhưng họ chưa
phản ánh rõ nét tính chủ thể của lối sống, tính chất xã hội, dân tộc, văn hoá
cũng như vai trò tích cực của chủ thể trong phạm trù lối sống.
Khi giải thích phạm trù lối sống, các nhà triết học mác- xít đã dựa
vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các ông đã xuất phát từ những "tiền đề hiện thực" với những
con người hiện thực, gắn quá trình vận động và phát triển của lối sống với
xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử và coi "tự do của mỗi con người là
điều kiện tự do của tất cả mọi người" trên cơ sở đó, họ quan tâm tìm hiểu
những vấn đề có tính quy luật phát triển của lối sống. Trong tác phẩm "Hệ
tư tưởng Đức" C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa lối sống và phương thức
sản xuất : "Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó, họ
là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra
cũng như với cách họ sản xuất. Do đó , những cá nhân là như thế nào, điều đó
phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ" 2, tr.30 .
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, lối sống được quy
định bởi những mối liên hệ nội tại của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, trong đó tính chất của quan hệ sản xuất là quan trọng nhất. Họ gắn lối
sống với phương thức sản xuất ( là hoạt động thực tiễn của con người) và
nó được xem xét trên bình diện các quan hệ xã hội. Mặt khác, lối sống
không phải là khái niêm phi giai cấp mà hiểu lối sống theo quan điểm giai
cấp, mang tính cụ thể và tính lịch sử. Họ không đồng nhất lối sống với
phương thức sản xuất, phạm vi của lối sống rộng hơn nhiều so với phương
thức sản xuất. Vì con người, ngoài hoạt động sản xuất còn có các hoạt
động xã hội, chính trị, tinh thần… Nhưng vấn đề cơ bản là mỗi phương
thức sản xuất nhất định biểu hiện sự sống của họ, biểu hiện một lối sống
nhất định. Tuy lối sống là phạm trù mang tính nhân loại song ở mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc, có những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau mà lối sống
8
dân tộc có những đặc trưng riêng. Có thể nói : Hình thái kinh tế xã hội gắn
với hoạt động mọi mặt của con người nhưng nó là một hiện thực khách
quan, độc lập với ý thức và tình cảm của con người. Trong khi đó, lối sống
phản ánh hoạt động của chủ thể và bao gồm nhận thức, tình cảm, động cơ,
hành động xã hội (hoặc ứng xử xã hội), khuôn mẫu ứng xử, thể chế xã hội
và toàn bộ mối liên hệ biện chứng giữa chúng cũng như hệ thống vận hành
mối liên hệ đó theo một bảng giá trị xã hội nhất định. Nói cách khác, lối
sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế - xã hội trong nhận thức, tình cảm, thái
độ và động cơ hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của
con người. Nhiều mặt trong lối sống có tính chất độc lập tương đối so với
sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Do đó, có những phương thức sản
xuất đã qua đi trong lịch sử, nhưng nhiều yếu tố của lối sống cũ vẫn được
bảo lưu và phát huy trong phương thức sản xuất mới.
Có thể tiếp cận phạm vi của lối sống thông qua các nội dung sau :
- Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống ổn định của con
người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống
nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Là sự
tổng hoà những tính chất cơ bản nhất của các mối quan hệ giữa vật chất và
tinh thần, cá nhân và xã hội, dân tộc và quốc tế cho nên các đặc điểm của
lối sống được thể hiện qua tất cả các hình thức hoạt động sống của con
người trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đặc trưng
bản chất của lối sống gắn trực tiếp với hệ thống giá trị tinh thần - văn hoá
của con người.
- Lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và toàn bộ
các điều kiện sống của con người. Tuy nhiên sự quy định đó phải thông qua
hoạt động của chủ thể và mang dấu ấn khúc xạ bởi các chủ thể mà các chủ
thể đó là con người hoặc các cộng đồng người với tư cách vừa là sản phẩm
9
của hoàn cảnh vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Do đó, lối sống có tính
độc lập tương đối so với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Nó có thể
gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với phương thức sản xuất và
những điều kiện khác quy định nó.
- Lối sống có tính linh hoạt và cơ động xã hội cao. Mỗi lối sống đều
có đặc trưng riêng về nội dung và hình thức biểu hiện. Có lối sống chung
của một xã hội , một quốc gia, một vùng địa - văn hoá, nhưng cũng có lối
sống riêng của mỗi dân tộc, giai cấp, giâi tầng xã hội, của mỗi gia đình và
mỗi cá nhân. Mỗi lối sống có chung về nội dung nhưng đặc trưng hình thức
của nó thì lại được biểu hiện rất sống động và phong phú.
- Để nắm bắt được đặc trưng, bản chất của lối sống vốn có tính mở
và cơ động xã hội cao, khi xem xét toàn bộ các hình thức hoạt động sống
của con người cần coi trọng đặc biệt hoạt động lao động sản xuất, các giá
trị vật chất và tinh thần bởi lẽ đây là hình thức hoạt động nền tảng để con
người bồi dưỡng tính người và hình thành bản chất của mình.
- Lối sống xã hội nói chung đều mang tính chất văn hoá vì việc thể
hiện thế giới tự nhiên và xã hội thành thế giới của những biểu trưng văn
hoá trong nhận thức, tình cảm và hành động của con người là đặc thù của
xã hội loài người. Khái niệm lối sống sẽ không được tiếp cận triệt để và hệ
thống nếu không tìm hiểu được ý nghĩa các giá trị văn hoá qua các hành
động xã hội, quá trình xã hội, quan hệ xã hội cho đến khuôn mẫu ứng xử và
thể chế xã hội.
Ở Việt Nam, cũng đã có những định nghĩa khác nhau về lối sống.
Theo định nghĩa của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì :
"Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều
kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh
10
vực của đời sống : trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người
với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá" 23, tr.217
Tác giả Thanh Lê trong tạp chí cộng sản số 2 / 1981 định nghĩa : "Nói
một cách đơn giản, lối sống nói rõ con người sống như thế nào, để làm gì,
họ làm những gì, cuộc sống của họ chứa đựng những hành vi nào. Vì thế về
thực chất, lối sống không chỉ bao quát những điều kiện sống mà là toàn bộ
những hình thức hoạt động sống của con người trong quá trình sản xuất của
cả vật chất và tinh thần, cũng như trong lĩnh vực xã hội - chính trị và gia
đình - sinh hoạt" 49, tr.45 .
Quan điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp nhà nước KX06 13 được nêu khái quát trong báo cáo tổng kết chương trình KX 06 ( 1991 1995) như sau: " Lối sống, trong một chừng mực nhất định là cách ứng xử
của những người cụ thể trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi
trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định là điều kiện khách
quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng tới lối sống của con người, của các
nhóm xã hội và cộng đồng dân cư " 46, tr.22 .
Có thể thấy rằng, các định nghĩa về lối sống ở Việt Nam phần lớn
thiên về cách nhìn tổng hợp và các cách tiếp cận triết học, xã hội học, văn
hoá học là các hướng tiếp cận chính trong nghiên cứu lối sống. Theo chúng
tôi có thể thống nhất định nghĩa về lối sống như sau:
Lối sống là khái niệm chỉ toàn bộ phương thức sống của những con
người hiện thực, là những dạng hoạt động xã hội mang tính ổn định, là nếp
cảm, nếp nghĩ, nếp lao động, học tập và sinh hoạt theo một bảng giá trị xã
hội nhất định của con người trong sự thống nhất giữa những đặc điểm cá
nhân với các điều kiện lịch sử của xã hội nói chung trong một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định.
11
Như vậy, lối sống là kết quả của quá trình hoạt động và tổ chức của của
con người trong khi thích ứng và biến đổi hoàn cảnh sống, trong đó con người vừa
là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh sống của chính
mình. Lối sống là tổng thể các hình thức hoạt động của con người, do phương
thức sản xuất hiện có quy định.Lối sống được biểu hiện cụ thể trong lao động,
sinh hoạt, hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội, trong hành vi của con người và là
chỉ tiêu quan trọng nhất của trình độ phát triển xã hội. Mỗi một xã hội có một lối
sống của mình. Xã hội tư sản tạo điều kiện cho lối sống cá nhân, vị kỷ. Xã hội chủ
nghĩa là môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát triển lối sống hữu nghị, hợp tác,
giàu có về cuộc sống vật chất luôn luôn gắn liền với sự phong phú của đời sống
tinh thần. Lối sống xã hội chủ nghĩa xoay quanh cái trục lao động. Mỗi người
hướng tới lao động tự giác, sáng tạo, có kỷ luật, có kỹ thuật và đạt năng suất lao
động
ngày càng cao. Đó chính là cơ sở để mỗi người tự thoả mãn những nhu cầu hợp
lý và lợi ích chính đáng của mình trong cuộc sống.
Để hiểu sâu hơn về lối sống nói chung, lối sống thanh niên nói
riêng, chúng ta đi sâu tìm hiểu cấu trúc của lối sống.
1.1.1.2. Cấu trúc lối sống
Lối sống được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau.
Lẽ sống: chỉ mặt ý thức của lối sống. Lẽ sống có vai trò dẫn dắt,
định hướng và định tính nhằm làm cho lối sống ổn định. Lẽ sống dựa vào
lý tưởng và các giá trị xã hội phản ánh tính chủ thể của lối sống. Xây dựng
lối sống mới có nghĩa là hướng tới một lẽ sống cao đẹp. Người ta thường
nói, lẽ sống mình vì mọi người hay mọi người vì mình. Ở nước ta, trong
hoàn cảnh dân tộc bị áp bức, nô dịch, lẽ sống của nhân dân ta là vì độc lập
tự do của Tổ quốc, đó là lẽ sống XHCN. Vậy lẽ sống là đạo lý, là mục đích
12
sống của con người, nó chi phối sự ứng xử của con người, quy định lối
sống, định hướng lối sống (sống để làm gì? và sống cho ai?).
Mức sống: Mức sống của lối sống được xác định bằng hệ thống
chỉ báo của sinh hoạt vật chất, là phản ánh trình độ con người đạt được
về mặt sản xuất (số lượng đời sống phúc lợi của con người về mặt tiêu
dùng của cải vật chất và tinh thần). Thông thường mức sống phản ánh
trình độ con người đạt được trong hoạt động sản xuất. Mức sống được
nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết và có tính khách quan để cải
thiện lối sống. Tuy nhiên không thể đồng nhất mức sống với lối sống và
lối sống còn chịu sự định hướng và định tính của lẽ sống, định h ướng giá
trị và môi trường sống...
Chất lượng sống: chỉ mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần nhưng không thể đo lường trực tiếp bằng số lượng. Nhìn chung nó là
tổng hợp cả về lượng và chất, mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh
thần theo mọt cách nhìn, một thước đo nào đó. Theo cách hiểu rộng rãi thì
chất lượng sống là thước đo thiên về việc thể hiện mức độ tự do về mặt xã
hội cũng như điều kiện phát triển của cá nhân. Như vậy nếu mức sống đánh
giá các tiêu chí số lượng của lối sống thì chất lượng sống cho biết lối sống
đặt đến trình độ nào, tính chất và phạm vi nào.
Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân. Lối sống mà chúng ta xây dựng là phối hợp
hài hòa giữa chất lượng sống và mức sống, giữa nhu cầu vật chất và tinh
thần, hai yếu tố đó thống nhất và quan hệ biện chứng với nhau.
Phong cách sống: để đánh giá và nhận định thái độ và hành vi ứng
xử hàng ngày của cá nhân và các nhóm xã hội. Nó chính là hình thái biểu
hiện của lối sống trong hoạt động xã hội và sinh hoạt của cá nhân và của
các nhóm xã hội.
13
Nếp sống: Trong cách nói thông thường, thuật ngữ nếp sống nhiều
khi được dùng như lối sống. Tuy nhiên, nếp sống có nội dung hẹp hơn lối
sống. Nếp sống là một bộ phận của lối sống được lặp đi lặp lại thành nền
nếp, thói quen... nghĩa là đã được định hình, định tính, đã được xác lập giá
trị thành một nét văn hóa, được các cá nhân và cộng đồng thừa nhận, làm
theo và được quy định thành điều ước hoặc pháp luật. Nếp sống lâu đời có
thể trở thành phong tục, tập quán. Giáo sư Vũ Khiêu đã định nghĩa: "Nếp
sống là toàn bộ những thói quen được hình thành trong cuộc sống hàng
ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong
mọi quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người. Những
thói quen ấy còn được gọi là tập quán" 46, tr.37 .
Khuôn mẫu ứng xử: Là hành động( ứng xử) hoặc suy tưởng được
lặp lại một cách đều đặn ở đa số người trong cộng đồng xã hội và trong quá
trình vận hành của xã hội. Nó được tổng quát hoá, tiêu chuẩn hoá, và hợp
thức hoá để làm mẫu mực chỉ dẫn trong cộng đồng xã hội đó.
Khuôn mẫu ứng xử gồm 4 tiêu chí:
- Sự lặp đi lặp lại của các ứng xử thông thường.
- Ứng xử được đa số người trong cộng đồng cùng thực hiện thống
nhất trong một cách.
- Chuẩn mực xã hội hay quy tắc ứng xử.
- Ý nghĩa xã hội của ứng xử.
Lối sống cá nhân và lối sống xã hội:
Trong khi nghiên cứu về lối sống, người ta có thể chỉ ra lối sống cá
nhân và lối sống xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và
cái riêng.
14
Lối sống cá nhân khẳng định giá trị cá nhân trong cộng đồng. Nó
vừa phản ánh lối sống của xã hội, vừa khẳng định nét riêng của từng con
người cụ thể.
Lối sống xã hội là sự khẳng định giá trị cơ bản của cộng đồng trong
hoạt động thực tiễn xã hội. Nó vừa phản ánh khuynh hướng sống của xã
hội, vừa phản ánh chất lượng sống của xã hội. Lối sống của xã hội phụ
thuộc vào cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội, gắn liền với sự biến
đổi của các hình thái kinh tế - xã hội và đặc điểm giai cấp, dân tộc, giới
tính, lứa tuổi, nghề nghiệp...
Các yếu tố cấu thành lối sống có quan hệ biện chứng với nhau trong
đó lẽ sống là mặt ý thức của lối sống, dẫn dắt lối sống, quy định lối sống, quy
định đó được lặp đi lặp lại thành lối sống và dần dần trở thành nếp sống.
Nếp sống là mặt "có tính bản năng" của lối sống, làm cho lối sống
ổn định. Mức sống là điều kiện vật chất đầu tiên, là yếu tố tác động trực
tiếp sâu xa tới lối sống...
1.1.1.3. Những yếu tố tác động tới lối sống
Lối sống là khái niệm chỉ phương thức sống của những con người
hiện thực. Vì vậy, nó luôn luôn gắn với những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, môi trường chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức con người. Do đó để xác định được những đặc trưng
cơ bản của quá trình hoàn thành, chuyển đổi và phát triển của lối sống cần
xác định được những điều kiện và môi trường cơ bản của tồn tại xã hội quy
định và tác động đối với lối sống.
* Điều kiện tự nhiên và dân số:
Quan điểm mác xít khẳng định, khi con người là sản phẩm trực tiếp
của giới tự nhiên thì thế giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Giữa
15
con người và giới tự nhiên thường diễn ra sự trao đổi vật chất thông qua
hoạt động lao động, sản xuất của con người.
Các yếu tố địa hình, khí hậu, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, hiện
trạng của môi trường sinh thái là các yếu tố quan trọng của môi trường tự
nhiên. Lối sống của con người chịu sự tác động và thường mang đậm dấu ấn
của môi trường tự nhiên. Điều kiện và môi trường tự nhiên tạo cho mỗi dân
tộc một cách thức riêng tác động vào thế giới tự nhiên, tức là tạo lên cách
thức riêng của hoạt động sống, trước hết và cơ bản là hoạt động lao động và
sản xuất. Trên cơ sở đó, con đường và cách thức nhận thức các quy luật của
giới tự nhiên và sử dụng những quy luật đó cũng mang nhiều đặc điểm riêng.
Bên cạnh đó, cũng như điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số tuy
không giữ vai trò quyết định nhưng cũng là điều kiện tự nhiên - xã hội
quan trọng đối với lối sống. Trên bình diện cá nhân, các đặc điểm về giới
tính, độ tuổi, sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình quy định thường xuyên lối sống
của họ. Trên bình diện xã hội, sự thay đổi mật độ dân cư, sự di dân và di cư
lao động, địa bàn cư trú (nông thôn, thành thị), các cuộc cách mạng kỹ
thuật, cách mạng văn hóa cũng để lại những dấu ấn rõ nét trong lối sống xã
hội.
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái, sự bùng nổ dân số
đang là vấn đề cấp bách đối với toàn cầu và đối với nước ta. Nó cũng đã và
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đối với sự chuyển đổi lối sống ở nước ta.
* Trình độ phát triển kinh tế:
Lối sống có cơ sở kinh tế - xã hội, cơ sở chính trị và tinh thần của
nó. Lối sống gắn chặt với phương thức sản xuất cũng như toàn bộ những
điều kiện sống và quan hệ xã hội của con người đặc biệt là quan hệ giai cấp
khi xã hội đã phân chia thành giai cấp. Cho nên khi nghiên cứu về lối sống
tất nhiên phải cơ bản dựa vào phương thức sản xuất. Theo Các Mác và Ph.
Ăngghen:" Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo
khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể chất của các cá nhân. Mà
16
hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của cá nhân ấy, một
hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh
sống nhất định của họ" 2, tr.31 .
Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố năng
động nhất, cách mạng nhất nghĩa là nó luôn luôn phát triển một cách khách
quan. Khi lực lượng sản xuất phát triển từ trình độ này lên trình độ khác
thì nó kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Từ đó kéo theo sự thay
đổi các quan hệ xã hội khác và các tiêu chí của tiến bộ xã hội làm cho xã
hội phát triển. Lực lượng sản xuất cũng là chỉ số quan trọng nhất để đánh
giá chất lượng sống, nhịp độ và phong cách sống của con người.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, người
lao động cũng có sự thay đổi về cơ cấu, kỹ năng, thói quen và phương pháp
lao động.Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, cách
mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội cho việc xây
dựng lối sống mới. Người lao động đã thực sự làm chủ về tư liệu sản xuất,
quản lý và phân phối sản phẩm lao động. Đây cũng là điều kiện tiên quyết
để xác lập quan hệ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa người với
người. Như vậy cách mạng xã hội chủ nghĩa đã hình thành quan hệ tốt đẹp
giữa người với người và đó cũng là cơ sở của sự hình thành lối sống mới
trong xã hội.
* Hệ thống chính trị - xã hội:
Hệ thống chính trị của xã hội - một chỉnh thể các đảng phái, các
đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại trong khuôn khổ của pháp
luật với một nhà nước thuộc giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá
trình kinh tế - xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội đó. Tính chất của hệ
thống chính trị của xã hội phụ thuộc vào cơ sở kinh tế - xã hội của nó. Hệ
17
thống chính trị trong các xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm cả những tổ
chức chính trị của giai cấp thống trị bóc lột lẫn những tổ chức chính trị hợp
pháp của gia cấp bị áp bức, bị bóc lột. Các giai cấp thống trị bóc lột lẽ dĩ
nhiên luôn tìm mọi cách thủ tiêu các tổ chức chính trị của giai cấp những
người lao động, những người bị bóc lột, hạn chế vai trò hoạt động của các
tổ chức đó, chi phối hoạt động của nhà nước và hệ thống chính trị xã hội.
Hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa phản ánh những thay
đổi cơ bản trong cơ sở kinh tế và cơ cấu xã hội dựa trên cơ sở thống nhất
các lơị ích căn bản giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức. Hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội là một tổng thể các lực
lượng chính trị bao gồm Đảng cộng sản, nhà nước, các tổ chức chính trị,
các đoàn thể mang tính chính tri - xã hội, các tập thể lao động hoạt động
theo một cơ chế phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện
đường lối, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế đó đảm bảo tập
trung mọi quyền lực thuộc về nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong
xã hội ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính
của quyền lực. Bởi vậy hệ thống chính trị của nước ta là cơ chế, là công cụ
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong thời kỳ đổi mới hệ thống chính trị nước ta có những thay đổi
đáng kể : Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, vai trò
lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được
xây dựng và hoàn thiện theo hướng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực. Quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư
tưởng được phát huy. Sự tác động của quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, quá trình phân hoá, phân tầng xã hội đã và đang
18
- Xem thêm -