ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN THI ̣THÚY HÀ
VẤN ĐỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN THỊ THÚY HÀ
VẤN ĐỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số:
60 22 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN LỰC
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ
VÀ VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ.............................. 7
1.1. Văn hóa và văn hóa ứng xử công sở ........................................................ 7
1.1.1. Khái niệm văn hóa ........................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm ứng xử .......................................................................... 18
1.1.3. Khái niệm công sở ......................................................................... 24
1.1.4. Khái niệm văn hóa công sở ............................................................ 26
1.1.5. Khái niệm văn hóa ứng xử công sở ................................................ 29
1.1.6. Nội dung biểu hiện của văn hóa ứng xử công sở ............................ 34
1.2.
Những yếu tố tác động đến văn hóa ứng xử công sở.............................. 46
1.2.1. Tác động của hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh và các quy chế
quy định về ứng xử công sở đối với việc hình thành văn hóa
công sở .......................................................................................... 46
1.2.2. Cơ chế hoạt động: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, Nhân dân
làm chủ .......................................................................................... 49
1.2.3. Sự phản ánh, hiệu lực và tính công bằng của pháp luật .................. 52
1.2.4. Ảnh hưởng của người đứng đầu công sở ........................................ 55
1.2.5. Ảnh hưởng của tham nhũng đối với việc hình thành văn hóa
công sở .......................................................................................... 58
1.3.
Vai trò của văn hóa ứng xử công sở ...................................................... 59
1.3.1. Tạo lập và củng cố vẻ đẹp của văn hóa .......................................... 59
1.3.2. Kích thích công chức hoàn thành nhiệm vụ và gắn bó với cơ
quan (công sở) ............................................................................... 60
1.3.3. Góp phần hoàn thiện nhân cách công chức..................................... 61
1.3.4. Góp phần chủ yếu thể hiện và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân .............. 62
1.3.5. Văn hóa công sở góp phần xây dựng xã hội văn minh .................... 62
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA ỨNG XỬ
CÔNG SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................. 63
2.1. Thực trạng văn hóa ứng xử ở Việt Nam hiện nay .................................. 63
2.1.1. Thực trạng sự tác động của hiến pháp, pháp luật, pháp chế và
quy định hoạt động của công chức đối với công sở ........................ 63
2.1.2. Thực trạng tác động của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lí, Nhân dân làm chủ ...................................................................... 64
2.1.3. Thực trạng môi trường văn hóa công sở ......................................... 65
2.1.4. Thực trạng đời sống văn hóa của công chức ................................... 70
2.1.5. Ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng ......................... 72
2.1.6. Sự gắn bó của công chức trong các công sở ................................... 76
2.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng văn hóa ứng xử ở Việt Nam hiện
nay.......................................................................................................... 80
2.2.1. Xây dựng môi trường văn hóa công
sở.............................................80
2.2.2. Phát huy tính bình đẳng trong ứng xử công sở của mỗi công
chức..83
2.2.3 Nâng cao hiệu lực của cuộc đấu tranh chống tham
nhũng……….....84
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 86
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN VĂN ..................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 90
BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC
:
Cán bộ công chức
CBCCVC
:
Cán bộ công chức, viên chức
CNVCLĐ
:
Công nhân viên chức lao động
TBCN
:
Tư bản chủ nghĩa
VHCS
:
Văn hóa công sở
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
UBND
:
Ủy ban nhân dân
PCTN
:
Phòng chống tham nhũng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ứng xử là phạm trù chỉ phạm vi giao tiếp hay cách thức quan hệ của
con người, của xã hội loài người. Nó vừa là một trong những sản phẩm được
hình thành trong sản xuất và sinh hoạt đồng thời vừa là một trong những yếu
tố tạo thành nền văn hóa tộc người,của dân tộc cũng như của loài người.
Văn hóa được xây đắp từ nhiều yếu tố khác nhau; có những yếu tố vật
chất; có những yếu tố tinh thần. Các yếu tố đó không xa lạ, không cao siêu.
Nó gần gũi với con người trong cuộc sống thường nhật. Hình thành rồi biến
đổi, thay thế rồi bổ sung, tích tụ rồi phá huỷ… để phù hợp với cuộc sống đích
thực của con người, của cộng đồng người; để hình thành nên nền văn hóa.
Ứng xử vừa là sản phẩm, vừa phản ánh sinh hoạt cộng đồng, đồng thời vừa là
kết quả phát triển của nền văn hóa. Ứng xử ban đầu như sự giao tiếp trong gia
đình, trong dòng tộc, tạo nên phong tục tập quán để theo đó hình thành những
quy định chung cho các tổ chức cộng đồng lớn hơn như bộ lạc, bộ tộc, dân
tộc, quốc gia… Có những cộng đồng có cách giao tiếp, quan hệ khác nhau
trong cùng một vấn đề, song, quá trình mở rộng quan hệ, người ta cũng tự
điều chỉnh để có sự thống nhất và từ đó những quy định chung được con
người quan tâm để ngày càng phù hợp hơn. Ứng xử ban đầu như là sự chấp
hành mệnh lệnh hoặc tuân thủ nghiêm minh những quy định đề ra. Trải qua
thời gian, những quy định được tu chỉnh, bổ sung, nó thành thói quen và tạo
nên mối quan hệ thân thuộc giữa các tầng lớp xã hội thành nếp sống văn hóa –
văn hóa ứng xử.
Văn hóa ứng xử được hình thành trực tiếp từ giao tiếp, từ các mối quan
hệ xã hội. Nó không chỉ là kết quả của quá trình phát triển mà còn đóng vai
trò gắn kết, thúc đẩy các thành viên chia sẻ thành công, vượt qua thiếu thốn,
1
khó khăn để vươn lên phía trước, cùng nhau xây dựng môi trường xã hội văn
minh.
Cũng giống bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đang hình
thành một thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kì này
đang diễn ra nhiều biến đổi quan trọng. Chúng ta đang cố gắng để hạn chế
càng nhanh càng tốt những bất cập do nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung,
bao cấp để lại. Văn hóa ứng xử của thời kì đó, mặc dù đã được hình thành
nhưng còn phải bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Chúng ta
đã ban hành pháp lệnh Văn hóa ứng xử công sở nhưng sự hình thành ứng xử
có văn hóa trong công sở là một quá trình lâu dài, khó khăn và không kém
phần phức tạp. Vì vậy, nghiên cứu Văn hóa ứng xử công sở để có những kiến
giải thuyết phục nhằm điều chỉnh hiệu quả vấn đề này vẫn còn tiếp tục. Chính
vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Vấn đề văn hóa ứng xử công sở ở Việt Nam
hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ triết học nhằm góp phần nhỏ vào việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc nói chung và văn hóa
ứng xử công sở nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội cũng
như giữa các cộng đồng xã hội với nhau đã được đề cập từ buổi bình minh
của loài người.
Ở Trung Quốc, ngay từ thời kì cổ đại, do xã hội cuối triều Chu suy
vong mà các nhà Nho đã dốc công sưu tập, san định những nét cơ bản trong
đời sống tinh thần để cho cả đương đại cũng như hậu thế nghiên cứu, suy
ngẫm. Với Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nho gia đã đánh dấu vai trò to lớn của trường
phái mình trong lịch sử Trung Quốc. Kinh điển của họ không chỉ là khối tri
thức cho xã hội mà còn là nền tảng cho nhiều phong tục tập quán cũng như
cách xử thế trong nhiều mối quan hệ xã hội của Trung Quốc nói riêng và của
một số nước phương Đông nói chung.
2
Kinh Lễ hay còn gọi Lễ ký là một trong bộ Ngũ Kinh của Nho gia,
tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các
lễ nghi thời trước. Học giả thời Hán là Đới Đức đã dựa vào bản do Lưu
Hướng thu thập gồm 130 thiên rồi tổng hợp, giản hoá còn 85 thiên gọi là Đại
Đới Lễ ký, sau đó cháu Đới Đức là Đới Thánh lại đơn giản hoá Đại Đới Lễ ký
còn 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt lệnh, Minh Đường vị và Nhạc ký,
tổng cộng là 49 thiên, được gọi là Tiểu Đới Lễ ký. Đại Đới Lễ ký đến thời
Tuỳ, Đường bị thất lạc quá nửa, hiện nay chỉ còn 39 thiên, do đó Tiểu Đới Lễ
ký là bản Kinh Lễ thông dụng hiện nay.
Toàn bộ Kinh Lễ được viết bằng tản văn, không chỉ miêu tả chế độ lễ
nghi đương thời mà còn giáo dục về nhân nghĩa, đạo đức, ngoài ra có giá trị
về văn học rất lớn. Đại Học và Trung Dung, hai cuốn sách kinh điển của Nho
giáo, chính là hai thiên trong Kinh Lễ.
Trên cơ sở nguyên tắc xây dựng Lễ : “Thời, Thuận, Thể, Nghi và Xứng”
(Thiên 10. Lễ khí) để qua các đời, các nhà Nho bổ sung, san định lại phong
tục theo những quy định trong sinh hoạt gia đình cũng như ngoài xã hội
(Thiên 1. Khúc Lễ thượng; Thiên 2. Khúc Lễ hạ); quy định về tang lễ (Thiên
3. Đàn cung thượng; Thiên 4. Đàn cung hạ; Thiên 15. Tang Thục tiên kí;
Thiên 34. Bôn tang; Thiên 49. Tang phục tứ chế…); những quy tắc thờ phụng
cha mẹ, cách thức giáo dục con cái (Thiên 12. Nội tắc); quy định cách thức
sinh hoạt thường ngày của thiên tử, chư hầu, đại phu, kẻ sĩ qua dung mạo,
xưng hô, y phục ăn uống (Thiên 13. Ngọc tảo); quy định hành vi ứng xử giữa
người với người (Thiên 17. Thiếu nghi); tang vua chư hầu, đại phu, kẻ sĩ
(Thiên 22. Tang đại kí); vai trò của lễ (Thiên 30. Phường kí), Quy định đức
hạnh của nhà Nho như cư xử thận trọng, đứng ngồi cung kính, lời nói phải thể
hiện trung thực, giữ tín, thái độ đàng hoàng, ngay thẳng, không tranh chấp,
không cố chấp (Thiên 41. Nho Hạnh), Kinh Lễ không chỉ quy định ứng xử
trong công việc mà còn có cả ứng xử trong thư giản của các kẻ sĩ như trò chơi
3
ném thẻ gỗ vào trong miệng bình, ai ném trúng được thưởng rượu, ai không
ném trúng thì bị phạt thơ (Thiên 40. Đầu hồ)…
Khổng Tử hiệu đính và san định lại Kinh Lễ mong dùng làm phương
tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì
không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Trung Dung là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Sách Trung Dung
do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ (Thiên 31. Trung
dung). Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái
học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là nếu theo Đạo
có thể giúp chúng ta đạt được trình độ cao của đạo đức.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về
đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở
mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh
nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần:
Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của
Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được:
tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với
muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.
Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến
của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung
dung. Cả hai quyển sách Đại Học (Thiên 42) và Trung Dung trước đây là
những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai
quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
Có thể nói, bằng Kinh Lễ, Nho gia đã đặt nền tảng về văn bản ứng xử
cho con người, cho xã hội Trung Quốc. Theo đó họ cũng đặt nền tảng cho văn
hóa ứng xử.
4
Ngày nay, khi dịch hay giới thiệu Tứ Thư, Ngũ Kinh, các học giả Trung
Quốc cũng như học giả ngoài Trung Quốc đều trên cơ sở phân tích phạm vi
tác động của Tứ Thư, Ngũ Kinh đều kết hợp nêu tính hợp lí cũng như chỉ ra
những hạn chế của chúng, nhưng ai cũng trân trọng và cho rằng chúng vẫn
còn có giá trị nhất định đối với hiện tại.
Nhận thức rõ văn hoá ứng xử công sở có tác dụng then chốt trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay của Việt Nam, Đảng và
Nhà nước cũng như nhiều tác giả ở Việt Nam đã bước đầu có sự quan tâm
nghiên cứu.
Văn hóa ứng xử công sở là toàn bộ những giá trị tạo nên nền nếp, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan. Những tác động của văn hóa ứng xử công sở
ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển cả về mặt kinh tế lẫn xã hội.
Dưới sự bảo trợ tài chính của nhà nước, một số tác giả ở Việt Nam đã
bước đầu chú ý đến vấn đề văn hoá công sở, như đề tài:
- “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh” - Đỗ Minh Cương; “Văn
hóa tổ chức” - Chủ biên PGS.TS Nguyễn Thu Linh - Học viện Hành chính
Quốc gia; “Văn hóa và kinh doanh” - Chủ biên Phạm Xuân Nam; Alen
Kennedy và Tren Sdill: Văn hóa Công ty phương Tây; Miêu Tú Kiệt: Phương
pháp quản lý hành chính có hiệu quả/ Văn hóa hành chính, Nxb. Lao động Xã hội 2004; Đỗ Huy, tác phẩm “Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta
hiện nay - Dưới góc nhìn giá trị”; Phan Ngọc, tác phẩm “Bản sắc văn hóa
Việt Nam”; Trần Ngọc Thêm, tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” Nxb.
Giáo dục 2011; Nguyễn Văn Thịnh, tác phẩm “Những nền văn minh lớn của
nhân loại”, Nxb. Văn hóa - Thông tin 2010; Trần Quốc Vượng tác phẩm “Cơ
sở văn hóa Việt Nam” Nxb. giáo dục 2008; Vũ Dương Ninh, tác phẩm “Lịch
sử văn minh thế giới”; Trần Mạnh Thường, tác phẩm “Những nền văn minh
lớn của nhân loại”, Nxb. Văn hóa thông tin 2010; Trần Hoàng, (2004), Văn
5
hóa ứng xử công sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Hoàng, Trần Việt
Hoa, (2011), Kỹ năng thực hành văn hóa công sở, lễ tân và nghi thức nhà
nước ở cơ quan, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số bài tiểu luận khoa học khác của GS.TSKH.
Nguyễn Văn Thâm, TS. Lưu Kiếm Thanh, GS.TS Nguyễn Đăng Dung… bàn
về một số khía cạnh cụ thể có liên quan đến Văn hóa công sở.
Trong các công trình nêu trên, ở các góc độ khác nhau, các nhà khoa
học đã đề cập tới quan niệm văn hóa ứng xử; một số công trình nghiên cứu đã
đề cập tới ứng xử từ phương diện định hướng giá trị, từ phương diện đạo đức;
có tác giả đã nghiên cứu ứng xử từ phương diện văn hoá, khẳng định các khía
cạnh của văn hoá ứng xử.
Phần lớn những đề tài trên đã có những đóng góp nhất định cho việc
hiểu chung về khái niệm Văn hóa công sở, mà không đi sâu vào khái niệm
Văn hóa công sở của các cơ quan hành chính, cũng như những biểu hiện đặc
thù của nó trong thời hội nhập.
Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được trong các nghiên cứu trong thời
gian qua chưa thực sự đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình
phát triển. Nên việc nghiên cứu sâu và tiến hành khảo sát thực trạng những
biểu hiện của vấn đề Văn hoá công sở nói chung, văn hóa ứng xử công sở nói
riêng và tác dụng của nó đến hiệu quả hoạt động đến các cơ quan hành chính
đang là một đòi hỏi cấp bách hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Làm rõ những vấn đề chung về văn hóa ứng xử công sở để
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng văn hóa ứng xử công sở ở
Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa ứng xử công sở, những yếu
tố tác động đến văn hóa ứng xử công sở và vai trò của văn hóa ứng xử công
6
sở.
- Làm rõ thực trạng văn hóa ứng xử công sở ở các công sở công quyền
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng văn
hóa ứng xử công sở công quyền ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa ứng xử công sở và Vấn đề văn hóa ứng xử công sở ở Việt
Nam hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu
Các công sở công quyền hành chính ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
văn hoá.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp biện chứng duy vật mà chủ yếu là
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - lôgíc…
6. Ý nghĩa của luận văn
Về lý luận
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy văn hóa ứng xử công sở ở các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp…
Về thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể vận dụng điều chỉnh văn
hóa ứng xử công sở phù hợp sự phát triển của đất nước.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần mục lục, luận
văn bao gồm 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Văn hóa ứng xử công sở và vai trò của văn hóa ứng xử
công sở.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng văn hóa ứng xử công sở
ở Việt Nam hiện nay.
8
Chương 1
VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ
VÀ VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ CÔNG SỞ
1.1. Văn hóa và văn hóa ứng xử công sở
1.1.1. Khái lược khái niệm văn hóa
1.1.1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu khái niệm văn hóa
Thuâ ̣t ngữ văn hóa xuấ t hiê ̣n từ lâu trong ngôn ngữ nhân loa ̣i
. Qua các
thời kỳ lich
̣ sử , khái niệm văn hóa đã được bổ sung , phát triển thêm các nội
dung mới . Cho đế n nay , văn hóa vẫn là mô ̣t trong những khái niê ̣m phức ta ̣p .
Nói tới văn hóa là nói tới con người , là nói việc phát huy những năng lực , bản
chấ t của con người nhằm hoàn thiê ̣n con người , hoàn thiện xã hội , do vâ ̣y văn
hóa chứa đựng t ính nhân văn . Văn hóa ngày nay là nề n tảng tinh thầ n của xã
hô ̣i, là mục tiêu , đô ̣ng lực của phát triể n . Văn hóa bao gồ m : văn hóa chính tri ,̣
văn hóa kinh doanh , văn hóa đa ̣o đức , văn hóa nghê ̣ thuâ ̣t… trên cơ sở đó ,
văn hóa ứng xử cũng là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n trong đời số ng văn hóa của xã hô ̣i , nó có
mă ̣t trong mo ̣i hoa ̣t đô ̣ng của con người , trong lao đô ̣ng sản xuấ t , trong quan
hê ̣ giao tiế p hàng ngày , trong viê ̣c xây dựng môi trường số ng và làm viê ̣c
,
hoàn thiệ n nhân cách con người , giúp con người mỗi ngày dần vươn tới chuẩn
mực của đời số ng tinh thầ n : Chân, Thiê ̣n, Mỹ.
Trải qua thời gian, văn hóa được nhân loại hiểu ngày càng đầy đủ và
sâu sắc hơn.
Đến thế kỷ XIX, Theo E.B.Taylo, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm
hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả
năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên
của xã hội.
Sang thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo F. Boas. Theo ông, văn
hóa không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. A.L.Kroibơ và
9
C.L.Klucchôn quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc
kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó là thành quả độc đáo của nhân loại
khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm
ra.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin có cách tiếp cận riêng của
mình. Trong toàn bộ các tác phẩm kinh điển đồ sộ của mình, tuy các ông
không để lại một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày hệ thống các quan
điểm của mình về văn hóa như một lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, độc lập;
nhưng toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này được biểu hiện như hệ
thống các quan điểm về con người xã hội.
Trong lịch sử phát triển lâu dài của triết học, bất kỳ trường phái, hệ
thống triết học nào, "nhất là của triết học hiện đại" (nói như Engen) cũng đều
phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề "mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại". Điều đó cũng có nghĩa là bất kỳ triết học nào cũng đều phải trả lời
bằng cách này hay bằng cách khác câu hỏi tổng quát về vai trò của con người
đối với thế giới. Triết học Mác cũng xuất phát từ con người và trở lại với con
người. Con người trong triết học Mác là "cái xã hội". Con người trước hết
phải là một "thực thể tự nhiên", là con người "sinh học" với tư cách là một bộ
phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và chịu sự quy định của
những quy luật tự nhiên. Mác nói "tự nhiên là thân thể vô cơ của con người".
Nhưng cái quy định bản chất của con người, cái tạo nên sự khác biệt về chất
có "tính tộc loại" để phân biệt con người với tư cách là một "thực thể xã hội".
Trong "Luận cương về Phoiơbắc (1845) Mác viết: "... bản chất con
người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác đã bàn đến "tính xã hội" của con người
(của bản chất con người) trong các hoạt động sống của họ như là những tiền
đề đầu tiên của sự tồn tại và sáng tạo. Như vậy, cái làm nên bản chất người,
10
cái tạo nên sự khác biệt giữa con người với bất kỳ giống loài nào của tự nhiên,
không có gì khác chính là những "hoạt động sống" của con người.
Trong "Bản thảo kinh tế - triết học" (1844), Mác viết: "Súc vật cố nhiên
cũng sản xuất... nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó cần đến, sản
xuất một chiều; còn con người thì sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản
xuất dưới sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó con người
sản xuất ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu
đó thì mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản
xuất ra bản thân mình, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên".
Như vậy, nếu nói "hoạt động" thì con vật cũng hoạt động theo một
nghĩa nào đó. Nhưng sự khác biệt về chất giữa hoạt động của con người với
hoạt động của con vật là ở chỗ, con vật chỉ hoạt động theo thước đo và nhu
cầu giống loài của nó như là phương thức của tồn tại vật còn con người thì có
thể sản xuất theo thước đo của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp
dụng thước đo thích dụng cho đối tượng, tạo nên sự khác biệt bản chất của
phương thức tồn tại người. Mác gọi những hoạt động sống của con người
(trong đó Mác nhấn mạnh "hoạt động sản xuất vật chất") là những hoạt động
có tính tộc loại của con người trong sự tồn tại phổ biến của nó, làm mở ra
những lực lượng bản chất của con người. Và do đó, bản chất hoạt động của
con người là "nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp" - đó chính là năng
lực bản chất đặc thù chỉ có ở con người, gắn với mọi hoạt động của con
người. Bởi vậy, có thể nói, sự thể hiện, phát huy những năng lực bản chất
người" - đó chính là văn hóa.
Trong đời sống hiện thực, con người bằng hoạt động "nhào nặn vật chất
theo quy luật của cái đẹp" đã chuyển bản chất của mình vào những đối tượng do
chính mình tạo ra, tạo nên một "thiên nhiên thứ hai" với tư cách là "sự đối
tượng hóa", "khách thể hóa" chính bản chất con người, mà trong đó con người
có thể "đối lập một cách tự do với sản phẩm của mình". Nhờ sự sản xuất đó,
11
giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó.
"Thiên nhiên thứ hai" do con người sáng tạo bằng lao động sáng tạo và tri thức
của mình, kết tinh những giá trị tinh thần của nó - đó cũng chính là văn hóa.
Xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức
xác định bản chất của sự "tồn tại người" của triết học Mác, chúng ta có thể đi
tới một kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và
phát triển con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy
định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật, thì văn hóa
là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với
các hoạt động sống của con người. Nói cách khác, văn hóa là sự kết tinh năng
lực bản chất người trong thế giới các sản phẩm do chính hoạt động con người
tạo ra, là cái quy định bản chất con người với tư cách là một "sinh vật có tính
loài" - là "một thực thể xã hội".
Như vậy, văn hóa là khái niệm phản ánh tổng thể và sự phát huy những
năng lực bản chất người trong tất cả các dạng thức tồn tại hoạt động của con
người và là sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con người sáng tạo
ra trong quá trình thực tiễn - lịch sử - xã hội của mình.
1.1.1.2. Cấu trúc của văn hóa
Văn hóa thường được chia thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần.
Nói đến văn hóa là nói đến những giá trị do con người sáng tạo ra đó là
giá trị vật chất, giá trị tinh thần (phân biệt một cách tương đối), vì những sản
phẩm tinh thần như khoa học, văn học nghệ thuật, các phong tục tập quán...
và những sản phẩm vật chất như đồ đạc, nhà cửa, đường xá... Tuy nhiên, thật
khó và ngày càng khó phân biệt rạch ròi đâu là sản phẩm vật chất, đâu là sản
phẩm tinh thần. Mặt khác, không có sản phẩm tinh thần nào lại không được
thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định và cũng như không có một sản
phẩm vật chất nào lại không mang trong nó những giá trị tinh thần. Thật vậy,
12
những nhà cửa, đường phố, cầu cống và ngay cả những vật dụng tầm thường
nhất, kể cả những sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng loạt, cũng là hiện thân
của những giá trị văn hóa, thể hiện bản sắc dân tộc, trí tuệ và tài năng của
những người làm ra chúng.
Hiểu được mối liên hệ mật thiết không thể tách rời của những giá trị
văn hóa tinh thần và vật chất là điều vô cùng quan trọng.
Văn hóa vật chất là khái niệm để chỉ những sản phẩm hữu hình do con
người sáng tạo ra, hay cải biến những thứ có trong tự nhiên, để phục vụ cho
các nhu cầu sống và nhu cầu hưởng thụ của con người. Đó là các sản phẩm
hàng hóa, công cụ lao động , tư liệu tiêu dùng, hạ tầng kinh tế như giao thông,
nguồn năng lượng, thông tin; hạ tầng xã hội như nhà ở, hệ thống giáo dục,
chăm sóc sức khỏe; hạ tầng tài chính như ngân hàng, dịch vụ tài chính, bảo
hiểm. Văn hóa vật chất qua đời sống vật chất của quốc gia. Chính vì vậy văn
hóa vật chất sẽ ảnh hưởng to lớn đến trình độ dân trí, lối sống của các thành
viên trong nền kinh tế đó.
Văn hóa tinh thần: là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người
và xã hội bao gồm kiến thức, các phong tục tập quán, thói quen, cách ứng xử,
ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ có lời và phi ngôn ngữ), các giá trị và thái độ,
các hoạt động văn hóa nghệ thuật, tôn giáo, giáo dục, các phương thức giao
tiếp và cách thức tổ chức xã hội.
Kiến thức là nhân tố hàng đầu của văn hóa, thường được đo một cách
hình thức bằng trình độ học vấn, trình độ tiếp thu và vận dụng kiến thức khoa
học, hệ thống kiến thức được con người phát minh, nhận thức và tích lũy lại,
bổ sung, nâng cao và không ngừng đổi mới qua các thế hệ.
Các phong tục tập quán là những hành vi ứng xử, thói quen, nếp sinh
hoạt tương đối ổn định của các thành viên trong nhóm xã hội được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác. Phong tục tập quán có những đặc điểm là có
tính ổn định, bền vững được hình thành chậm chạp lâu dài trong quá trình
13
phát triển lịch sử của xã hội loài người; là cơ chế tâm lý bên trong, có chức
năng điều khiển, điều chỉnh hành vi, lối sống các thành viên trong nhóm, cộng
đồng; phong tục tập quán được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng
con đường truyền đạt, bắt chước thông qua giao tiếp của các cá nhân. Và
phong tục tập quán có những chức năng quan trọng như giáo dục nhân cách
cho thế hệ trẻ, xây dựng tình cảm và kỹ năng sống, hành vi ban đầu cho con
người; là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá về mặt đạo đức, xã hội của các thành
viên trong nhóm và giữa các nhóm xã hội với nhau; là hình thức lưu giữ
những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của đời sống văn hoá nhóm, cộng đồng.
Thói quen là những cách thực hành phổ biến hoặc đã hình thành từ
trước. Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có những thói quen và cách cư xử
khác nhau.
Giá trị là những niềm tin và chuẩn mực chung cho một tập thể người
được các thành viên chấp nhận; còn thái độ là sự đánh giá, sự cảm nhận, sự
phản ứng trước một sự vật dựa trên các giá trị.
Ngôn ngữ là yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa vì nó là phương tiện
của giao tiếp, là công cụ giúp con người nhận thức thế giới và có tác dụng
định hình đặc điểm văn hóa của con người.
Tôn giáo là một hình thức tổ chức xã hội có những ảnh hưởng lớn đến
cách sống, niềm tin, giá trị, thái độ, thói quen làm việc và cách cư xử của con
người trong một cộng đồng xã hội đối với nhau và với cộng đồng xã hội khác.
Giáo dục là yếu tố quan trọng đển nền văn hóa. Trình độ và chất lượng
của giáo dục xã hội sẽ tạo ra những giá trị và chuẩn mực văn hóa và đạo đức
của con người.
Nói tóm lại, văn hóa tinh thần có thể tồn tại dưới dạng vật thể hay phi
vật thể; có những sáng tạo của con người vừa là văn hóa vật chất cũng vừa là
văn hóa tinh thần, chẳng hạn như ngôi chùa vốn là văn hóa vật chất, nhưng
ngôi chùa cũng còn là trung tâm sinh hoạt tính ngưỡng của cộng đồng.
14
Các nền văn hóa: do những điều kiện hình thành và phát triển khác
nhau nên mỗi một khu vực hay một trung tâm nào đó có một đặc điểm, một
sắc thái riêng. Trải qua bao đổi thay, thăng trầm để tạo nên sự khác biệt giữa
các nền văn hoá. Nền văn hoá là để phân biệt nét đặc sắc riêng có của khu vực
đó. Chính nó đã tạo nên sự đa dạng, phong phú trong sự phát triển của nền
văm minh nhân loại. Mỗi dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển luôn tạo
dựng một nền văn hóa riêng mang đậm bản sắc dân tộc mình. Điều đó cho
thấy trên khắp hành tinh chúng ta, có bao nhiêu quốc gia dân tộc là có bấy
nhiêu nền văn hóa.
Những nền văn hóa lớn có truyền thống hàng ngàn năm lịch sử và có
một ảnh hưởng nhất định đối với nền văn hóa thế giới là:
. Nền văn hóa dưới đáy đại dương
. Nền văn hóa sông Nile - Ai Cập
. Nền văn hóa Hy Lạp
. Nền văn hóa La Mã
. Nền văn hóa Tây Á
. Nền văn hóa sông Hằng - Ấn Độ
. Nền văn hóa Trung Hoa
. Nền văn hóa Maya
. Nền văn hóa Aztec
. Nền văn hóa Andes
Các vùng văn hóa: Trong một nền văn hoá các nhà nghiên cứu còn
phân ra các vùng văn hoá. Cách chia này là để dễ nghiên cứu và đầu tư bảo
tồn và phát huy bản sắc riêng có trong quá trình phát triển văn hoá . Vùng văn
hoá là không gian hay khu vực nhỏ của nền văn hoá
. Nó được đặc trưng nét
riêng có vùng đó làm cơ sở . Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu phân chia các
vùng văn hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc phân chia Việt Nam thành bao
nhiêu vùng văn hóa lại chưa thật sự thống nhất. Có nhiều cách phân chia khác
15
- Xem thêm -