VẤN ĐỀ TƯ CÁCH PHÁP NHÂN CỦA CÁC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG TRONG
PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM
Trần Thị Ngọc Mai1*, Phạm Phương Mai1, Trần Minh Hoàng1, Phạm Nguyên Hà3,
Lê Minh Giang1,2
1
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS, trường Đại học Y Hà Nội
2
Bộ môn dịch tễ học, Trường Đại học Y Hà Nội
3
Dự án Quỹ Toàn cầu – VUSTA
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả được thực hiện nhằm mô tả các quan điểm về vai trò và các thách thức trong đăng ký
và sử dụng tư cách pháp nhân thông qua phỏng vấn đại diện các tổ chức cộng đồng, các chuyên gia làm
việc trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Trong bối cảnh cắt giảm nguồn ngân sách, tư cách
pháp nhân được bàn luận như một giải pháp để duy trì sự phát triển của các tổ chức cộng đồng tại Việt
Nam.Tuy nhiên, có nhiều thách thức mà các tổ chức cộng đồng này gặp phải. Thứ nhất là yêu cầu đăng ký
tư cách pháp nhân và năng lực đáp ứng của tổ chức. Thứ hai là cơ hội để hội nhập phát triển. Thứ ba là
khoảng cách của mối quan hệ nhà nước với các tổ chức bên ngoài. Chính những thách thức này tạo nên
những băn khoăn và quan điểm khác nhau về sự cần thiết phải có tư cách pháp nhân.
Từ khóa: HIV/AIDS, tổ chức cộng đồng, tư cách pháp nhân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau khi những cải cách về kinh tế, còn được
gọi là Đổi Mới, bắt đầu ở Việt Nam vào năm
1986, các tổ chức xã hội đã phát triển nhanh
chóng [1, 2]. Hiện tượng này không chỉ bắt
nguồn từ nhu cầu kết nối và giao lưu mạnh mẽ
của người dân nhằm xây dựng các mạng lưới hỗ
trợ xã hội mà còn liên quan trực tiếp tới việc nhà
nước đã thừa nhận và khuyến khích sự tham gia
của các tổ chức xã hội vào việc phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là trong những lĩnh vực cần
có sự chung tay góp sức của xã hội nhằm nâng
cao chất lượng các dịch vụ xã hội cơ bản [3, 4].
Ngay từ giữa những năm 1990s, tức là vài năm
sau khi dịch HIV/AIDS xuất hiện ở Việt Nam,
vai trò của các tổ chức xã hội trong lĩnh vực này
đã được thể hiện rõ. Với sự hỗ trợ tích cực của
các tổ chức quốc tế như UNDP, Health Policy
Initiative, Ford Foundation và sau này là PEPFAR/USAID thông qua các tổ chức phi chính
*Tác giả: Trần Thị Ngọc Mai
Địa chỉ: Trường Đại học Y Hà Nội
Điện thoại: 0410733288
Email:
[email protected]
460
phủ Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phòng
chống HIV/AIDS, các tổ chức cộng đồng mà
hầu hết tiền thân là các nhóm tự lực, các nhóm
người có HIV, người tiêm chích, đồng tính
nam, phụ nữ bán dâm đã được xây dựng và
phát triển. Các tổ chức cộng đồng đã có đóng
góp đáng kể vào công cuộc phòng chống HIV/
AIDS như cung cấp thông tin về HIV và vận
động những người có hành vi nguy cơ đi xét
nghiệm tự nguyện, tham gia tư vấn cho những
người có HIV/AIDS và tham gia cung cấp dịch
vụ chăm sóc, cung cấp thông tin về quyền được
chăm sóc sức khỏe sau khi bị nhiễm HIV/AIDS
[5].
Tuy nhiên, sự tham gia, đóng góp của các
tổ chức xã hội nói chung và các tổ chức dựa
vào cộng đồng nói riêng trong lĩnh vực phòng
chống HIV/AIDS đang gặp phải những rào cản
đáng kể. Hiện tại, ngoài những khó khăn về tài
chính do cắt giảm ngân sách trong phòng chống
HIV/AIDS tại Việt Nam, các tổ chức dựa vào
Ngày nhận bài: 24/07/2015
Ngày phản biện: 09/10/2015
Ngày đăng bài: 10/11/2015
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
cộng đồng còn bị hạn chế tiềm năng hoạt động
do thiếu một khuôn khổ pháp lý hỗ trợ trong
đăng ký và quản lý [6].Trong bối cảnh hiện nay,
đăng ký tư cách pháp nhân - hay chứng minh
cơ cấu tổ chức tài sản để đăng ký với nhà nước
hình thức hoạt động hợp pháp là một giải pháp
và mong muốn mà nhiều tổ chức cộng đồng
nghĩ đến. Mục đích của bài viết này nhằm mô
tả vai trò và nhu cầu đăng ký tư cách pháp nhân,
đồng thời mô tả những rào cản trong đăng ký
và sử dụng tư cách pháp nhân để hoạt động của
các tổ chức dựa vào cộng đồng tại Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực tế, nhu cầu đăng ký tư cách
pháp nhân của các tổ chức dựa vào cộng đồng
trong phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam;
và những rào cản trong đăng ký và sử dụng tư
cách pháp nhân để hoạt động của các tổ chức
dựa vào cộng đồng tại Việt Nam.
2.2 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả
2.3 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Số liệu được thu thập trong thời gian từ
tháng 11/2014 đến tháng 6/2015 tại 4 tỉnh Hà
Nội, Thái Nguyên, Cần Thơ và Thành phố Hồ
Chí Minh.
2.4 Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu có chủ đích bao gồm những người
có hiểu biết về sự hình thành và phát triển của
các tổ chức xã hội tham gia vào công tác phòng
chống HIV/AIDS tại Việt Nam.
2.5 Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu trực
tiếp 61 người. Bao gồm các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Phỏng vấn 21 người cung cấp
tin chính gồm có các đại diện: 01 đại diện mạng
lưới cấp quốc gia; 02 chuyên gia trong lĩnh vực
phòng, chống HIV/AIDS; 04 đại diện trung
tâm phòng chống AIDS cấp tỉnh; 02 lãnh đạo
hội phòng chống AIDS cấp tỉnh; 01 đại diện
diện tổ chức từ thiện; 10 người sáng lập hoặc
thành viên nòng cốt của các tổ chức phi chính
phủ, tổ chức cộng đồng. Mục đích nhằm thu
thập ý kiến của các chuyên gia về hoạt động,
vai trò của các tổ chức xã hội đang hoạt động
trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS.
Giai đoạn 2: Phỏng vấn 40 người là đại diện
của 8 tổ chức xã hội tiêu biểu theo tham vấn ý
kiến từ các chuyên gia. Mỗi tổ chức sẽ phỏng vấn
5 người là lãnh đạo, nhân viên, khách hàng, người
có uy tín ở địa phương và đối tác của tổ chức.
Mục đích nhằm thu thập thông tin về quá trình
hình thành và phát triển; đóng góp của tổ chức và
những thay đổi của tổ chức trong bối cảnh mới.
2.6 Xử lý và phân tích số liệu
Các cuộc phỏng vấn được ghi âm với sự
đồng ý của người tham gia (thể hiện qua việc
ký vào thỏa thuận tham gia nghiên cứu). Thông
tin thu được được chuyển thành dạng văn bản.
Quá trình phân tích thông tin định tính bao
gồm các bước sau: 1) các bản ghi phỏng vấn
được nhóm nghiên cứu đọc kỹ, 2) nhóm nghiên
cứu thảo luận và lập ra một bộ mã sơ bộ, 3)
bộ mã này được sử dụng để mã hóa năm bản
ghi phỏng vấn đầu tiên, 4) nhóm nghiên cứu
họp để thống nhất sử dụng một bộ mã chung),
5) toàn bộ các bản ghi được mã hóa, 6) nhóm
nghiên cứu nhóm gộp các mã thông tin để tạo
thành các chủ đề chính của câu hỏi nghiên cứu.
Các phát hiện ban đầu này được chia sẻ một
cách hạn chế cho một số người cung cấp tin
chính hoặc chuyên gia trong lĩnh vực xã hội
dân sự và HIV/AIDS để kiểm tra tính phù hợp
của phát hiện so với bối cảnh sống của những
người trả lời.
Số liệu được quản lý và phân tích bằng phần
mềm ATLAS. Ti.6.2
2.7 Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức
trong nghiên cứu y sinh trường Đại Học Y Hà
Nội thông qua (Số 173/HĐĐĐĐHYHN ngày
12/3/2015).
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
461
III. KẾT QUẢ
3.1 Vai trò tư cách pháp nhân với các tổ chức
cộng đồng
Trong bối cảnh cắt giảm nguồn ngân sách
quốc tế cho hoạt động phòng chống HIV/AIDS
tại Việt Nam, các tổ chức xã hội ra đời từ nguồn
tài trợ đang phải đương đầu với nhiều khó khăn
để tồn tại. Tư cách pháp nhân (TCPN) là một
trong những giải pháp được các nhóm tổ chức
cộng đồng và các mạng lưới nghĩ đến. Họ mong
muốn có TCPN để độc lập về kinh tế, góp tiếng
nói để bảo vệ cộng đồng người có HIV (NCH)
và các nhóm có nguy cơ. Đa số đại diện các
tổ chức cộng đồng, chuyên gia làm việc trong
lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS và các cán bộ
trong chính quyền địa phương nhấn mạnh tầm
quan trọng của tư cách pháp nhân như là “cơ
hội phát triển bền vững và hợp pháp” trong bối
cảnh hiện nay:
“Có TCPN thì tổ chức dựa vào cộng đồng
(CBO) sẽ dễ dàng hoạt động, coi như là nếu tổ
chức hoạt động thì không bị cho là hoạt động
tự phát, trái phép, không bị bắt. Ngoài ra, xã
hội công nhận mình (thành viên CBO) có công
việc hẳn hoi. Ngoài ra, CBO có TCPN có thể
xin được tài trợ trực tiếp mà không phải thông
qua một tổ chức nào rót xuống” (Đại diện tổ
chức cộng đồng nhóm phụ nữ bán dâm, thành
phố Hồ Chí Minh).
“Có TCPN thì mới buộc anh phải hoạt động
độc lập, có trách nhiệm. Vì anh (CBO) còn
phải có trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước.
Địa phương thì cũng mới quản lý được họ làm
cái gì, ai là người chịu trách nhiệm quản lý
họ. Hoạt động mà không có sự đồng thuần của
chính quyền thì không danh chính ngôn thuận”
(Người có uy tín trong chính quyền địa phương
của CBO).
“TCPN không có thì rất khó thu hút được
người tài vào trong nhóm của chúng ta. Chưa
có TCPN nghĩa là chưa độc lập, vẫn còn phụ
thuộc, sẽ không có khả năng liên kết với nhóm
khác để có tiếng nói chung. Tại Việt Nam, vẫn
chưa có nhiều cơ quan đoàn thể địa phương
462
hiểu đươc tổ chức xã hội dân sự là gì và vai
trò của những tổ chức này.” (PVS chuyên gia
độc lập).
Như vậy mong đợi có được TCPN của các
tổ chức cộng đồng là mong đợi có “thêm kinh
phí trong bối cảnh bị cắt giảm tài trợ” “đóng
góp chính sách dành cho người có HIV/AIDS”
“khẳng định tiếng nói của các tổ chức xã hội tại
Việt Nam”.
3.2 Thách thức của các tổ chức cộng đồng
hiện nay trong đăng ký TCPN
Hiện nay số lượng các tổ chức cộng đồng
có tư cách pháp nhân không nhiều. Thách thức
đầu tiên mà các tổ chức cộng đồng gặp phải là
những quy định và điều kiện đăng ký tư cách
pháp nhân và năng lực của tổ chức.
“Mình đang rất muốn (đăng ký tư cách
pháp nhân). Mình đã đi gặp hỗ trợ pháp lý của
tỉnh rồi nhưng mà rất khó khăn…Khó khăn về
thủ tục đăng ký, ngoài yêu cầu vốn, văn phòng
còn những quy định về số lượng người có trình
độ đại học. Những nhóm cộng đồng như mình
lấy đâu ra” (Đại diện tổ chức cộng đồng nhóm
nghiện chích ma túy).
Năng lực của các tổ chức cộng đồng đã được
chứng minh qua thời gian, từ các nhóm đồng
đẳng ra đời do nguồn tài trợ quốc tế cho các
hoạt động dự án tại cộng đồnghọ đã tự quản lý
nhân lực, kinh phí và xây dựng hoạt động, liên
kết để phát triển thành các tổ chức, mạng lưới
độc lập. Tuy nhiên, đa số các ý kiến vẫn cho
rằng “sức khỏe” “kỳ thị xã hội” “vị thế kinh tế
xã hội” của các nhóm này là rào cản đáng kể.
Một đại diện của tổ chức cộng đồng tại thành
phố Hồ Chí Minh cho biết:
“Đăng ký tư cách pháp nhân với những
người bình thường có thể đơn giản, nhưng với
những người có H, và các nhóm FSW hay IDU
thì không dễ. Sức khỏe thì không tốt, hoàn cảnh
khó khăn lại văn hóa thấp mà chạy qua chạy lại
ba cái giấy tờ thủ tục chắc bỏ luôn. Không phải
ai cũng muốn có (TCPN) là làm được”
Như vậy, khả năng của các tổ chức cộng
đồng là khác nhau, trong đó đa phần là năng
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
lực chưa sẵn có để đáp ứng các yêu cầu đăng ký
TCPN nếu không được tư vấn và hỗ trợ cụ thể.
3.3 Tư cách pháp nhân và thách thức để hội
nhập phát triển
TCPN có thể giúp họ hội nhập về kinh tế
nhưng rất khó hội nhập về chính trị. Các hình
thức đăng ký TCPN độc lập mà các CBOs
đang áp dụng hiện nay là NGO, doanh nghiệp,
hợp tác xã hội. Nhưng những hình thức này
chưa đảm bảo để cho họ phát huy năng lực vận
động chính sách hay có những can thiệp cộng
đồng sâu rộng như trước kia - trong giai đoạn
có nguồn tài trợ cho phòng chống HIV/AIDS
tại Việt Nam. Đại diện một tổ chức cộng đồng
MSM đã có TCPN chia sẻ:
“Có TCPN thì các hoạt động kinh doanh của
nhóm cũng có thuận lợi hơn, mọi người (thành
viên tổ chức và khách hàng) yên tâm tin tưởng.
Nhưng chắc chắn vất vả hơn trước rất nhiều vì
tự phải lo làm sao cho các thành viên đủ sống.
Những công việc cộng đồng (công việc phòng
chống HIV/AIDS) thì không thể nào thực hiện
được như trước có dự án…Có tham gia vận động
chính sách chỉ là khi được mời đi họp thì mình có
đóng góp, còn bình thường chắc không nghĩ tới…
Lâu lắm cũng chưa có cuộc họp nào”
Theo một chuyên gia làm việc trong lĩnh
vực phòng chống HIV/AIDS nhiều năm kinh
nghiệm:
“Thực ra các tổ chức cộng đồng có hay
không có TCPN thì khi tài trợ rút sẽ vẫn còn
một số tổ chức tiếp tục hoạt động. Nhưng hoạt
động như thế nào và có được như trước không
thì chắc chắn không bằng. Vì trước kia ngân
sách cho các hoạt động này (phòng chống HIV/
AIDS) được đầu tư không ít, tôi lấy ví dụ trước
mỗi thành viên nhóm nhận được khoảng 50$/
tháng cho việc tìm đối tượng đưa đi xét nghiệm,
nay tắt dần không có gì, các anh phải tự duy trì
thì chất lượng chắc chắn là không bằng…Vận
động chính sách thì trước khó một nay khó gấp
mười…Khó khăn là việc làm sao để các anh tập
hợp nhau lại”.
Mặt khác, có TCPN chưa làm cho các tổ
chức xã hội xích lại gần nhau. Trong số gần
300 nhóm CBOs đang hoạt động cộng đồng, thì
trong bối cảnh cắt giảm ngân sách một số đã tan
rã, một số mạng lưới được thành lập có đăng ký
tư cách pháp nhân nhưng chưa đủ khả năng để
mở rộng và liên kết như trước.
“Tổ chức cộng đồng hiện nay thì nhiều thật
đấy, cả nước phải gần 300 tổ chức. Nhưng mà
ngân sách hết thì khả năng kêu gọi thành viên
của các nhóm rất khó, kể cả các nhóm lớn…”
(Chuyên gia làm việc trong lĩnh vực phòng
chống HIV/AIDS)
3.4 Tư cách pháp nhân và khoảng cách cơ chế
Các tổ chức cộng đồng đều công nhận nếu
được các cơ quan nhà nước ủng hộ và biết đến
hoạt động của họ thì sẽ rất có lợi trong cả thực
hiện hoạt động và thu hút ngân sách tài trợ:
“Hoạt động của mình mà được chính quyền
địa phương biết tới thì họ sẽ thấy được vai trò
của bọn mình là giúp ích cho công việc của họ
rất là nhiều…Trong những hội thảo gần đây
mà nhóm mình tổ chức, bọn mình còn mời được
cả phó chủ tịch phường tới tham dự. Khi tham
dự thì các anh chị hiểu hơn về những việc bọn
mình đang làm và cũng rất ủng hộ, khen ngợi.
Như thế là tốt lắm rồi”. (Đại diện một tổ chức
cộng đồng khu vực phía Nam)
“Cái cái đặc điểm hiện nay ấy thì cô thấy
là các cái tổ chức này thì thực ra là phát triển
nhiều trong những năm gần đây phát triển
nhiều. Nhưng để nói những cái tổ chức phát
triển mạnh mà có thể tiếp nhận được nhiều
nguồn dự án thì có thể đếm được trên đầu ngón
táy. Tại vì những cái tổ chức này mà các bạn
mà mạnh ấy, mà có đươc nhiều dự án mà triển
khai được tốt ấy là các bạn là đã làm nhiều
trong các cơ quan bộ ngành ngày trước.” (Đại
diện một cơ quan phòng chống HIV/AIDS khu
vực phía Nam)
Tuy nhiên, có TCPN không làm cho khoảng
cách giữa nhà nước và các tổ chức xã hội gần
lại. Một mặt thì các tổ chức xã hội muốn được
công nhận hoạt động hợp pháp, độc lập về cơ sở
vật chất nhưng vẫn có sự hỗ trợ về chính sách
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
463
thuế của nhà nước cũng như hợp tác trong triển
khai hoạt động, hỗ trợ ngân sách...Mặt khác, nhà
nước thì không có ngân sách và cơ chế pháp lý rõ
ràng để hỗ trợ cho các CBOs, nhưng mong muốn
phải quản lý được hoạt động của những nhóm này
thay vì độc lập, ngang bằng, hỗ trợ.
“Nếu đăng ký TCPN mà nhà nước ủng hộ
thì rất tốt. Mình làm việc vì cộng đồng, cũng
như các hội nhóm khác ở địa phương như đoàn
thanh niên, hội phụ nữ, nhưng lại yêu cầu nếu
đăng ký anh phải đóng thuế, trong khi các hội
nhóm kia họ có phải đóng thuế không?...Tôi
thấy rất nhiều hoạt động nhà nước thực hiện
lãng phí không hiệu quả như ngày 1/12, nhà
nước tốn không biết bao nhiêu tiền làm khẩu
hiệu dán đầy đường nhưng mà chẳng ai quan
tâm hiệu quả của nó thế nào. Nếu để chúng tôi
làm hiệu quả sẽ khác” (Đại diện một tổ chức
cộng đồng, khu vực phía Bắc)
“Các bạn (thành viên các tổ chức cộng
đồng) ấy làm việc muốn được hỗ trợ, nhưng khi
cho mượn hội trường để có văn phòng làm việc
các bạn cũng không đến. Các bạn ấy lại thích
kiểu thuê một cái nhà vừa làm văn phòng, có
chỗ ăn chỗ ngủ và khi đến đó họ có thể làm việc
và khi thích có thể ăn ngủ luôn ở đó…Trong khi
muốn được hỗ trợ thì nhà nước luôn phải biết
anh làm gì, làm thế nào, nhưng có vẻ các bạn
ấy lại không thích thế” (Đại diện một cơ quan
nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh)
3.5 Tư cách pháp nhân và đa dạng quan
điểm về đăng ký tư cách pháp nhân.
Với rất nhiều thách thức và khó khăn mà các
tổ chức cộng đồng nêu ra như trên, bên cạnh
những tổ chức cá nhân rất mong mỏi có TCPN
thì cũng xuất hiện những quan điểm khác về
đăng ký TCPN:
“Bây giờ mình cứ xây dựng tổ chức của
mình để nó ổn định đã, vững đã, như một cái
móng đã, có cái móng nhà đã xong thì mình
mới đi được chứ còn vội thành lập cái TCPN
xong thì cũng không làm được cái gì” (Đại diện
cộng đồng MSM chưa đăng ký TCPN)
“Có TCPN đã khó, có rồi thì làm sao để duy
464
trì cho nó hoạt động còn khó hơn. Nhiều vấn
đề phải lo về kinh tế tổ chức, thủ tục nhà nước
rồi thì giữ chân được người tài và có tâm huyết
với cộng đồng, các chương trình phải thực hiện
như thế nào để huy động được người tham gia
đóng góp. Tất cả những cái đó không hề đơn
giản, mà đôi khi người cầm đò chỉ biết lái chứ
cũng không thể biết được đi đâu về đâu” (Đại
diện tổ chức cộng đồng NCH đã có TCPN)
“Có TCPN không khó, ví dụ như công ty
là có TCPN rồi nhưng vai trò sau đó như thế
nào. Không cần thiết phải có TCPN cho tất cả
các nhóm.” (Đại diện cán bộ hội phòng chống
AIDS).
“Hiện nay, những người có thời gian và tâm
huyết tham gia vào các hoạt động xã hội tại
địa phương là rất hiếm. Bản thân cô phải kiêm
nhiệm rất nhiều việc:cán bộ khu phố, chi hội
trưởng phụ nữ, phó mặt trận khu phố…Gái mại
dâm, người sử dụng ma túy hay nhiễm HIV ít
muốn tiếp xúc với những người như cô, nhưng
mà họ lại dễ nói chuyện với nhóm này (tổ chức
cộng đồng). Nên thường khi có thông tin của
những người này là cô nhờ các bạn ở đây và
giới thiệu họ tới các nhóm cộng đồng như thế
này…Nên cho họ cái TCPN để họ hoạt động”
IV. BÀN LUẬN
Các tổ chức cộng đồng ra đời từ nguồn tài
trợ quốc tế trải qua thời gian đã có sự trưởng
thành rõ rệt, từ các nhóm tự lực, các nhóm đồng
đẳng hoạt động giống như “cánh tay nối dài của
các cơ quan nhà nước” [7] họ đã tự vận động để
trở thành các nhóm độc lập và mong muốn khẳng
định tiếng nói của các tổ chức xã hội hoạt động
vì người có HIV/AIDS tại Việt Nam [8]. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, trong khi rất nhiều
các tổ chức tìm cách chuyển hướng, thay hoạt
động phòng chống HIV/AIDS bằng các hoạt
động vận động khác để có nguồn ngân sách,
thì vẫn có những tổ chức mong muốn có TCPN
để duy trì hoạt động phòng chống HIV/AIDS
tại Việt Nam. Điều này phản ánh thực tế phát
triển của các tổ chức cộng đồng qua thời gian,
họ thực sự mong muốn xây dựng tổ chức xuất
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
phát từ nhu cầu của người nhiễm HIV/AIDS
và những nhóm dễ bị kỳ thị phân biệt đối xử
trong xã hội. Trong nghiên cứu của Hoàng Hoa
và cộng sự [9], các tác giả đã chỉ ra nhu cầu
đăng ký tư cách pháp nhân độc lập của đa số
các nhóm cộng đồng tại 10 tỉnh dự án Quỹ toàn
cầu. Trong nghiên cứu của chúng tôi còn cho
thấy quan điểm đa dạng của các tổ chức cộng
đồng về đăng ký tư cách pháp nhân và những
thách thức mà các tổ chức cộng đồng gặp phải.
Đáng chú ý, TCPN hiện nay chưa làm tăng cơ
hội vận động chính sách hay tăng cường tiếng
nói của các tổ chức cộng đồng vì khoảng cách
cơ chế và nhu cầu của các tổ chức cộng đồng;
năng lực kinh tế chính trị của các tổ chức này.
Kertvliet et al. [10] nhận thấy quá trình vận
động mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức
cộng đồng xảy ra phổ biến, nhưng cần thời gian
dài hơi cho những thay đổi chính sách diễn ra.
Trong bối cảnh nguồn lực dành cho HIV/AIDS
bị giảm, có nhiều quan điểm khác nhau về cần
hay không cần có tư cách pháp nhân. Rõ ràng,
cả nhà nước và các tổ chức cộng đồng đều nhận
thấy vai trò không thể thiếu của khối này, nhưng
vẫn còn lưỡng lự trước việc đăng ký hay không
đăng ký tư cách pháp nhân. Có ý kiến cho rằng,
các tổ chức cộng đồng là nguồn nhân lực quý
đã được đào tạo bài bản và có năng lực phòng
chống HIV/AIDS hiệu quả tại Việt Nam, nên
TCPN cần được “cho”. Điều này cũng được đề
cập trong các hội thảo tăng cường năng lực của
các tổ chức cộng đồng về sửa đổi luật ngân sách
nhà nước theo hướng đối với những hoạt động
mà Nhà nước chưa bao phủ được, trong khi đó
các tổ chức xã hội làm tốt, có hiệu quả thì nên
cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các tổ
chức thực hiện [11]. Một số bài học ở Ukraina,
nơi mà cũng có nguồn tài trợ lớn của Global
Fund cho phòng chống HIV/AIDS như Việt
Nam là: vấn đề nảy sinh ở chỗ chứng chỉ để đủ
điều kiện cung cấp dịch vụ cho các tổ chức bên
ngoài nhà nước, bao cấp kinh phí đồng nghĩa
với việc xóa bỏ các tổ chức xã hội dân sự thực
sự xuất phát từ nhu cầu cộng đồng, và sự quan
liêu xảy ra do lợi ích cá nhân đặt trước lợi ích
nhóm [12]. Rõ ràng, trong bối cảnh nguồn ngân
sách bị cắt giảm thì tận dụng nguồn nhân lực
sẵn có là một giải pháp giúp duy trì các kết quả
mà công tác phòng chống HIV/AIDS đã làm
được. Tuy nhiên, tư cách pháp nhân là cần thiết
nhưng chưa đủ để duy trì năng lực tổ chức và
vai trò của các nhóm cộng đồng như trước kia.
Do vậy, nhà nước cần có sự hỗ trợ cho các tổ
chức đã có TCPN để họ có thể phát triển độc
lập và vẫn duy trì các hoạt động phòng chống
HIV/AIDS.
V. KẾT LUẬN
Đa số đại diện các tổ chức cộng đồng,
chuyên gia làm việc trong lĩnh vực phòng chống
HIV/AIDS và các cán bộ trong chính quyền địa
phương nhấn mạnh tầm quan trọng của tư cách
pháp nhân như là cơ hội phát triển bền vững và
hợp pháp. Tuy nhiên thách thức đầu tiên mà các
tổ chức cộng đồng gặp phải là những quy định
và điều kiện đăng ký tư cách pháp nhân và năng
lực của tổ chức. Tiếp theo TCPN có thể giúp
họ phát triển về kinh tế nhưng chưa đảm bảo
để cho phát huy năng lực vận động chính sách
hay có những can thiệp cộng đồng sâu rộng như
giai đoạn kinh phí còn dồi dào. Thêm nữa, việc
có TCPN không làm cho khoảng cách giữa nhà
nước và các tổ chức xã hội gần lại. Có thể nói
TCPN là giải pháp nhiều tổ chức nghĩ tới tuy
nhiên còn nhiều thách thức trong đăng ký và
sử dụng. Chính những thách thức này tạo nên
những băn khoăn và nhu cầu quan điểm khác
nhau về sự cần thiết phải có tư cách pháp nhân.
Nhà nước cần thiết phải có sự hỗ trợ các nhóm,
tổ chức cộng đồng môi trường chính sách thuận
lợi hơn nhằm tận dụng nguồn lực này cũng như
đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cộng đồng
trong bối cảnh mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sidel M. The emergence of a voluntary sector and
philanthropy in Vietnam: Functions, legal regulation and prospects for the future. Voluntas.
1997;8(3):283-302. doi:10.1007/BF02354201.
2. Gray ML. Creating Civil Society? The Emergence
of NGOs in Vietnam. Development and Change.
1999;30(4):693-713. doi:10.1111/1467-7660.00134.
3. Malarney SK. the limits of “state functionalism” and the reconstruction of funerary ritual
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015
465
in contemporary northern Vietnam. American
Ethnologist.
1996;23(3):540-60.doi:10.1525/
ae.1996.23.3.02a00050.
4. Luong HV. Tradition, revolution, and market economy in a North Vietnamese village, 1925-2006. University of Hawaii Press; 2010.
5. Hannah J. Local non-governmentorganizationsinVietnam:
Development, civil society and state-society relations: ProQuest, UMI Dissertations Publishing U6 - ctx_ver=Z39.882004&ctx_enc=info%3Aofi%2Fenc%3AUTF-8&rfr_id=info:sid/summon.serialssolutions.
com&rft_val_fmt=info:ofi/fmt:kev:mtx:dissertation&rft.
genre=dissertation&rft.title=Local+non-government+organizations+in+Vietnam%3A+Development%2C+civil+society+and+state-society+relations&rft.
DBID=C16%3B0U.%3BDMQ%3BDMR%3BKFU%3BG20%3BKFT%3BEU9%3B054%3BH8R%3BK7G&rft.PQPubID=18750&rft.au=Hannah%2C+Joseph&rft.date=2007-01-01&rft.
pub=ProQuest%2C+UMI+Dissertations+Publishing&rft.advisor=Jarosz%2C+Lucy&rft.
inst=University+of+Washington&rft.externalDocID=1283971751¶mdict=en-US U7 - Dissertation;
2007.
6. Vuong T, Ali R, Baldwin S, Mills S. Drug policy in
Vietnam: A decade of change? International Journal
of Drug Policy. 2012;23(4):319-26. doi:10.1016/j.
drugpo.2011.11.005.
7. Hoang T-A. Civil society organisations' roles in
health development in Vietnam: HIV as a case study.
Global public health. 2013;8 Suppl 1:S92.
8. VUSTA. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các
tổ chức xã hội trong phòng chống HIV/AIDS.
2014. http://pctnxh.molisa.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&id=240.
9. Hoa Hn, Trang NnNN. Đánh giá nhu cầu đăng ký
hợp pháp của các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt
động phòng, chống HIV/AIDS. 2011.
10. Kertvliet B, Nguyen QA, Bach TS. Form of engagement between state agencies and civil society organization in Vietnam, Study Report2008.
11. VUSTA. Huy động sự tham gia của các tổ chức xã
hội trong phòng chống HIV/AIDS, 2012.
12. McGill S. NGO Hybridisation as an outcome of
HIV services delivery in Global Fund-supported
programmes in Ukraine. 2015.
THE LEGAL STATUS ISSUE OF COMMUNITY-BASED ORGANIZATIONS IN
PREVENTING HIV/AIDS IN VIETNAM
Tran Thi Ngoc Mai1, Pham Phuong Mai1, Tran Minh Hoang1, Pham Nguyen Ha3,
Le Minh Giang1,2
1
Center for Research and Training on HIV / AIDS, Hanoi Medical University
2
Department of Epidemiology, Hanoi Medical University
3
The Global Fund - VUSTA
A descriptive study was conducted to describe the views of the role and the challenges in registering and using the legal status
through interviews with representatives from
community based organizations (CBOs), professionals working in the field of HIV / AIDS
in Vietnam. In the context of reduced budget,
the legal status of the organization was discussed as a solution to maintain the development of CBOs in Vietnam Nam. However,
there were many challenges that CBOs had to
466
face. The first was the requirement to register
the legal status and response capacity of CBOs.
The second was the opportunity for integration
and development. The third was the gap in the
relations between state agencies and external
organizations. These challenges lead to the
concerns and different views on the need for
legal status.
Keywords: HIV/AIDS, community-based
organizations, legal status
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXV, Số 10 (170) 2015