Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn hải phòng hiện nay...

Tài liệu Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn hải phòng hiện nay

.PDF
119
60
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  ĐINH THỊ TIỆP VẤN ĐỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN HẢI PHÒNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2009 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - ĐINH THỊ TIỆP VẤN ĐỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN HẢI PHÒNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TSKH. LƢƠNG ĐÌNH HẢI HÀ NỘI - 2009 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TSKH. Lương Đình Hải. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2009. Tác giả luận văn Đinh Thị Tiệp 3 ................................................................................................................................. MỤC LỤC Mở đầu ................................................................................................................. 1 Chƣơng 1. Dân chủ và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam ......................................................................................... 10 1.1. Dân chủ, thực hiện dân chủ .......................................................................... 10 1.1.1. Về khái niệm dân chủ................................................................................ 10 1.1.2. Quan niệm về thực hiện dân chủ ............................................................... 19 1.2. Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở nông thôn ................................................ 34 1.2.1. Những nhân tố cơ bản tạo nên tính đặc thù của vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở nông thôn .......................................................................... 34 1.2.2. Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn trong công cuộc đổi mới hiện nay 41 Chƣơng 2. Thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng ...... 48 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội ở nông thôn Hải Phòng ....................................... 51 2.1.1. Về kinh tế - xã hội ..................................................................................... 51 2.1.2. Về văn hoá - xã hội ................................................................................... 57 2.2. Thực hiện dân chủ ở Hải Phòng ................................................................... 62 2.2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng ............................. 62 2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng .. 72 Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm thực hiện và phát huy dân chủ ở nông thôn Hải Phòng trong thời gian tới ....................................................... 78 3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội .............................................................. 78 3.2. Nhóm giải pháp về văn hoá - xã hội ............................................................ 63 4 3.3. Nhóm giải pháp về củng cố và nâng cao năng lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nông thôn nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân .................................................................................................... 90 Kết luận ............................................................................................................ 105 Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 108 5 BẢNG QUY ƢỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH: Chủ nghĩa xã hội HTX: Hợp tác xã XHCN: Xã hội chủ nghĩa 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân chủ đã trở thành khái niệm phổ biến trong đời sống xã hội trên toàn thế giới. Không một tổ chức, một đảng phái, một phong trào chính trị xã hội hay một nhà chính trị nào không nói tới dân chủ, và nêu cao khẩu hiệu dân chủ. Về mặt lý luận, dân chủ là một thuật ngữ chính trị được nói tới nhiều nhất và được thừa nhận phổ biến, nhưng không một thuật ngữ chính trị nào lại đa nghĩa và được giải thích theo nhiều cách rất khác nhau gây lên những tranh cãi bất tận về dân chủ. Ngay lúc sinh thời Mác, Ăngghen, Lênin cũng đã từng viết rất nhiều công trình liên quan tới vấn đề dân chủ. Các ông đã nêu lên những quan niệm thể hiện sự khác biệt rất lớn so với các nhà lý luận tư sản, nêu lên những nhận định, những phê phán rất sâu sắc về nền dân chủ tư sản với những khuyết tật cố hữu của nó. Khi nói về nền dân chủ vô sản Lênin khẳng định dân chủ gấp triệu lần bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào. Đó là chế độ mà nhân dân lao động là người chủ toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đó là chế độ nhằm giải phóng con người vì hạnh phúc của mọi người. Về mặt thực tiễn do điều kinh tế - xã hội và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước là khác nhau, chính vì vậy mà dân chủ ở các nước khác nhau được đánh giá theo những cách nhìn khác nhau, người ta dùng các thước đo khác nhau, do đó thường tự cho mô hình của nước mình là dân chủ, còn các nước khác là kém dân chủ, hoặc không có dân chủ. Ở nước ta, dân chủ là một nội dung của cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo từ những năm mới thành lập. Trong quá trình xây dựng CNXH mấy chục năm qua, dân chủ cũng là vấn đề luôn được quan tâm. Việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại 7 hoá. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng động. Thực hiện và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ kinh tế thấp kém, xuất phát điểm là nền nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản như nước ta. Tuy nhiên so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay việc thực hiện và phát triển dân chủ đang bộc lộ nhiều bất cập. Các cuộc thảo luận trên các diễn đàn khác nhau, đặc biệt là ngay trước các lần Đại hội Đảng IX và X vừa qua. Dân chủ trở thành một nội dung đặc biệt mới được bổ sung vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hải Phòng là một trong bốn thành phố lớn của cả nước. Mặc dù là thành phố công nghiệp, có cảng biển lớn nhất miền Bắc, nhưng khu vực nông thôn Hải Phòng vẫn chiếm diện tích lớn hơn và có dân số đông hơn. Vùng nông thôn Hải Phòng tồn tại, phát triển trong sự liên hệ, tác động qua lại chặt chẽ với sự tồn tại, phát triển của cảng và đô thị Hải Phòng, đó là đặc điểm riêng của nông thôn Hải Phòng so với các vùng nông thôn khác trong cả nước. Với sự quần tụ cư dân nhiều vùng cùng chung sức chống chọi thiên nhiên, cùng nhau chống giặc ngoại xâm nên nông thôn Hải Phòng có kết cấu làng xã cởi mở và năng động hơn, tính bảo thủ, trì trệ ít hơn và tính dân chủ cộng đồng rõ hơn so với nhiều vùng nông thôn Bắc Bộ khác. Mặt khác, do nằm xung quanh đô thị và cảng Hải Phòng, một cửa ngõ chính ra biển của miền Bắc, thông thương với quốc tế và các khu vực khác trong nước, nông thôn Hải Phòng có điều kiện tiếp xúc quốc tế thuận lợi. Những điều đó tạo cho nông thôn Hải Phòng điều kiện để đổi mới và phát triển. Những yếu tố truyền thống đó góp phần làm cho vấn đề dân chủ nông thôn Hải Phòng có những sắc thái riêng, đồng thời cũng giúp cho việc thực hiện và phát huy dân chủ có những thuận lợi nhất định. Bên cạnh đó, do sự tác động của cơ 8 chế mới, do sự chi phối trở lại của đô thị, đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và mở cửa với bên ngoài, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội của Hải Phòng trở nên bức xúc hơn, thậm chí có lúc nóng bỏng hơn. Việc thực hiện dân chủ còn nhiều vấn đề, nhiều nơi thực hiện quy chế dân chủ còn mang tính hình thức, hiệu quả còn hạn chế, chưa đảm bảo được các yêu cầu đặt ra; một số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa nhận thức đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Trung ương... Trong nội bộ nhân dân còn một số chưa nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong thực hiện dân chủ; một bộ phận quá khích còn lợi dụng dân chủ gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự ở một số địa phương, cơ sở làm ảnh hưởng đến việc ổn định tình hình chính trị và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nông thôn Hải Phòng nói riêng và cả thành phố nói chung… Việc giải quyết kịp thời có hiệu quả những bức xúc ấy sẽ làm cho quá trình thực hiện và phát huy dân chủ ở nông thôn Hải Phòng tốt hơn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở nông thôn Hải Phòng,… Sơ lược một vài nột như vậy có thể thấy ở nước ta nói chung, Hải Phòng nói riêng vấn đề thực hiện dân chủ đang là vấn đề cấp bách và nóng bỏng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói rằng, vấn đề dân chủ, việc thực hiện dân chủ từ lâu đã trở thành một tiêu điểm thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận, hoạt động chính trị và hoạt động xã hội nói chung. Ở Việt Nam, đặc biệt từ những năm đổi mới (1986) đến nay, vấn đề dân chủ, vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn… là một vấn đề được các văn kiện và các bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề cập khá nhiều. Các quan 9 điểm chính thống của Đảng, Nhà nước ta về dân chủ được thể hiện tập trung và chủ yếu ở các tài liệu này. Dân chủ và thực hiện dân chủ cũng là đề tài được đề cập rất nhiều từ tất cả các ngành lý luận: triết học, kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học, chính trị học. Dân chủ đã và đang được nghiên cứu từ các góc độ khác nhau: tư tưởng về dân chủ (ví dụ tư tưởng phương Tây, phương Đông về dân chủ, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Hồ Chí Minh về dân chủ...) và thực hiện dân chủ thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và đặc biệt trong quá trình đưa ra các quyết định chính trị. Sản phẩm của việc nghiên cứu về dân chủ được thể hiện dưới những dạng khác nhau: bài báo nghiên cứu, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, công trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở. Dân chủ có thể được đề cập như là một vấn đề chuyên biệt trong đó các tác giả bàn đến khía cạnh như bản chất, tính chất của dân chủ, hình thức, cơ chế thực hiện dân chủ, những điều kiện để phát triển dân chủ... Dân chủ cũng có thể được đề cập như một vấn đề có liên quan, phát sinh từ việc nghiên cứu các vấn đề khác, chẳng hạn vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền.... Hiện nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp đề cập tới dân chủ, thực hiện dân chủ, chẳng hạn đề cập trực tiếp có các đề tài: “Xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền” do GS. TS Đỗ Nguyên Phương và PGS. TS Trần Ngọc Đường làm chủ nhiệm (năm 1992); đề tài “Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta” do PGS. TS Hoàng Chí Bảo làm chủ nhiệm (năm 1995); đề tài “Dân chủ hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” do TS Hồ Tấn Sang làm chủ nhiệm (1991); PGS. TSKH. Lương Đình Hải, “Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay” (Tạp chí Triết học, số 1, 2006); GS.TS. Hoàng 10 Chí Bảo “Những nhận thức lý luận mới về dân chủ qua 20 năm đổi mới và trong văn kiện Đại hội X của Đảng” (Tạp chí Triết học, số 10, 2007). Các công trình đề cập tới dân chủ một cách gián tiếp trong khuôn khổ nghiên cứu về hệ thống chính trị, về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, về xây dựng Nhà nước pháp quyền đề cập đến quan niệm về dân chủ XHCN, chẳng hạn, đề tài cấp nhà nước “Hệ thống chính trị các tỉnh miền núi phía Bắc” do PGS. TS Tô Huy Rứa làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia chủ trì, năm 2001; cuốn sách “Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta”, do GS Nguyễn Đức Bình và PGS. TS Trần Xuân Sầm chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1998); đề tài “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay” do GS. TS Hoàng Chí Bảo làm chủ nhiệm (2000 - 2002); đề tài “Vai trò của các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” do PGS. TSKH Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm (năm 2000 - 2001);… và rất nhiều đề tài khác đã được hoàn thành về vấn đề Đảng lãnh đạo có liên quan tới thực hiện dân chủ ở nước ta. Việc nghiên cứu tư tưởng dân chủ trong di sản lý luận của Mác-Ăngghen, Hồ Chí Minh cũng được chú ý nghiên cứu chẳng hạn đề tài cấp bộ: “Những quan điểm cơ bản của Mác - Ăngghen, Lênin về dân chủ XHCN” do TS. Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ nhiệm, Viện Chủ nghĩa Xã hội khoa học chủ trì, năm 1998; hay luận án Tiến sĩ triết học “Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, của Phạm Văn Bính, năm 2003; “Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của PGS. Hoàng Trang (Tạp chí Lịch sử Đảng, 6/1998). Có thể đánh giá việc nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp vấn đề dân chủ, vấn đề thực hiện dân chủ ở các góc độ khác nhau, cấp độ khác nhau trong những 11 năm qua đã có những thành tựu đáng trân trọng. Đã làm sáng rõ hơn dân chủ theo quan điểm cổ điển, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra một cách đích đáng những nhược điểm, khuyết điểm của việc thực hiện dân chủ ở các nước XHCN trước đây nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Nhiều công trình dù là trực tiếp hay gián tiếp đã đề cập tới việc đổi mới, hoàn thiện mối quan hệ lãnh đạo giữa Đảng với các cơ quan nhà nước, tới việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thay mặt nhân dân giám sát các cơ quan hành pháp, tư pháp. Nhiều công trình còn đề cập tới việc hoàn thiện các cơ chế thực hiện dân chủ. Và thực tế là với Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, Nghị định 29 mà nay là Nghị định 79 của Chính phủ về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm gần đây, vấn đề dân chủ ở nước ta đã có một bước tiến thực chất và rất quan trọng trong việc xây dựng cơ chế thực hiện dân chủ. Trên cơ sở của phát triển lý luận, nhiều công trình, đặc biệt là các bài báo, tạp chí đã góp phần làm rõ những thành tựu dân chủ của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ những luận điểm xuyên tạc của các thế lực chống đối trong và ngoài nước. Trước thực tiễn mới hiện nay của đất nước phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trên mặt trận lý luận cũng chưa có công trình nghiên cứu ở nấc thang cao hơn về dân chủ, đặc biệt vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn. Từ thực tiễn đòi hỏi tiếp tục có những nghiên cứu mới về dân chủ, thực hiện dân chủ ở nông thôn. Nghiên cứu về dân chủ ở nông thôn là một bước tiến tới nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về nền dân chủ XHCN. Nghiên cứu vấn đề dân chủ ở nông thôn Hải Phòng chính là nghiên cứu việc thực hiện và bảo đảm thực hiện dân chủ ở đây để hiểu rõ hơn về chế độ dân chủ của chúng ta và để nhằm đạt đến một nền dân chủ thực sự, hoàn thiện. Trong lĩnh vực nghiên cứu, từ trước đến nay, ở Hải 12 Phòng chưa có một công trình nào nghiên cứu vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng. Các báo cáo tổng kết hoặc báo cáo chuyên đề của các ban, ngành, đoàn thể của thành phố, kể cả của một số ban, ngành của TW, cũng chỉ đề cập đến nội dung cụ thể nào đó của vấn đề dân chủ hoặc chỉ sơ lược trình bày về vấn đề này trong khi phân tích vấn đề dân sinh, dân trí về phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Trong đó, khi vấn đề dân chủ có được nhấn mạnh thì cũng chủ yếu ở mặt trái của nó là sự vi phạm dân chủ. Trong báo cáo tổng kết thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Ban dân vận Thành uỷ, nội dung dân chủ có được đề cập đến, song chủ yếu chỉ đánh giá việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Đó mới chỉ là báo cáo tổng kết thực tiễn, có tính công dụng trực tiếp, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ trong việc xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở. Hay chuyên đề “Việc đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở Hải Phòng”, do Vũ Thị Loan làm chủ nhiệm (2007), chuyên đề này đã nghiên cứu sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào dưới góc độ triết học nghiên cứu vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng một cách có hệ thống để chỉ ra thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn, đặc biệt ở nông thôn Hải Phòng và đề xuất một số giải pháp để phát triển việc thực hiện dân chủ ở nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: * Mục đích: Tìm hiểu việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện này. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục củng cố và thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng. 13 * Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, luận văn hướng vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: Một là, phân tích việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay, từ đó làm rõ thực trạng dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay, những vấn đề đặt ra. Hai là, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu về vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu về việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng từ khi đổi mới cho đến nay. Đưa ra các giải pháp để thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng tốt hơn trong giai đoạn sau. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và cơ chế thực hiện nó, những kết quả tổng kết lý luận và thực tiễn mới về vấn đề này được công bố gần đây. - Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời chú ý sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp logớc và lịch sử, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá… trong quá trình nghiên cứu và trình bày nội dung của đề tài. 14 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ thực trạng thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng - Kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng ngày càng tốt hơn. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy, đặc biệt đối với cấp xã, huyện trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền ở địa phương trong việc thực hiện vấn đề dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chƣơng 1. Dân chủ và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam. Chƣơng 2. Thực trạng việc thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng. Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm thực hiện và phát huy dân chủ ở nông thôn Hải Phòng trong thời gian tới. 15 Chƣơng 1 DÂN CHỦ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 1.1. Dân chủ, thực hiện dân chủ 1.1.1. Về khái niệm dân chủ Thuật ngữ dân chủ xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại, từ thời Hy-Lạp cổ đại. Dân chủ (Demokratia), trong tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép, được cấu thành từ hai từ gốc là: demos là nhân dân, Kratos là quyền lực. “Như vậy xét về mặt từ nguyên dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân” [36, tr.21]. Nói cách khác, dân chủ là một khái niệm dùng để chỉ chế độ xã hội mà ở đó nhân dân là chủ thể của quyền lực. Sự phát triển của xã hội và cùng với nó, sự phát triển của tri thức con người đã làm xuất hiện những cách tiếp cận mới đối với phạm trù dân chủ. Dân chủ có thể được hiểu là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước của một giai cấp; dân chủ cũng có thể được hiểu là một nguyên tắc tổ chức, quản lý xã hội; là tính chất của các mối quan hệ giữa các cộng đồng người; là một giá trị xã hội, một lý tưởng giải phóng con người hướng tới tự do và thực hiện quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân mình; dân chủ là sản phẩm của văn minh; là điều kiện và tiều chuẩn của tiến bộ xã hội. Dân chủ là một khái niệm có tính lịch sử. Từ trước khi khái niệm dân chủ ra đời, trong thời kỳ Cổ đại Hy Lạp đã tồn tại một hình thức đặc biệt của dân chủ. Đó là “dân chủ quân sự” [29, tr.164] hay còn gọi là “dân chủ nguyên thuỷ” [29, tr.167]. Dân chủ quân sự trong thời kỳ Cộng sản nguyên thuỷ là một hình thức sinh hoạt của cộng đồng; là một hình thức mà nhờ đó, hoạt động của thành 16 viên trong xã hội được hướng vào tính tổ chức và trật tự nhằm đạt mục tiêu chung về sự phát triển xã hội. Trong nền dân chủ quân sự, quyền lực của nhân dân là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nó được hiểu là quyền lực tối cao vốn có ở con người, quyền lực mà mỗi người phải thực hiện một cách vô điều kiện, tư tưởng, tình cảm và hành động của mình. Dân chủ quân sự thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là một thể chế xã hội tự quản dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém, tư liệu sản xuất là của chung trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành. Nền dân chủ quân sự được thay thế bằng nền dân chủ chủ nô. Trong quá trình tồn tại, do nhiều nguyên nhân mà chủ trương cải cách dân chủ đã được đặt ra. Các cuộc cải cách đó đã tạo ra nguồn lực to lớn cho sự phát triển xã hội, đáp ứng tốt các yêu cầu đối nội và đối ngoại, đồng thời, chúng cũng góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp chủ nô, qua đó, góp phần củng cố vững chắc địa vị và quyền lực chính trị của nhà nước Aten. Dân chủ chủ nô được xác lập và phát triển thông qua các cuộc cải cách chính trị của Xô-lông (năm 594 trước công nguyên) và Cơlít - Xten (năm 509 trước công nguyên). Từ đó, chế độ dân chủ chủ nô được hình thành, phát huy tác dụng trong quản lý xã hội theo những chuẩn mực dân chủ. Sau khi nhà nước Aten bị tan vỡ, chế độ phong kiến được xác lập. Mọi thành tựu của nhà nước Aten bị xoá bỏ và thay vào đó là những giáo lý khắc nghiệt trói buộc cuộc sống con người cũng như kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì lẽ đó, chế độ phong kiến là đêm trường Trung cổ đối với các nước ở Châu Âu, ách thống trị phong kiến kéo dài hơn một ngàn năm đã làm cho xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội diễn ra gay gắt. Giai cấp thống trị phong kiến căm thù khoa học, xã hội sống trong cảnh tối tăm, dốt nát, chỉ có thần học là được tồn tại và chi phối toàn bộ đời sống tinh thần. 17 Nhưng cũng chính trong lòng xã hội phong kiến, trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất đã phát sinh một phương thức sản xuất mới cao hơn hẳn phương thức sản xuất phong kiến - phương thức sản xuất TBCN. Sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất mới làm cho phương thức sản xuất phong kiến ngày càng lỗi thời và trở thành đối tượng lật đổ của CNTB. Để tồn tại và phát triển, ngay buổi đầu hình thành, CNTB đã phải tiến hành cuộc đấu tranh trên nhiều mặt mà trước hết là trên lĩnh vực tư tưởng, chống lại thần học, thần quyền, chống lại mọi sự ức chế tình cảm và áp chế tư tưởng, đòi tự do bình đẳng, bình quyền và bảo vệ chân lý khoa học. Nhân loại đã biết đến thời đại Phục hưng (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI). Đó là một giai đoạn tiêu biểu trong con đường đấu tranh của nhân dân nhằm thủ tiêu chế độ phong kiến dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản để tiến hành giải phóng con người theo các chuẩn mực dân chủ tư sản và khẳng định phương thức sản xuất TBCN. Điểm nổi bật của giai đoạn này là sự xuất hiện trào lưu văn hoá mới, muốn khôi phục những giá trị văn hoá của nền văn minh Hy lạp - La mã giàu tính chiến đấu và tính dân chủ. Tư tưởng chủ đạo của phong trào văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn - tức là ý tưởng đề cao con người, quyền con người, ca ngợi các vẻ đẹp thân thể, trí tuệ, ý chí của con người. Đây cũng chính là nội dung của vấn đề dân chủ thời kỳ này. Khái niệm dân chủ trên lĩnh vực chính trị lúc này chứa đựng trong mình những khát vọng, tuy còn mơ hồ về bình đẳng xã hội theo quan điểm tư sản. Trào lưu tư tưởng này tập trung đấu tranh chống đặc quyền phong kiến, khẳng định những giá trị thực sự của cuộc sống con người, đấu tranh giải phóng con người khỏi sự cầm tù của xã hội thần dân phong kiến. Tên tuổi nổi bật trong thời kỳ này, về triết học, thiên văn học có Côpécních, Brunô; về văn học có Sếchxpia; về hội họa có Lêona Đờvanhxi... Tuy nhiên sự 18 phát triển mạnh mẽ của phong trào văn hoá Phục hưng đã bị chế độ phong kiến chống lại quyết liệt, những nhà văn hoá Phục hưng bị đàn áp bởi chính quyền phong kiến và các toà án dị giáo. Đến giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, vấn đề dân chủ lại tiếp tục được các nhà tư tưởng tư sản quan tâm. Từ giữa thế kỷ XVIII các nhà tư tưởng tư sản tiên tiến đã liên tiếp tấn công vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới, tiến bộ và cách mạng. Không phải ngẫu nhiên khi lịch sử gọi thế kỷ XVIII là thế kỷ “Khai sáng” và trào lưu tư tưởng đó là trào lưu tư tưởng “Khai sáng”. Trào lưu này góp phần hoàn thành lý luận và tư tưởng về quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, nêu ra những nguyên tắc tổ chức nhà nước, quản lý xã hội, hệ thống thiết chế quyền lực có khả năng làm cho ý tưởng dân chủ tư sản trở thành hiện thực sau khi giai cấp tư sản hoàn thành việc giành quyền lực nhà nước từ tay giai cấp phong kiến. Trào lưu này chủ trương làm bùng lên ánh sáng văn hoá, soi rọi vào đêm trường Trung cổ, xua tan tình trạng tối tăm, ngu muội do chủ nghĩa kinh viện và thần học bao trùm, áp đặt lên toàn bộ xã hội, đấu tranh quyết liệt chống lại thần quyền, thần học, nhất là chủ nghĩa kinh viện và chủ nghĩa thầy tu ngu muội, nhằm mở mang trí tuệ, đổi mới tư duy; nêu cao tư tưởng dân chủ về bình quyền, bình đẳng; khẳng định thế giới quan duy vật, hình thành chủ nghĩa vô thần khoa học. Tiêu biểu thời kỳ này có Sáclơ Lu-i Môngtexkiơ (1689-1755) lên án chế độ độc tài là tàn bạo và cho rằng chế độ cộng hòa là tốt đẹp, nhưng thực tế không thực hiện được. Chống lại nền quân chủ chuyên chế tập trung mọi quyền lực vào tay vua, nguyên tắc tổ chức quyền lực “Tam quyền phân lập” của Môngtexkiơ là hết sức tiến bộ với lập luận rằng phân quyền và hạn chế quyền hành là những bảo đảm chủ yếu của tự do. Tất cả mọi người trong xã hội từ người có địa vị cao nhất đến người có địa vị thấp nhất đều phải tuân theo pháp luật. Đây là tư tưởng rất tiến bộ. Vônte (1694 - 1778) nhà triết học, nhà 19 văn, là người đại diện xuất sắc nhất của trào lưu văn hoá khai sáng. Ông đã kịch liệt lên án tính chất dã man, tàn bạo, phản động và lạc hậu của chế độ chuyên chế ở Pháp và nhà thờ Thiên chúa giáo. Giăng Giắc Rútxô (1712-1778) là người nổi tiếng đấu tranh đòi dân chủ với thuyết bình đẳng nhằm chống lại chính quyền phong kiến phản nhân dân. Trong khi lên án chế độ phong kiến chuyên chế, Rutxô lên tiếng phê phán chế độ tư hữu và những quan hệ xã hội do chế độ đó sinh ra, ông cho rằng sự bất bình đẳng là hậu quả của chế độ tư hữu và kêu gọi mọi người đều phải bình đẳng. Nền dân chủ trong quan niệm của Rút xô là nền dân chủ của đa số, là dân chủ thực sự của nhân dân. Mặc dù còn những điểm hạn chế, nhưng với những tư tưởng tiến bộ nêu trên, Rútxô vẫn được coi là nhà cách mạng dân chủ xuất sắc nhất. Điđơrô (1713 - 1784) đã nêu ra ý tưởng về một nhà nước Cộng hoà dân chủ để thay thế chế độ phong kiến. Với những nhà khai sáng như vây, trào lưu này là một bước phát triển mới của tư tưởng dân chủ, là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cách mạng tư sản nhất là cách mạng tư sản Pháp. Đóng góp cơ bản của trào lưu khai sáng là nội dung dân chủ, trong đó nổi bật là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, nhằm chống lại chế độ phong kiến. “Ngọn đòn quyết định sự cáo chung của chế độ phong kiến Tây Âu là cách mạng tư sản, mở đầu là cách mạng tư sản Hà Lan, Anh và điển hình nhất là cach mạng tư sản Pháp. Nền dân chủ tư sản được hình thành tưởng đối đầy đủ trong quá trình đấu tranh, cách mạng tư sản một nấc thang quan trọng của tiến bộ lịch sử” [41, tr.25]. So với chế độ quân chủ do một người (vua) chuyên chế độc tài thì nền dân chủ tư sản là bước tiến trong lịch sử phát triển dân chủ của xã hội loài người. Từ dân chủ của một người, vì một người, do một người (quân chủ), tiến đến dân chủ của một giai cấp, vì một giai cấp, do một giai cấp (giai cấp tư sản). Về thực chất, nền dân chủ đó vẫn là nền dân chủ dành cho thiểu số giai cấp tư sản, chứ không phải là dân chủ cho nhân dân lao động. Nền dân chủ đó 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất