MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................................................2
I. Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.......................................2
1. Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế:..........................................2
2. Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
thuế................................................................................................................................................3
3. Vai trò công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý thuế.................5
4. Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế:.......................5
II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam năm 2012...6
1. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam 2012................6
2. Thực trạng vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay....................................8
III. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế. 9
1. Những kiến nghị hoàn thiện chung...........................................................................................9
2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện về vấn đề thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay. 10
3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện về xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay....11
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ....................................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................12
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thanh tra thuế là một tổ chức trong hệ thống tổ chức của thanh tra nhà nước, đồng thời là tổ
chức cấu thành trong bộ máy quản lý của ngành Tài chính, là một công cụ quản lý tài chính có
hiệu lực, đảm bảo cho phép luật, các chính sách chế độ và kế hoạch ngân sách nhà nước được
chấp hành nghiêm chỉnh. Bên cạnh đó, thuế còn là nguồn thu quan trọng và chủ yếu trong nguồn
thu ngân sách nhà nước (NSNN) vậy nên vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
thuế càng trở nên quan trọng, nhằm đảm bảo tính công bằng và ổn định nguồn thu cho NSNN. Để
tìm hiểu rõ về vấn đề này, trong bài tiểu luận học kỳ em xin được tìm hiểu đề tài: “ Vấn đề thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt
Nam năm 2012”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.
1. Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế:
1.1. Thanh tra, kiểm tra về thuế
Theo luật quản lý thuế hiện hành ở nước ta:
- Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính chất nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế
được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của người nộp thuế. Việc
kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở của người nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ không tự giác sửa
đổi, bổ sung những nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung
kiểm tra thuế là việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế
nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
- Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Thanh tra
thuế được thực hiện theo định kỳ đối với người nộp thuế lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng, quy
mô lớn và phức tạp hoặc với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để
giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các
cấp hoặc bộ trưởng Bộ tài chính.
1.2. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
thực hiện xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn, xử lý vi phạm pháp luật là sự
bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại
xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
Xử lý vi phạm pháp luật về thuế có thể được hiểu là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
hay hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về thuế.
2
2. Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm trong lĩnh
vực thuế
2.1. Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế:
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
- Khái niệm pháp luật thanh tra, kiểm tra: Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực thuế của nhà nước.
- Đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra:
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là một bộ phận trong hệ thống pháp luật thuế nói riêng và
pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế nói chung. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của pháp luật
thanh tra, kiểm tra thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn có những đặc điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chứa đựng những quy định mang tính chất chuyên
ngành. Tức là nó thực hiện một mảng riêng biệt đó là thanh tra, kiểm tra thuế. Theo quy định của
pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế thì thanh tra thuế có chức năng giúp Bộ tài chính, ngành thuế
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
chủ yếu là các quy định về quy trình, quy phạm liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật trong quá
trình quản lý thuế.
Thứ hai, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận của pháp luật thanh tra, kiểm tra vì vậy
nó được quy định trong luật thanh tra. Tuy nhiên do là pháp luật chuyên ngành nên chủ yếu nó
được quy định trong Luật quản lý thuế, ngoài ra nó còn được quy định trong các luật khác có liên
quan.
Thứ ba, Ngoài vai trò chức năng, quyền hạn được quy định trong Pháp luật thanh tra nói
chung thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn được quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Đặc điểm này cũng xuất phát từ thực tiễn công tác thanh tra, kiểm tra thuế vì trong
nhiều trường hợp cần thiết việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ giúp cho việc thực
hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế đạt được hiệu quả cao.
2.1.2. Những nội dung chủ yếu của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
- Quy định về nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế: Đây là tư tưởng, quan điểm chủ đạo xuyên
suốt toàn bộ quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế và nó có
tính bắt buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra
thuế.
- Quy định về kiểm tra thuế: Đây là bộ phận pháp luật quy định về các hình thức kiểm tra
thuế, nội dung, mục đích, quy trình kiểm tra thuế và cách thức xử lý trong và sau hoạt động kiểm
tra thuế.
3
- Quy định về thanh tra thuế: Bộ phận pháp luật này quy định về các trường hợp thanh tra
thuế, thủ tục, trình tự tiến hành, quy định cơ cấu thành phần đoàn thanh tra, điều kiện đối với
trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên…
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn của chủ thể
có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
- Quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong quá trình thanh tra
kiểm tra thuế.
2.2. Những vấn đề chung của pháp luật và xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật về thuế
- Khái niệm: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế, do
tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải
chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình
- Đặc điểm:
Có thể nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật về thuế qua những dấu hiệu sau:
Về phương diện chủ thể: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi được thực hiện bởi các chủ thể
là tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu thuế như người nộp thuế, cơ quan
thuế hoặc công chức ngành thuế. Về phương diện khách quan: vi phạm pháp luật thuế là hành vi
trái pháp luật. Về phương diện chủ quan: vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh mức độ
lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người thực hiện.
Về phương diện khách thể: hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại đến những lợi ích
cụ thể được pháp luật bảo vệ.
2.2.2. Phân loại vi phạm pháp luật thuế
Hành vi vi phạm pháp luật thuế thuộc về một trong các hành vi chủ yếu sau:
- Vi phạm hành chính về thuế: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là hành vi làm trái các
quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử
lý hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính.
- Vi phạm hình sự về thuế: là hành vi trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật
hình sự bảo vệ.
- Ngoài ra còn có các vi phạm khác về thuế: Nhìn từ góc độ pháp lý thì còn có các vi phạm
khác về thuế như: quy định về hình thức tờ khai đăng ký thuế, hình thức của văn bản đăng ký kê
khai thuế và văn bản thông báo thuế, hình thức văn bản quyết định giải quyết khiếu nại về thuế…
2.2.3 Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế
4
- Chế tài hành chính: Theo quy định của pháp luật hiện hành, các biện pháp chế tài hành chính
bao gồm: biện pháp cảnh cáo, phạt tiền… đối với các hành vi vi phạm khác nhau sẽ có các hình
thức và mức xử phạt khác nhau. Hình thức xử phạt và mức xử phạt vi phạm pháp luật hành chính
về thuế được quy định trong Luật quản lý thuế và Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 về
xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và các văn bản
khác có liên quan
- Chế tài hình sự: Về phương diện lý luận thì chế tài hình sự là trách nhiệm pháp lý mà nhà
nước áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng hành vi này có liên quan
trực tiếp đến lĩnh vực thuế. Chế tài hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và các
văn bản khác có liên quan.
3. Vai trò công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý thuế
Công tác thanh tra, kiểm trra, xử lý vi phạm trong quản lý thuế là hoạt động không thể thiếu
được trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý thuế nói riêng. Trong hoạt
động quản lý thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm càng trở nên hết sức cần thiết.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, là
công cụ bảo vệ kinh tế trong nước và ngăn ngừa, răn đe các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế,
chống thất thu ngân sách nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế thì công
tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm thuế càng cần được coi trọng để có thể mang lại hiệu quả
thực hiện cao nhất.
4. Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế:
- Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Đây là mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Công tác thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý thuế nhằm đảm bảo
cho các quy định về nộp thuế được chấp hành một cách đầy đủ. Chính tính chất thường xuyên của
hoạt động này đã có tính chất phòng ngừa các vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc thanh tra, kiểm tra
thuế sẽ chỉ rõ các sai phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra và có tính chất răn đe với những
người có ý định vi phạm pháp luật thuế.
- Bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Bảo đảm không
bị thất thoát từ các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
- Bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế; bảo đảm sự cân bằng trong nghĩa
vụ nộp thuế; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cuat công dân thực
hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
5
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý thuế mà cụ thể là cán bộ thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp
luật thuế
II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam
năm 2012
1. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam 2012
1.1 Những kết quả đạt được
Trên thực tế trong mấy năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật quản lý thuế được ban hành
ngày 29/11/2006 thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã đạt được những bước phát triển nhất định.
Qua thanh tra, ngoài việc tăng thu vào NSNN khoản tiền thuế khai thiếu, thuế ẩn lậu còn tập trung
đôn đốc các khoản tiền thuế nợ đọng bị chiếm dụng vào ngân sách; Phát hiện các dạng ẩn lậu thuế
để xử lý kịp thời và kiến nghị điều chỉnh bổ sung chính sách cho phù hợp với thực tế. Cụ thể:
Năm 2012, kế hoạch thanh tra tập trung vào các doanh nghiệp (DN) lỗ có dấu hiệu chuyển
giá, DN có hoạt động giao dịch liên kết. Qua thanh tra, kiểm tra đã xác định nhiều DN từ lỗ đã có
lãi. Công tác thanh tra cả năm 2012 thực hiện được trên 7.000 DN tăng 15,4% so với thực hiện
năm 2011 là 6.101 DN, đạt 90,1% kế hoạch năm 2012. Tổng số truy thu, truy hoàn và phạt ước
phấn đấu cả năm đạt 5.500 - 6.000 tỷ đồng, tăng 61%-76% so với cùng kỳ năm 2011(3.409 tỷ
đồng).
Tập trung thanh tra các DN kê khai lỗ bước đầu đã có tác dụng, đánh động đến các DN
thường xuyên khai lỗ, đặc biệt đối với các DN có quan hệ giao dịch liên kết. Một số trường hợp
phải điều chỉnh lại giá bán, giá gia công, DN kê khai lỗ không nộp thuế, sau khi thanh tra phải nộp
thuế truy thu và phạt, mất quyền ưu đãi, thu hồi thuế GTGT đã hoàn hoặc giảm trừ số lỗ.
Song song với việc triển khai công tác theo kế hoạch, công tác thanh tra còn tập trung vào
thực hiện thanh tra chuyên đề, được triển khai toàn diện từ Tổng cục tới các cục thuế, đem lại hiệu
quả tốt, cụ thể:
- Chuyên đề kiểm tra, đôn đốc nợ đọng: Toàn Ngành đã thực hiện thanh tra, kiểm tra tại 307
DN, số tiền thuế kiến nghị xử lý truy thu và đôn đốc nợ đọng vào NSNN 3.227,9 tỷ đồng (trong
đó: tăng thu cho NSNN qua thanh tra, kiểm tra hơn 1.281,2 tỷ đồng, chiếm 28,85% tổng số truy
thu qua thanh tra, kiểm tra toàn Ngành, đôn đốc số thuế nợ đọng còn phải nộp NSNN số tiền hơn
1.946,7 tỷ đồng); giảm khấu trừ thuế giá trị gia tăng (GTGT) 39 tỷ đồng; giảm lỗ 455,9 tỷ.
Riêng tại Tổng cục Thuế đã xử lý tại 97 tập đoàn, tổng công ty kiến nghị xử lý truy thu và đôn
đốc nợ đọng vào NSNN số tiền 2.207 tỷ (trong đó: số tiền thuế tăng thêm qua thanh tra, kiểm tra
là 861,7 tỷ đồng, đôn đốc thu số thuế nợ đọng là 1.345,7 tỷ đồng), giảm khấu trừ hơn 34,2 tỷ
đồng, giảm lỗ hơn 158,2 tỷ đồng, ngoài ra qua thanh tra, kiểm tra đôn đốc thu nộp Đoàn kiểm tra
6
tại Tập đoàn Cao su và Tập đoàn Than – Khoáng sản còn yêu cầu DN tự điều chỉnh kê khai nộp
NSNN năm 2012 số tiền 725 tỷ đồng.
- Chuyên đề kiểm tra ngân hàng thương mại: Toàn ngành Thuế đã ban hành 97 quyết định
thanh, kiểm tra đối với các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, trong đó đã hoàn thành thanh, kiểm
tra đối với 94 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, ra quyết định truy thu và phạt hơn 150,9 tỷ đồng,
giảm khấu trừ thuế GTGT 5,1 tỷ đồng và đôn đốc thu nộp 1.415,6 tỷ đồng, trong đó tại Tổng cục
Thuế đã thanh, kiểm tra tại 19 ngân hàng thương mại và kiến nghị truy thu thuế tăng thêm qua
thanh, kiểm tra là 92 tỷ đồng; Giảm khấu trừ thuế GTGT là 3,1 tỷ đồng; đôn đốc thu vào NSNN số
thuế tồn đọng năm 2011 là 1.214,3 tỷ đồng.
- Phối hợp với Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước (Cục Phòng chống rửa tiền)
nắm bắt các thông tin về các giao dịch thanh toán qua ngân hàng có dấu hiệu đáng ngờ của một số
DN kinh doanh hàng hóa không có thật và sử dụng bất hợp pháp hóa đơn, kê khai thuế GTGT đầu
vào và xác định chi phí khi tính thu nhập chịu thuế không đúng quy định... theo đó xác định thuế
GTGT tăng qua thanh tra là: 3,6 tỷ đồng; số thuế TNDN tăng qua thanh tra là 8,38 tỷ đồng. Qua
thanh tra đã chỉ đạo 14 Cục thuế thành lập bộ phận xử lý các DN thanh toán qua ngân hàng có dấu
hiệu đáng ngờ để nghiên cứu, xử lýthông tin, thanh́ , kiểm tra thuế, đề xuất xử lý theo chế đô ̣ quy
định đối với các DN đóng trên địa bàn cógiao dịch thanh toán qua ngân hàng có dấu hiê ̣u đáng
ngờ nhằm chống thất thu thuế.
Việc tập trung thanh tra theo các chuyên đề vừa qua đạt hiệu quả cao, việc xử lý được toàn
diện, thống nhất trong cả Ngành không bỏ sót nguồn thu đặc biệt là đối với những ngành nghề
đang được dư luận quan tâm. Riêng đối với thanh tra chuyên đề các DN lỗ trong toàn Ngành đã
mang lại kết quả, truy thu, phạt hành vi vi phạm pháp luật thuế và điều chỉnh giảm khá lớn số lỗ
của các DN kê khai, chấn chỉnh việc kê khai thuế của DN
1.2 Hạn chế
Thứ nhất, thực trạng trốn thuế hiện diễn ra khá phổ biến, nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa
có giải pháp nào thực sự hữu hiệu. Ví dụ, việc chuyển giá, DN làm từ hàng chục năm nay, nhưng
ngành thuế vẫn không đủ nhân lực để làm triệt để mà chỉ làm được một số DN. Hơn nữa, hiện nay
theo quy định về thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước chỉ dựa trên cơ sở DN tự kê khai thuế,
nộp thuế là chủ yếu, sau đó ngành thuế mới thực hiện chức năng hậu kiểm. Nhưng thực tế, ngành
thuế không thể nào thực hiện hậu kiểm hết số DN trên địa bàn. Và đến khi phát hiện ra có sai
phạm thì DN đã “cao chạy xa bay”…
Thứ hai, thực hiện thanh tra. Thời gian qua, việc phân công, phân nhiệm giữa các thành viên
trong đoàn thanh tra, trách nhiệm của lãnh đạo bộ phận thanh tra chưa rõ ràng, cụ thể, còn trùng
lắp yêu cầu quản lý; việc thực hiện các chế độ báo cáo tiến độ cuộc thanh tra, xử lý các vướng mắc
phát sinh trong quá trình thanh tra chưa kịp thời, và bộ phận thanh tra chưa tạo được hình ảnh
7
người cán bộ làm công tác thanh tra đối với người nộp thuế (NNT), làm giảm hiệu quả thanh tra
thuế. Trong khi đó, số lượng NNT được thanh tra còn ít dẫn đến tình trạng có DN nhiều năm
không được thanh tra dễ dẫn đến tình trạng sai phạm mang tính chất hệ thống, kéo dài từ năm này
sang năm khác.
Thứ ba, lập kế hoạch thanh tra. Việc xây dựng kế hoạch thanh tra ở một số cơ quan thuế địa
phương còn mang tính hình thức, chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ đảm nhiệm công
tác xây dựng kế hoạch. Do cán bộ thanh tra thuế mới tiếp cận với phương pháp thanh tra dựa trên
cơ sở phân tích rủi ro, đặc biệt là phân tích NNT trước và sau thanh tra, nên vẫn còn thiếu kinh
nghiệm. Hơn nữa, do trình độ của cán bộ thanh tra không đồng đều, nên việc lập kế hoạch thanh
tra chưa thực sự sát đúng với khả năng thực hiện của cơ quan thuế.
Thứ tư, việc phối hợp liên ngành giữa ngành thuế và các cơ quan liên quan vẫn còn bất cập,
thiếu hiệu quả. Văn bản phối hợp ký kết giữa các cơ quan như hải quan, quản lý thị trường, công
an... với ngành thuế thì nhiều, nhưng chỉ mang tính hình thức.
Thứ năm, vướng mắc về cơ chế, chính sách. Việc giám sát hoạt động thanh tra thuế còn gặp
nhiều khó khăn, do một số bất cập về chính sách. Theo Luật Thanh tra hiện hành, sau khi thành
lập đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải giám sát đoàn thanh tra hoặc cử người giám
sát. Tuy nhiên, trên thực tế, do số lượng biên chế của bộ phận thanh tra ngành Thuế còn hạn chế,
trong khi cùng thời điểm phải tổ chức nhiều đoàn thanh tra, dẫn đến không đủ người để giám sát.
Ngoài ra, trong quy trình thanh tra quy định sổ nhật ký chỉ có một và do trưởng đoàn thanh tra
quản lý, trong khi đó đoàn thanh tra được chia thành các tổ, nhóm làm việc độc lập với trưởng
đoàn thanh tra, nên rất khó khăn cho trưởng đoàn thanh tra trong việc theo dõi, ghi sổ nhật ký
thanh tra, làm mất nhiều thời gian của trưởng đoàn.
2. Thực trạng vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay
2.1 Ưu điểm
Pháp luật quản lý thuế hiện hành đã quy định khá rõ về nội dung như: Các đối tượng bị xử lý
vi phạm; các hành vi vi phạm; các hình thức xử lý; thời hiệu xử phạt; mức phạt; thẩm quyền xử
phạt; thủ tục xử lý vi phạm; thi hành quyết định xử phạt, hoãn chấp hành quyết định xử phạt;
chuyển quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế…
Năm 2007, Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm và Tổng cục Thuế đã ký Quy chế phối
hợp số 1527/QCPH-TCT-TCCS đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm trong
lĩnh vực thuế. Sự phối hợp giữa hai cơ quan này đã góp phần đẩy nhanh quá trình điều tra, xử lý
và thu hồi hàng trăm tỷ đồng tiền thuế vi phạm. Thống kê của liên ngành cho thấy, 5 năm qua, cơ
quan Công an đã khám phá và phối hợp với cơ quan Thuế xử lý hình sự 218 vụ, xử lý hành chính
10.155 vụ việc vi phạm trong lĩnh vực thuế, thu hồi cho ngân sách hơn 782 tỷ đồng tiền trốn thuế,
tiền phạt vi phạm hành chính về thuế.
8
Ước tính năm 2012 đã truy thu, nộp ngân sách 12.600 tỷ đồng. Trong đó có một số vụ việc
điển hình như: Tại Công ty CP tập đoàn Y dược Bảo Long, qua tiến hành thanh tra cơ quan Thuế
Hà Nội đã đề nghị Công an TP. Hà Nội xử lý hành vi trốn thuế với số tiền 938,8 triệu đồng; tại
Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và xếp hạng DN Việt Nam, cơ quan Thuế Hà Nội đã thanh tra
và phát hiện Công ty trốn thuế TNDN với số tiền 1,028 tỷ đồng thông qua việc không ghi chép
trong sổ sách kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp, đối với việc thực
hiện mua bán quyền mua căn hộ.
2.2 Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật xử lý vi phạm pháp luật thuế còn có những hạn chế cần
xem xét, đánh giá để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, chính sách pháp luật: Một số chính sách pháp luật thường xuyên sửa đổi, bổ sung.
Thời gian cung cấp tài liệu, hồ sơ được quy định trong Quy chế phối hợp là 10 ngày, tuy nhiên có
một số vụ án, vụ việc có tính chất nghiêm trọng cần giải quyết nhanh. Do đó cơ quan Thuế cần
linh động rút ngắn thời gian cung cấp tài liệu cho cơ quan Công an. Song, một số trường hợp tài
liệu cơ quan Thuế cung cấp không đầy đủ, trễ hạn hoặc nhờ doanh nghiệp photo tài liệu để cung
cấp cho Công an, dẫn đến lộ, lọt thông tin ảnh hưởng đến công tác điều tra của Công an.
Thêm nữa, thời hạn tối đa để cơ quan Công an điều tra kết luận khởi tố hay không khởi tố đối
với một vụ việc là hai tháng, nhưng trên thực tế thời gian thụ lý giải quyết của Công an kéo dài
hơn so với quy định. Do vậy, có trường hợp khi nhận được kết quả hồi báo từ Công an để xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, thì doanh nghiệp đã bỏ trốn, Chi cục không có cơ sở để ra
quyết định xử phạt.
Thứ hai, cơ quan thuế không theo dõi giám sát thông tin doanh nghiệp kịp thời, điển hình như
vụ việc chuyển giá của Coca Cola, Kengnam... Những hành vi trốn kéo dài nhiều năm liền nhưng
các cơ quan thuế không hề phát hiện và xử lý kịp thời.
Thứ ba, đối với một số loại thuế như thuế thu nhập DN không nên xử lý theo hướng mang
tính răn đe mà cần có biện pháp xử lý mạnh tay. Thực tế hiện nay, việc các DN trốn thuế rất phổ
biến, nếu các biện pháp xử lý chỉ mang tính răn đe thì không đủ để hạn chế việc trốn thuế của DN.
III. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
thuế ở Việt Nam hiện nay
1. Những kiến nghị hoàn thiện chung
Thứ nhất, cán bộ thuế cần phải được đào tạo để nâng cao trình độ cũng như để đấu tranh và
xử lí có hiệu quả với những hành vi trốn thuế, gian lận thuế một cách rất tinh vi, xảo quyệt. Bên
cạnh việc nâng cao trình độ thì việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ thuế cũng cần
được các ngành quan tâm thường xuyên, liên tục. Các cán bộ thuế phải có nhiệm vụ chấp hành
9
pháp luật cũng như nội quy của ngành. Các trường hợp VPPL của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
cần được xử lí nghiêm. Vì vậy, không chỉ giáo dục ý thức pháp luật mà cơ quan quản lí nhà nước
phải luôn luôn có sự kiểm tra đối với hoạt động của các cán bộ trong cơ quan.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế theo hướng ổn định, dễ dàng triển khai trong
thực tế, giảm tải các văn bản hướng dẫn cồng kềnh, chồng chéo. Sửa đổi những quy định gây khó
khăn trong quá trình thực thi đối với cả người áp dụng và chấp hành luật. Ngành thuế cũng cần
chuẩn hóa các quy trình mẫu biểu kê khai thuế để đưa lên mạng, phát hành sách hướng dẫn đăng
ký thuế điện tử, sách hướng dẫn công tác kiểm toán và đánh giá hành vi chuyển giá.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế thu, nộp thuế để đối tượng nộp thuế dễ dàng thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Chẳng hạn:
- Các cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời ban hành văn bản QPPL trong lĩnh vực thuế. Đồng
thời cũng phải kịp thời bãi bỏ những quy định không còn phù hợp. Trong thời gian qua, Nhà nước
đã ban hành nhiều đạo luật thuế, điều này đã cải tiến được công tác thu nộp thuế, tăng cường
nguồn thu cho NSNN.
- Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế.Việc cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp thuế và cán bộ thu thuế khi thực
hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở các luật thuế, pháp lênh thuế, cơ quan thuế đã có những sáng kiến, biện
pháp để đơn giản hóa thủ tục thu thuế.
- Tiến hành trao đối thường xuyên giữa các cơ quan thuế với các đối tượng nộp thuế. Qua sự
trao đổi với các đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế sẽ tìm ra những điểm chưa phù hợp trong quy
định của pháp luật để có kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm sửa đổi, bổ sung
các quy định của pháp luật.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL
thuế. Đối tượng nộp thuế ngày càng tăng trong khi số lượng thanh tra thuế có hạn, các nước quản
lí thuế theo chế độ tự khai, tự nộp thường thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lí VPPL thuế trên
cơ sở phân tích rủi ro về đối tượng nộp thuế, tức là chỉ lựa chọn đối tượng nộp thuế có rủi ro cao
nhất để tiến hành thanh tra. Để có thông tin phân tích rủi ro, cơ quan thuế phải xây dựng hệ thống
thông tin về người nộp thuế và đưa ra những tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp
thuế. Để nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thuế, ngành thuế Việt
Nam bên cạnh việc bổ sung, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí
VPPL thì cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống thông tin về người nộp thuế, quy định cụ thể trách
nhiệm cung cấp thông tin của đối tượng nộp thuế và cá nhân, tổ chức có liên quan. Việc ứng dụng
CNTT sẽ hỗ trợ đắc lực cho cơ quan thuế trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lí VPPL thuế.
10
2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện về vấn đề thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện
nay
Thứ nhất, cần có sự phối hợp với các cơ quan khác như cơ quan kiểm toán, thanh tra tài
chính, phải phân định rõ chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan thanh tra, kiểm tra để tránh thanh
tra chồng chéo đối với các cơ sở kinh doanh, gây phiền hà và ảnh hưởng không tốt đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của NNT.
Thứ hai, tiến hành chuyên nghiệp hóa, tức là mỗi nhân viên thuế, thay vì tham gia vào nhiều
mảng một lúc như hiện nay, họ sẽ được đào tạo liên tục, nâng cao trình độ chuyên ngành để chỉ
tập trung vào một mảng chuyên biệt như tài chính, ngân hàng hay sản xuất,...họ sẽ có cái nhìn
chuyên sâu, hiểu biết một cách sâu sắc về từng doanh nghiệp cụ thể để tránh tình trạng sai sót,
nhầm lẫn như hiện nay.
Thứ hai, đối với các cuộc thanh tra thuế cần nắm chắc NNT về đặc điểm ngành nghề sản xuất
kinh doanh, quy trình công nghệ, năng lực sản xuất, hình thức đăng ký nộp thuế để áp dụng
phương pháp thanh tra phù hợp nhằm không kéo dài gây phiền hà cho đối tượng được thanh tra.
Thứ ba, phải động viên được quần chúng tham gia khi tiến hành thanh tra. Phải biết dựa vào
quần chúng đáng tin cậy, có hiểu biết sự việc để thu thập các thông tin tư liệu cần thiết về đối
tượng đang thanh tra, để phục vụ cho công tác thanh tra.
3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện về xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện
nay
Thứ nhất, các cơ quan quản lý thuế cần coi trọng mục tiêu làm thay đổi hành vi của NNT theo
hướng tích cực chứ không chỉ nên nhằm mục tiêu xử lý nghiêm người vi phạm và thu đúng, thu đủ
thuế cho NSNN. Từ đó có chính sách quản lý linh hoạt và công bằng cho từng nhóm người nộp
thuế theo cấp độ tuân thủ và đặc điểm tuân thủ thuế NNT. Các biện pháp xử lý vi phạm, cưỡng
chế nợ thuế hiện mới cần xét đến hoàn cảnh thực tế của người nộp thuế, nguyên nhân dẫn đến vi
phạm, dẫn đến nợ thuế, người nộp thuế đang ở cấp độ tuân thủ nào… để từ đó có giải pháp quản
lý phù hợp với hoàn cảnh của người nộp thuế và để làm thay đổi hành vi tuân thủ của họ.
Thứ hai, Các cơ quan phối hợp quyết liệt hơn, đổi mới phương pháp đấu tranh chống tội
phạm về thuế để kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm. Đặc biệt cần cơ quan công
an và cơ quan thuế tập trung vào các lĩnh vực, hoạt động nóng bỏng và nổi cộm hiện nay như:
Hoạt động kinh doanh, mua bán sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, hoạt động kinh doanh bất động
sản, hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động kinh doanh có dấu hiệu chuyển giá, kinh doanh
thương mại điện tử....
Thứ ba, phối hợp giữa các chặt chẽ giữa các địa phương, phối hợp liên ngành nhằm tiến
hành điều tra, xử lý linh hoạt, thuận lợi. Đặc biệt khi hiện nay hành vi trốn thuế, gian lận ngày
11
càng tinh vi phức tạp, có tổ chức, liên quan đến nhiều địa phương. Thêm vào đó, cần nâng cao hơn
nữa hiệu quả trao đổi thông tin nhất là về phương thức, thủ đoạn mới để chủ động đề ra các biện
pháp và phòng ngừa.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Nhận thấy được tầm quan trọng trong công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thuế các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định về vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế. Đồng thời đã đưa ra nhiều giải
pháp để việc thực hiện mang lại hiệu qua cao và đồng bộ trên pham vi cả nước. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân khác nhau công tác trên vẫn gặp phải những khó khăn nhất định cần phải đưa
ra hướng giải quyết để việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế
được tiến hành một cách dễ dàng chống thất thu cho NSNN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thuế Việt Nam – Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2012
2 “Báo cáo tổng kết nhiệm vụ công tác thuế 2012, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế
năm 2013.” của Tổng cục Thuế,
3. Bài viết: “Tăng cường công tác thanh tra thuế ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Thị Thanh
Hoài, đăng trên Tạp chí Tài chính số 5 – 2013
4. Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện quy chế phối hợp giữa Tổng cục Thuế và Tổng cục cảnh sát
phòng, chống tội phạm.
12
- Xem thêm -