Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ VẤN ĐỀ THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM "BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844"...

Tài liệu VẤN ĐỀ THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM "BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844"

.PDF
78
840
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRƯƠNG THỊ KIM OANH VẤN ĐỀ THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM "BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844" LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2011 (201 ) ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------------- TRƯƠNG THỊ KIM OANH VẤN ĐỀ THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM "BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844" LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC MÃ SỐ: 60.22.80 Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Thanh Huyền Hà Nội - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................3 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 3 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................... 5 3. Mục đích và nhiệm vụ ................................................................................... 10 4. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 10 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 10 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 11 7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 11 NỘI DUNG ..................................................................................................12 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM THA HÓA LAO ĐỘNG CỦA C. MÁC TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844 .........................12 1.1 Cơ sở thực tiễn cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C. Mác Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX.............................. 12 1.2 Tiền đề lí luận cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C. Mác…16 1.2.1 Quan niệm của Hêghen về tha hóa.....................................................17 1.2.2 Quan niệm về tha hóa của Phoiơbắc ..................................................21 1.3 Giới thiệu tổng quan về tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 ..................................................................................................................... 24 Kết luận Chương 1: ....................................................................................27 CHƯƠNG 2: SỰ PHÂN TÍCH CỦA C. MÁC VỀ BIỂU HIỆN CỦA THA HÓA LAO ĐỘNG VÀ CON ĐƯỜNG KHẮC PHỤC THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844 ..........................................................................................29 2.1 Sự phân tích của C. Mác về biểu hiện của tha hóa lao động................... 29 2.1.1 Sự tha hóa của người công nhân đối với sản phẩm lao động ............30 1 2.1.2 Tha hoá của người công nhân biểu hiện trong hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động lao động..............................................................34 2.2 Quan niệm của C. Mác về hậu quả, nguyên nhân và con đường khắc phục tha hóa lao động ....................................................................................... 37 2.2.1 Hậu quả của tha hóa lao động ............................................................37 2.2.2 Quan niệm của C. Mác về nguyên nhân của tha hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản ..........................................................................................42 2.2.3. Quan niệm của C. Mác về con đường khắc phục tha hoá lao động ..47 2.3. Ý nghĩa quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động với việc nhận thức tha hóa lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.. 56 Kết luận Chương 2: ....................................................................................66 KẾT LUẬN: ................................................................................................67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................69 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Thời kỳ tư bản chủ nghĩa” bắt đầu từ cách mạng tư sản Hà Lan vào thế kỷ XVI, đã nhanh chóng lan rộng sang các nước Tây Âu và tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội các nước trên thế giới. Chủ nghĩa tư bản cùng với phương thức sản xuất của nó đã giải phóng loài người khỏi “đêm trường trung cổ” của xã hội phong kiến, chuyển từ nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất hiện đại. Dưới tác động của các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế kỷ trước kia gộp lại” [51, tr. 603]. Quá trình đó đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh. Sự phát triển của nền sản xuất vật chất dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những tiền đề vật chất thiết yếu để phát triển xã hội và con người. Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ mặt hạn chế của nó như: của cải vật chất trong xã hội chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản, người công nhân bị bóc lột sức lao động, điều kiện sinh hoạt và làm việc tối thiểu của họ không được đảm bảo: “Những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của người công nhân và làm cho lao động của người công nhân hiệu quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho công nhân. Những nguồn của cải mới, từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ” [53, tr. 10]. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động bị tha hóa, sự tha hóa lao động là cơ sở dẫn đến sự tha hóa trên các lĩnh vực khác và tha hóa bản chất con người. Trước C. Mác, một số nhà tư tưởng đã phát 3 hiện hiện tượng tha hóa tồn tại trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nhưng chỉ đến học thuyết C. Mác thì cội rễ, căn nguyên của tha hóa mới được làm sáng tỏ. Những nghiên cứu của C. Mác về tha hóa lao động được trình bày lần đầu tiên một cách tương đối hệ thống trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Thông qua lý luận về tha hóa lao động, C. Mác thể hiện sự phê phán của ông đối với xã hội tư bản chủ nghĩa từ góc độ kinh tế học. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu sự vận động của lao động tha hóa và chế độ tư hữu, C. Mác đi sâu tìm hiểu sự phát triển của lịch sử xã hội và rút ra kết luận chủ yếu về sự phát triển của lịch sử, về chủ nghĩa cộng sản. Có thể nói “lý luận tha hóa của Mác về bản chất là lý luận phát triển xã hội” [44, tr. 174]. Sau hơn 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, được bạn bè thế giới ghi nhận. Đời sống của phần lớn nhân dân được cải thiện, đất nước ổn định và phát triển. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những vấn đề nổi cộm thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Một trong những bất cập được mọi người quan tâm là có hay không sự tồn tại của hiện tượng tha hóa trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Để có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, từ đó có thái độ ứng xử đúng với nó thì việc quay trở lại nghiên cứu lý luận của C. Mác về tha hóa, đặc biệt là tha hóa lao động có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Nghiên cứu quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động góp phần khẳng định giá trị của lý luận tha hóa nói riêng và học thuyết Mác nói chung, đồng thời là cơ sở lý luận giúp chúng ta nhận thức về hiện tượng tha hóa lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 4 Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn “Vấn đề tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu khoa học về tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, về vấn đề tha hóa lao động và biểu hiện của nó trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. Có thể phân chia các công trình nghiên cứu thành các nhóm như sau: Thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về tư tưởng của C. Mác trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 nói chung: + Trước hết là các bài viết: “Mấy tư tưởng lớn về con người trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, đăng trong Con người và phát triển con người trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003 của tác giả Hồ Sĩ Qúy; “Khái niệm con người trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, đăng trong Tạp chí Triết học, (số 3), năm 2003, tr 20-22 của Bùi Bá Linh; “Khái niệm “con người nhân đạo” trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C. Mác”, đăng trong Tạp chí Triết học, (số 2), năm 2001 của Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp & Đặng Hữu Toàn. Trong các công trình nghiên cứu trên đây, các tác giả tập trung phân tích khái niệm “con người” và “con người nhân đạo” của C. Mác trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. + Tiếp theo là bài viết: “Tư tưởng của C. Mác về con người và giải phóng con người trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ 10, Nxb Đại học Quốc gia, năm 2005 của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền. 5 Nghiên cứu phân tích quan niệm của C. Mác về bản chất con người, về sự tha hóa con người trong chủ nghĩa tư bản và sự giải phóng con người, để từ đó thấy được giá trị nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. + Ngoài ra trong công trình nghiên cứu: Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về con người và sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2003 của Bùi Bá Linh, đã đề cập đến quan niệm của C. Mác về bản chất con người, về sự giải phóng con người trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844… Có thể nói các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến quan niệm của C. Mác về con người, bản chất con người và sự giải phóng con người trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Trong đó vấn đề tha hóa đã được nhắc tới nhưng chưa được nghiên cứu hệ thống. Thứ hai: Những công trình nghiên cứu quan niệm của C. Mác về tha hóa nói chung và tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 nói riêng: + Tác giả Nguyễn Anh Tuấn, với các bài viết: “Bước đầu tìm hiểu quan niệm của C. Mác về tha hóa”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (số 1 & 2), năm 2003; “Quan niệm của C. Mác về tha hóa”, đăng trong tác phẩm “Con người và phát triển con người trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003; “Quan niệm của C. Mác về tha hóa và bản chất con người (qua Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844)”, Tạp chí Triết học, (số 10), năm 2003, tr 24- 28. Trong các công trình nghiên cứu trên, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động và bản chất con người trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; đồng thời phân tích sự phát triển tư tưởng của C. Mác về tha hóa trong những tác phẩm của ông theo thời gian. Những nghiên cứu của tác giả luận giải, đánh giá một cách tương đối có hệ thống quan niệm của C. Mác về tha hóa. 6 + Tiếp theo là cuốn sách Quan niệm của C. Mác về tha hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010 của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền. Nội dung cuốn sách đã nghiên cứu một cách hệ thống quan niệm của C. Mác về tha hoá bằng việc đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn quan niệm về tha hóa, chỉ rõ nguyên nhân, bản chất của tha hóa, con đường khắc phục tha hóa con người trong chủ nghĩa tư bản và luận giải một cách sâu sắc quan niệm của C. Mác về bản chất con người. Cuốn sách bước đầu tìm hiểu về hiện tượng tha hoá ở nước ta trên các lĩnh vực: kinh tế; chính trị; đạo đức, lối sống… Từ đó đề xuất một số giải pháp khắc phục và đi đến xóa bỏ tình trạng tha hóa để phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, trong bài viết “Quan niệm của C. Mác về các hình thức tha hóa”, Tạp chí Giáo dục lí luận, (số 3), năm 2007, tr 11-16, tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền đã đi sâu phân tích quan niệm của C. Mác về các hình thức tha hóa: Tha hóa tôn giáo, tha hóa chính trị - xã hội, tha hóa lao động. Đồng thời thông qua sự phân tích đó, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa các hình thức tha hóa trong quan niệm của C. Mác. + Tác giả Ngụy Tiểu Bình, với bài viết “Mối quan hệ giữa sở hữu tư nhân và hiện tượng tha hóa”, Tạp chí Triết học, (số 2), năm 2008, tr 53- 60, đã tập trung làm rõ mối quan hệ giữa sở hữu tư nhân và hiện tượng tha hóa trên cơ sở phân tích các khái niệm tha hóa ngoại sinh và tha hóa nội sinh. + Tiếp đến là bài viết của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa, “Quan niệm của C. Mác về tha hóa và sự nghiệp giải phóng con người khỏi tha hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, Tạp chí Triết học, (số 10), năm 2003, tr 18-23. Trong công trình nghiên cứu trên đây, tác giả đã đi sâu khai thác quan niệm về bản chất con người, về tha hóa lao động và gắn liền với nó là sự tha hóa bản chất con người trong chủ nghĩa tư bản của C. Mác trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. 7 + Tiếp theo là bài viết: “Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về lao động bị tha hóa và sự tha hóa của tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, năm 2001, (số 6), tr 3-6 của Trương Hải Cường. Tác giả phân tích tiền đề lí luận cho sự ra đời quan niệm về tha hóa của C. Mác là từ quan niệm tha hóa của Hêghen và Phoiơbắc. Đồng thời trình bày sự giống và khác nhau giữa tha hóa tôn giáo và tha hóa lao động. + Tác giả Phạm Văn Chung trong cuốn sách Triết học Mác về lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006, đã phân tích sự hình thành, phát triển quan niệm triết học về lịch sử qua các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen. Khi phân tích quan niệm của C. Mác trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, tác giả đã dành một thời lượng nhất định cho việc nghiên cứu quan niệm về lao động bị tha hóa. Những nghiên cứu của tác giả tập trung vào quan niệm triết học về lịch sử, chứ chưa đặt ra việc nghiên cứu chuyên sâu quan niệm tha hóa của C. Mác. Ngoài các công trình nghiên cứu trực tiếp về quan niệm tha hóa của C. Mác, liên quan đến quan niệm tha hóa trong lịch sử còn có các công trình sau: + “Vấn đề tha hóa trong “Hiện tượng học tinh thần” của Hêghen”, Tạp chí Triết học, (số 10), năm 2008 của tác giả Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Thanh Huyền Với nghiên cứu này, các tác giả đã luận giải quan niệm của Hêghen về “tha hóa” trong Hiện tượng học tinh thần theo các cách tiếp cận triết học. Trong bài viết, các tác giả không chỉ làm rõ quan niệm của Hêghen về “tha hóa” với tư cách là một phạm trù mang tính hệ thống và năng động, về tiến trình biện chứng của sự tha hóa và sự “vượt bỏ” tha hóa, mà còn bước đầu chỉ ra những hạn chế trong quan niệm của ông. + Tác giả Ngô Đình Xây, với bài viết “Quan niệm của G.V. Ph Hêghen về “tha hóa” qua sự đánh giá của C. Mác”, Tạp chí Triết học, (số 10/233), năm 2010, tr 16-23. Bài viết thông qua sự đánh giá của Mác để chỉ ra quan niệm cơ bản của Hêghen về tha hóa và về vấn đề giải “tha hóa”… 8 Thứ ba: Những công trình nghiên cứu hoặc liên quan đến vấn đề tha hóa trong chủ nghĩa xã hội hiện thực và Việt Nam: + Trước hết là bài viết: “Sự tha hóa quyền lực ở một số bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay và một số giải pháp ngăn ngừa, khắc phục nó”, Tạp chí Triết học, (số 7/230), năm 2010, tr 68 - 72 của tác giả Nguyễn Văn Thiện. Tiếp đến là bài viết: “Quyền lực và sự tha hóa quyền lực”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu khoa học - Viện Khoa học pháp lý, năm 2009 của Bùi Xuân Phái. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến quan điểm mácxít về sự tha hóa và phân tích sự tha hóa quyền lực ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện thoái hóa, biến chất ở nước ta. Trên cơ sở đó, các tác giả luận chứng một số giải pháp nhằm ngăn chặn, khắc phục sự tha hóa quyền lực ở nước ta hiện nay. Cũng về đề tài tha hóa trong chủ nghĩa xã hội và Việt Nam, Hồ Ngọc Hương có bài: “Tha hóa và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, (số 3), năm 1989, tr 32 - 38. Trên cơ sở phân tích sự tha hóa trong chủ nghĩa xã hội hiện thực, tác giả đã phác thảo một số biểu hiện của tha hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những phân tích của tác giả chủ yếu giới hạn ở những biểu hiện của tha hóa trong thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp ở nước ta. Ngoài ra liên quan ít nhiều đến quan niệm của C. Mác về xóa bỏ chế độ tư hữu và vấn đề sở hữu tư nhân ở nước ta có bài viết của Vũ Kiều Phương “Từ quan niệm của C. Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” suy nghĩ về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (số 8/207), năm 2008… Có thể khẳng định đã có nhiều công trình nghiên cứu quan niệm của C. Mác về tha hóa và tha hóa lao động. Tuy nhiên, mới chỉ có rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về quan niệm tha hóa của C. Mác. Còn các công trình nghiên cứu quan niệm của C. Mác về tha hóa lao 9 động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 chủ yếu mới chỉ dừng ở các bài viết. Việc đi sâu nghiên cứu hệ thống quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 góp phần khẳng định giá trị của học thuyết Mác trong thời đại ngày nay, đồng thời góp thêm một ý kiến về lý luận tha hóa lao động của C. Mác cũng như ý nghĩa hiện thời của nó. 3. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích của luận văn: làm rõ quan niệm cơ bản của C. Mác về tha hóa lao động và con đường xóa bỏ tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; từ đó chỉ ra ý nghĩa của quan niệm đó đối với nhận thức tha hóa lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục đích này, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở thực tiễn và lý luận cho sự ra đời quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động và giới thiệu tổng quan về tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. + Phân tích quan niệm của C. Mác về biểu hiện, nguyên nhân và con đường khắc phục tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. + Bước đầu chỉ ra ý nghĩa quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động với việc nhận thức tha hóa lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu Quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về con người và xã hội và tham khảo có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 10 * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống nhất lịch sử và lôgic, phương pháp so sánh, đối chiếu… 6. Đóng góp của luận văn Luận văn nghiên cứu chuyên sâu quan niệm của C. Mác về tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; từ đó góp phần khẳng định giá trị khoa học của học thuyết Mác trong thời đại ngày nay. Và bước đầu chỉ ra ý nghĩa của quan niệm đó đối với nhận thức tha hóa lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề tha hóa và tha hóa lao động. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai chương, 6 tiết. 11 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM THA HÓA LAO ĐỘNG CỦA C. MÁC TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844 1.1 Cơ sở thực tiễn cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C. Mác - Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở thế kỷ XVI và thực sự bắt đầu phát triển ở thế kỷ XVII với sự mở rộng nhiều công trường thủ công, sự gia tăng số lượng công nhân lớn,.. Sang thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản khẳng định vị trí của mình với việc xuất hiện nhiều xưởng máy công nghiệp… Đến những năm đầu của thế kỷ XIX, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng trong công nghiệp đã khiến cho lực lượng sản xuất phát triển và tăng lên chưa từng có trong lịch sử, kéo theo sự thay đổi, phát triển của mọi mặt đời sống xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành một cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, là sự gia tăng dân số mạnh mẽ. Sự gia tăng này tạo ra một nguồn lớn nhân công thừa thãi và rẻ mạt. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố, tạo cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn, tuy nhiên kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Việc chuyên môn hóa nghề nghiệp giúp người lao động có vị trí và hiểu được chức năng công việc của mình, tuy nhiên việc tổ chức sản xuất và phân bố sản xuất đó đã ném một bộ phận công nhân vào tình trạng thất nghiệp. Sự phát triển của nền công nghiệp ngày càng mạnh mẽ đã làm gia tăng nhiều đô thị, nhưng cũng kéo theo sự xuống cấp về đời sống vật chất của bộ phận người lao động. Những cảnh khốn cùng, ăn mày, trộm cướp, trẻ em lang thang, dịch bệnh, người lao động ở các tỉnh ùn ùn kéo về, xã hội thành thị lúc này bị làm đảo lộn bởi một nền công nghiệp có mục đích mang lại lợi nhuận cho các nhà tư bản. “Với sự di dân khỏi nông 12 nghiệp – và thêm vào đó là một luồng thợ thủ công phá sản kéo đến -, sự tăng vọt dân số đã tạo thành một khối nhân lực nghèo khổ…một bệnh dịch đang hoành hành trong dân chúng… Bệnh của họ là đói, vì họ khỏi ngay khi họ có cái ăn” [5, tr. 158-159]. Trong các thành phố, người lao động trở thành nạn nhân của nền công nghiệp, nền công nghiệp cung cấp được việc làm cho họ thì lại ít quan tâm đến những điều kiện sống của họ. Quá trình công nghiệp đó có mục đích giúp cho các nhà tư bản thống trị, kiểm soát, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - chính trị của toàn xã hội đó. Lúc này, xã hội tư bản hiện đại giống như một bộ máy mà trong đó, người điều khiển là những nhà đại tư bản, công cụ là những người công nhân và máy móc, mục đích là hàng hóa và lợi nhuận. Những nguyên tắc hoạt động nghiêm ngặt của nền sản xuất tư bản biến người lao động trở thành phương tiện trong bộ máy sản xuất và lãng quên hiện thực về đời sống tinh thần, tâm sinh lí của họ. Nhà tư bản đã đem cách thức quản lí nền sản xuất để áp dụng vào đời sống xã hội và con người khiến con người ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào những quy tắc, kỷ luật, khoa học, công nghệ, máy móc, trong khi những nhu cầu về mặt tinh thần của họ bị người chủ (nhà tư bản) bỏ qua. Đi cùng với tính hiện đại của nền đại công nghiệp là sự tha hóa của người công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, sự đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ - nhà tư bản, sự đấu tranh của các nước thuộc địa chống lại các cường quốc tư bản… Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa cho phép chúng ta hiểu rõ bản chất chế độ kinh tế của nó. Trong xã hội công nghiệp, ảnh hưởng mang tính chất quyết định của sự phát triển khoa học kỹ thuật đến các mặt khác nhau của đời sống được thể hiện rõ nét. Mối liên hệ giữa sự phát triển sản xuất với những biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội rất khó thấy trong xã hội truyền thống lại được thể hiện rõ nét hơn nhiều trong xã hội công nghiệp. Con người được xem như một thực thể công nghệ luôn có thêm những cơ quan chức năng mới - các phương tiện kỹ thuật và công nghệ. Ở đó, người công nhân bị quy thành “công cụ”, “phương tiện” để sản 13 xuất, sức lao động của họ bị biến thành hàng hóa để trao đổi trên thị trường, cuộc sống của họ bị giản lược thành những nhu cầu sinh sống tối thiểu của một sinh vật. “Sự tồn tại của công nhân bị quy thành điều kiện tồn tại của bất cứ hàng hóa nào khác. Người công nhân đã trở thành hàng hóa và nếu anh ta tìm được người mua thì như thế là anh ta gặp may. Còn số cầu, cái quyết định đời sống của công nhân thì phụ thuộc vào ý muốn của bọn nhà giàu và bọn tư bản” [57, tr. 73]. Khi xã hội bước vào giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa tồn tại và vận động dưới các hình thức tư bản tư nhân, nhà tư bản có quyền kinh doanh bất cứ ngành công nghiệp nào, tiêu thụ hàng hóa theo giá cả hình thành tự phát, không có sự chi phối thị trường chung, không ai quy định được giá cả. Với sự phát triển mạnh mẽ đó, giai cấp công nhân tăng lên về số lượng, họ trở thành lực lượng lao động chủ yếu của xã hội - của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trái lại với vai trò đó là điều kiện làm việc của họ không được đảm bảo trong các nhà máy, họ phải làm việc cực khổ với đồng lương rẻ mạt. Họ bị bóc lột cả về vật chất và tinh thần. Nói như nhà kinh tế học Xmít thì tiền công của người công nhân thông thường là tiền công thấp nhất “phù hợp với tính người thông thường”, nghĩa là với mức sống của một con vật. Việc sử dụng máy móc trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa giờ đây không còn thực hiện chức năng trực tiếp của nó là làm giảm nhẹ lao động của con người mà khiến cho họ bị kiệt quệ, lệ thuộc vào máy móc. Cuộc cách mạng công nghiệp đã biến người lao động thành những cái máy đơn thuần, mục đích chính ưu tiên là sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Họ phải chạy theo guồng máy dây chuyền, lúc này lao động trở thành cực hình đối với họ… Đồng thời, với hệ thống sản xuất đó, giai cấp tư sản ngày càng giàu có trong tích lũy tư bản, còn người lao động (công nhân) rơi vào cảnh bần cùng, bị cướp cả phần hoạt động độc lập của bản thân bởi họ không còn thời gian để phát triển nhân cách cũng như thể chất. Của cải giờ đây không mang lại sự ấm no hạnh phúc cho người lao động, 14 mà trở thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Máy móc với tư cách là tư liệu sản xuất - là phương tiện tăng thêm giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nhưng lại trở thành mặt đối lập với người công nhân, mặc dù họ là lực lượng chính sử dụng chúng. Nói theo cách của Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa: Người lao động, về mặt luật pháp và trên thực tế, là kẻ nô lệ cho giai cấp có của, cho giai cấp tư sản; anh ta là kẻ nô lệ đến mức bị bán như một hàng hóa, và giá cả anh ta lên xuống hệt như giá cả một hàng hóa (…). Trái lại, giai cấp tư sản cảm thấy thoải mái trong hệ thống này hơn nhiều so với trong trường hợp chế độ nô lệ cổ đại; nó có thể thải hồi những người của nó khi nó muốn mà không bị mất đi khoản vốn đã bỏ ra, hơn nữa, nó còn có được lao động khá rẻ mạt. Sự phân công lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa làm cho người lao động mất đi tính tự chủ, khả năng sáng tạo, họ trở nên thụ động và lệ thuộc vào máy móc, vào sự phân công sản xuất của nhà tư bản. Tổ chức lao động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm con người xa rời bản chất của mình, những sản phẩm do lao động tạo ra đã không được sử dụng như giá trị để làm giàu đẹp thế giới, phát triển con người, trái lại đã thống trị lại con người, phân biệt loài người thành những khu vực thù định nhau, người trực tiếp lao động bị biến thành các cỗ máy sản xuất hoàn toàn xa lạ với những sản phẩm do chính họ tạo ra. Charles Fourrier đã phê phán sự bất công của xã hội tư bản, ông vạch rõ "sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi", đó là sự giàu có của chủ tư bản và sự nghèo đói của công nhân làm thuê. Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã chi phối rất nhiều hành vi của con người. Ở đó, giai cấp tư sản đã đem sự bóc lột công nhân vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột che đậy bằng 15 ảo tưởng tôn giáo và chính trị trong các chế độ trước đó. Sự tích lũy tư bản ngày càng nhiều tạo cơ hội cho các nhà tư bản bóc lột sức lao động của người công nhân càng lớn. Đi cùng với sự giàu có tập trung tư bản của giai cấp tư sản là sự nghèo khổ ngày càng gia tăng của người lao động. “Chủ nghĩa tư bản thế thế kỷ XIX đã làm tăng thêm sự đối đầu kịch liệt, đồng thời với sự phát triển của chính bản thân nó: giữa sự giàu có và sự nghèo khổ; giữa sự sung túc và có văn hóa và nỗi lo âu mộc mạc; giữa quyền lực và sự lệ thuộc tuyệt đối” [5, tr. 178]. Như vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ khi hình thành, đến đầu thế kỷ XIX đã đem đến sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, kéo theo sự thay đổi, phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Đi cùng với sự tiến bộ đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng gây ra tình trạng nghèo đói bần cùng, sự suy đồi đời sống đạo đức, tinh thần ở con người… “Cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn toàn biến những người lao động thành những cái máy đơn thuần, và cướp giật nốt phần hoạt động độc lập cuối cùng của họ” [1, tr. 334]. Xuất phát từ thực tiễn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ rõ thành tựu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong việc tạo ra khối lượng của cải lớn chưa từng thấy từ trước cho đến lúc đó, tạo ra tiền đề vật chất thiết yếu cho sự phát triển xã hội và con người, nhưng cũng chỉ ra mặt trái của nó đã dẫn đến sự nghèo đói của bộ phận đông đảo người công nhân, dẫn đến tha hóa lao động, tha hóa con người. Tính hai mặt (tích cực và tiêu cực) của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX đã là cơ sở thực tiễn cho những nghiên cứu của C. Mác về tha hóa lao động trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Tác phẩm đã cho chúng ta thấy sự phát triển tư tưởng của C. Mác trên con đường đi tới phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử. 1.2. Tiền đề lí luận cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C. Mác 16 Quan niệm tha hóa lao động của C. Mác không chỉ là sự phản ánh thực tiễn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc quan niệm của người đi trước, trực tiếp là quan niệm tha hóa của Hêghen và L. Phoiơbắc. 1.2.1 Quan niệm của Hêghen về tha hóa Cội nguồn tư tưởng về tha hóa có thể tìm thấy trong tư tưởng của Hốpxơ. Tư tưởng về tha hóa tiếp tục được Rútxô và các nhà hoạt động xã hội Pháp thế kỷ XVIII hiểu như tình huống xã hội đặc thù: Kết quả hoạt động của con người trở thành sức mạnh thống trị anh ta. Nhưng phải đến triết học cổ điển Đức thì phạm trù “tha hóa” mới được hình thành với tư cách một phạm trù triết học. Tiếp nối truyền thống của các nhà triết học cổ điển Đức và là người đạt đến đỉnh cao trước C. Mác trong việc đem lại cho phạm trù “tha hóa” một nội dung triết học, phạm trù “tha hóa” chiếm một vị trí xác định trong thứ bậc các phạm trù triết học Hêghen, nó thâm nhập vào toàn bộ triết học Hêghen như một đòn bẩy phương pháp luận để xây dựng hệ thống triết học của ông. Tư tưởng về tha hóa của Hêghen chủ yếu được tập trung trình bày trong hai tác phẩm Hiện tượng học tinh thần (1807) và bộ sách Khoa học lôgic (1812-1816). Trong Hiện tượng học tinh thần, phạm trù “tha hóa” được Hêghen luận bàn như một phạm trù triết học và trở thành nét chủ đạo trong suy tư triết học của ông. Trong bộ sách Khoa học lôgic, quan niệm về tha hóa của Hêghen đã có bước tiến hoàn chỉnh hơn. Ông hiểu tha hóa là trở thành cái khác hoàn thiện hơn và các hình thức khác nhau của tha hóa như giới tự nhiên, con người và xã hội loài người, tự ý thức của con người đều có xu hướng có tham vọng trở về với cái xuất phát, cái căn nguyên, đó chính là tinh thần tuyệt đối. Theo ông, nhờ mỗi lần trở về đó mà sự vật trở thành cái khác, sự vật mới xuất hiện. Hêghen cho rằng cơ sở của sự tồn tại của thế giới không phải là vật chất mà là ý niệm tuyệt đối hay tinh thần tuyệt đối. Đó là một thực thể tinh thần có trước giới tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với bản thân. Ý niệm tuyệt đối được hiểu như một đấng sáng tạo tối cao sản sinh 17 ra toàn bộ tự nhiên và con người, tất cả từ các sự vật, hiện tượng, đến các sản phẩm hoạt động của con người đều được coi là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và là linh hồn sống động thật sự của toàn bộ thế giới hiện tồn. Tinh thần thuần túy là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển trong mình. Sự phát triển của tinh thần thuần túy khi đầy đủ thì nó tha hóa ra thành giới tự nhiên - tức tinh thần khách quan. Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn, cải tạo thế giới của con người để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận thức của con người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của ý niệm tuyệt đối. Hêghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần. Ở Hêghen, ý niệm tuyệt đối là tồn tại đầu tiên, duy nhất và vĩnh hằng và nhờ có sự “tự tha hoá” mà hình thức thể hiện đầu tiên của nó là giới tự nhiên, hình thức thứ hai là con người và xã hội loài người. Quá trình vận động phát triển của ý niệm tuyệt đối được Hêghen chỉ ra là quá trình tự tha hóa và lột bỏ tha hóa. Ý niệm tuyệt đối tự tha hóa để trở thành giới tự nhiên, sau đó tinh thần lại tự vượt bỏ hình thức giới tự nhiên và phóng chiếu sự tồn tại của nó trong lịch sử xã hội. Giai đoạn cao nhất là lúc ý niệm tuyệt đối kết thúc quá trình vận động của nó dưới hình thức tôn giáo, nghệ thuật, triết học và đến đây, ý niệm tuyệt đối tự nhận thức đầy đủ về chính bản thân mình trong triết học Hêghen. Đối với Hêghen, “bản chất người, con người đồng nghĩa với ý thức. Cho nên đối với con người, mọi sự tha hóa của bản chất con người chẳng qua là sự tha hóa của tự ý thức” [57, tr. 229]. Trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần, Hêghen đã khảo sát về tha hóa lao động. Lao động biến các sức mạnh bản chất của các cá nhân con người thành đối tượng xa lạ với con người. Lao động bắt nguồn từ tinh thần, là quá trình tự sản xuất ra con người. Sự tha hóa tinh thần con người thành các sản phẩm của lao động, theo Hêghen cũng đồng thời là quá trình ngược lại, trong đó tinh thần đã hoàn thiện đang hoạt động, hoặc là đã bắt đầu được 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan