Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình trong pháp luật quốc ...

Tài liệu Vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

.PDF
103
50
100

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên của Luận văn này, em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Chu Mạnh Hùng – người thầy giáo đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là Khoa Pháp luật quốc tế và Khoa Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành Luận văn này. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do tính phức tạp của đề tài, đồng thời do trình độ, nhận thức của em về lý luận cũng như thực tiễn còn hạn chế, nên Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong muốn nhận được sự góp ý, bổ sung của thầy giáo, cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 08 năm 2016 Học viên Nguyễn Thuận Yến LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân em. Các số liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Em xin chịu mọi trách nhiệm về các thông tin đã đưa ra trong Luận văn. Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn Học viên TS. Chu Mạnh Hùng Nguyễn Thuận Yến DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. ATBXHN An toàn bức xạ và hạt nhân 2. ATHNQG An toàn hạt nhân quốc gia 3. CNS Convention on Nuclear Safety (Công ước An toàn hạt nhân) 4. CSC Convention on Supplementary Compensation for Nuclear Damage (Công ước Bồi thường bổ sung đối với thiệt hại hạt nhân) 5. CTBT Comprehensive Nuclear – Test Ban Treaty (Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện) 6. CTBTO Comprehensive Nuclear – Test Ban Treaty Organization (Tổ chức Cấm thử hạt nhân toàn diện) 7. KHCN Khoa học và Công nghệ 8. IAEA International Atomic Energy Agency (Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế) 9. NLNT Năng lượng nguyên tử 10. NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 11. NPT Non-Proliferation of Nuclear Weapons Treaty (Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân) 12. OECD Organization for Economic – Cooperation and Development (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) 13. TNMT Tài nguyên và Môi trường 14. UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu5 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn 5 7. Bố cục của Luận văn 5 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ NHẰM MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH 6 1.1. Khái niệm năng lượng nguyên tử 6 1.2. Lịch sử hình thành và quá trình sử dụng năng lượng nguyên tử 9 1.3. Cơ sở pháp lý quốc tế đối với hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình 14 1.3.1. Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử 14 1.3.2. Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 19 1.3.3. Quy định của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế 20 1.4. Vai trò của việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình 21 Chương 2. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ NHẰM MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH 28 2.1. Quy định của pháp luật quốc tế về sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình 28 2.1.1. Các quy định về không phổ biến vũ khí hạt nhân và thanh sát hạt nhân 28 2.1.2. Các quy định về vấn đề an toàn hạt nhân 37 2.1.3. Các quy định về ứng phó sự cố và bồi thường thiệt hại hạt nhân 43 2.1.4. Các quy định về an ninh hạt nhân 49 2.2. Quy định của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA 54 2.2.1. Luật mẫu của IAEA về xây dựng luật năng lượng nguyên tử 54 2.2.2. Sổ tay Hướng dẫn của IAEA về xây dựng luật năng lượng nguyên tử 56 Chương 3. VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ NHẰM MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH 59 3.1. Quan điểm của Việt Nam về vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình 59 3.2. Các điều ước quốc tế và sự tham gia của Việt Nam 62 3.3. Pháp luật Việt Nam trong vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình 65 3.3.1. Điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử 65 3.3.2. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử 69 3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử 85 KẾT LUẬN 91 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hơn một thế kỷ qua, kể từ khi các chất đồng vị phóng xạ được tìm ra, các hoạt chất phóng xạ đã được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, công nghiệp, địa chất, khoáng sản, ... và mang lại những hiệu quả tích cực cho cuộc sống con người. Đặc biệt một trong những ứng dụng điển hình và có ý nghĩa quan trọng của năng lượng nguyên tử là sản xuất điện năng. Trong khi các nguồn năng lượng hoá thạch ngày càng cạn kiện, không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu trong tương lai, các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời lại chưa chứng minh được tính hiệu quả thực sự, thì năng lượng nguyên tử vẫn là sự lựa chọn của nhiều quốc gia nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và sự phát triển bền vững cũng như giải quyết tích cực các vấn đề môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn không thể phủ nhận của các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình, việc sử dụng nguồn năng lượng này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nguy hiểm, phát sinh từ việc không đảm bảo an toàn bức xạ, an ninh hạt nhân dẫn đến việc phát tán phóng xạ vào môi trường, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến con người và hệ sinh thái. Lịch sử thế giới đã ghi nhận các thảm họa từ sự cố nổ lò phản ứng tại nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island, Chernobyl, và mới đây nhất là Fukushima tại Nhật Bản năm 2011 gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe của con người, động thực vật, môi trường và kinh tế - xã hội. Thêm nữa, do đặc tính vật lý và hóa học, ảnh hưởng từ việc phát tán chất phóng xạ của nhà máy điện hạt nhân thường vượt khỏi phạm vi lãnh thổ một quốc gia, có khả năng để lại di chứng qua nhiều thế hệ, do đó, vấn đề đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân đã và đang trở thành mối quan tâm chung của toàn thế giới. Ngoài ra, việc sử dụng năng lượng nguyên tử vào các mục đích phi hòa bình, bao gồm việc phát triển và phổ biến vũ khí hạt nhân và khủng bố hạt nhân cũng đặt ra thách thức cho cộng đồng quốc tế. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của năng lượng nguyên tử cũng như những rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng nguồn năng lượng này, vai trò của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong việc thiết lập hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động nghiên cứu, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình là rất cần thiết. 7 Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao trong đó có công nghệ hạt nhân được xem là cơ hội, điều kiện để thúc đẩy kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý trong nước chưa đầy đủ đã khiến cho việc sử dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù mới ban hành năm 2008, nhưng sau 8 năm thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đặt trong mối tương quan với các điều ước quốc tế có liên quan và các khuyến cáo của IAEA có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” làm nội dung Luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, tại Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu, tiếp cận vấn đề về việc sử dụng năng lượng nguyên tử dưới những phương diện khác nhau, cụ thể: Trước năm 2008 – trước thời điểm Luật Năng lượng nguyên tử của Việt Nam được ban hành và có hiệu lực, chưa có Luận văn, Luận án hay các công trình nghiên cứu khoa học nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu, khai thác vấn đề về sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình dưới góc độ pháp luật quốc tế. Chỉ có một số bài báo đã được công bố trên các tạp chí khoa học của Việt Nam tiếp cận và đề cập đến vấn đề pháp lý liên quan đến lĩnh vực năng lượng nguyên tử như: - Nguyễn Việt Hùng (2005), “Không phổ biến vũ khí hạt nhân các cam kết và quá trình thực hiện của Việt Nam”, Hoạt động khoa học. - Ngô Đặng Nhân (2007), “Luật Năng lượng nguyên tử - Hành lang pháp lý cho các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở Việt Nam”, Hoạt động khoa học Sau khi Luật Năng lượng nguyên tử Việt Nam được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực, vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình đã được quan tâm nhiều hơn và được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu trong các Luận văn, Luận án Luật học, tiêu biểu là: 8 - Nguyễn Thị Thu Trang (2010), “Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật hành chính, Viện Khoa học - Phạm Gia Chương (2010), “Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật Quốc tế, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Nguyễn Thị Hoàn (2012), “Pháp luật bảo đảm quản lý an toàn nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật, chuyên ngành Lý luận – Lịch sử Nhà nước và pháp luật, Học viện Khoa học xã hội; - Phạm Gia Chương (2015), “Pháp luật quốc tế về sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình”, Luận án Tiến sĩ Luật, chuyên ngành Luật Quốc tế, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Về cơ bản, các công trình khoa học đã công bố tại Việt Nam đã giải quyết được nhiều vấn đề lý luận ở các khía cạnh khác nhau liên quan đến nội dung vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình dưới góc độ pháp lý. Đặc biệt, Luận văn Thạc sĩ và Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Gia Chương được coi là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về pháp luật quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, tập trung khai thác, phân tích các nội dung của điều ước quốc tế, pháp luật một số quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc,.. để có sự so sánh với pháp luật Việt Nam nhằm đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong cả hai công trình này, tác giả Phạm Gia Chương chưa có sự nhóm các quy định của điều ước quốc tế dựa trên tính chất của hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử, đồng thời tác giả chỉ đề cập đến các điều ước mà Việt Nam là thành viên nên chưa có sự hệ thống, tổng hợp; bên cạnh đó, việc phân tích, đánh giá Luật Năng lượng nguyên tử 2008 còn chưa toàn diện. Việc tác giả lựa chọn vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam làm đề tài Luận văn Thạc sĩ là sự cố gắng tiếp tục nghiên cứu trên cơ sở kế thừa và phát triển hệ thống hơn những luận cứ khoa học dưới góc độ pháp lý về năng lượng nguyên tử đặt trong điều kiện nhu cầu sử dụng nguồn năng lượng này đang ngày càng gia tăng trên toàn thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang triển khai dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận. 9 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn nghiên cứu về vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Đề tài về vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là một đề tài có phạm vi rộng, trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ với giới hạn về số trang, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về năng lượng nguyên tử và việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; nội dung chính của các điều ước quốc tế đa phương toàn cầu tiêu biểu có liên quan trực tiếp; các tài liệu hướng dẫn của IAEA về xây dựng Luật hạt nhân; văn bản pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, trọng tâm là Luật Năng lượng nguyên tử 2008; phân tích và chỉ ra được ưu điểm, hạn chế của điều ước quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam để từ đó làm cơ sở đưa ra một số giải pháp hoàn thiện. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của Luận văn là đưa ra các luận cứ khoa học nhằm phân tích, làm rõ tính chất của hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; đồng thời thông qua việc luận giải cơ sở lý luận cũng như thực tiễn vấn đề này trong pháp luật và đời sống quốc tế nói chung, ở Việt Nam nói riêng để từ đó đề xuất giải pháp xây dựng hoàn thiện pháp luật quốc tế và Việt Nam trong hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình. Để đạt được mục đích đó, Luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, phân tích bản chất của vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình dưới góc độ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu những quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình bao gồm: vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân, an toàn và an ninh hạt nhân, ứng phó sự cố và bồi thường thiệt hại hạt nhân. Thứ ba, phân tích thực trạng nhu cầu sử dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đánh giá tính phù hợp và khả thi của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật Năng lượng nguyên tử 2008. Đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này, có xét đến sự tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các khuyến cáo của IAEA. 5. Phương pháp nghiên cứu 10 Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để hoàn thiện Luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, quy nạp, đối chiếu, … để làm sáng tỏ vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử trong pháp luật quốc tế cũng như đưa ra những đánh giá khách quan về lý luận, thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn Trước hết, khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân, nâng cao hiệu quả công việc trong vị trí công tác hiện tại có liên quan đến ngành năng lượng nguyên tử. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của việc sử dụng năng lượng nguyên tử của người dân Việt Nam, để từ đó, thay đổi cách nhìn nhận, sự chấp thuận của công chúng đối với các hoạt động liên quan đến phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử nói chung và đặc biệt là việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại tỉnh Ninh Thuận. Ngoài ra, Luận văn cũng có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về năng lượng nguyên tử trong các trường đại học chuyên ngành. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn bao gồm 3 Chương: Chương 1. Khái quát về vấn đề sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình Chương 2. Pháp luật quốc tế về sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình Chương 3. Chính sách, pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nguyên tử và một số giải pháp hoàn thiện Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ NHẰM MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH 11 1.1. Khái niệm năng lượng nguyên tử Dưới góc độ khoa học tự nhiên, nguyên tử được hiểu là đơn vị cơ bản của vật chất chứa một hạt nhân ở trung tâm và được bao quanh bởi các electron mang điện tích âm. Trong đó, hạt nhân nguyên tử là dạng gắn kết hỗn hợp giữa các proton mang điện tích dương và các nơtron không mang điện (ngoại trừ trường hợp của nguyên tử hydro, với hạt nhân ổn định chỉ chứa một proton duy nhất không có nơtron). Electron của nguyên tử liên kết với hạt nhân bởi tương tác điện từ và tuân theo các nguyên lý của cơ học lượng tử. Ở trạng thái cơ bản, nguyên tử trung hòa về điện, khi đó tổng số điện tích dương của hạt nhân bằng tổng số điện tích âm của các điện tử (electron) quay xung quanh nó. Nguyên tử có khả năng cho – nhận một số điện tử ở lớp ngoài cùng để tạo thành các ion mang điện tích dương hay âm hoặc cũng có thể bị biến dạng của nhiều lớp vỏ điện tử do tương tác với các nguyên tử khác. Tuy nhiên trong các quá trình hóa học, hạt nhân nguyên tử luôn được bảo toàn, do đó có biến đổi như thế nào nhưng nguyên tử luôn luôn có khả năng phục hồi trở lại trạng thái đầu, tức là dưới dạng trung hòa điện tích1. Thuật ngữ “năng lượng nguyên tử” là một khái niệm rộng và hiện nay trên thế giới chưa có sự thống nhất về cách định nghĩa. Đặc biệt, trên thực tế vẫn có sự tồn tại và sử dụng song song hai thuật ngữ “năng lượng nguyên tử” và “năng lượng hạt nhân”, trong đó “năng lượng hạt nhân là năng lượng được tạo ra từ quá trình hạt nhân chuyển đổi kèm theo phát phóng xạ, tổng hợp hạt nhân, phân hạch hạt nhân, … khối lương hao hụt của chuyển đổi hạt nhân tương đương với năng lượng được giải phóng”2. Tuy nhiên, nếu xét về cấu tạo nguyên tử thì khối lượng nguyên tử chủ yếu tập trung ở hạt nhân do khối lượng electron ở lớp vỏ không đáng kể. Đồng thời, trong hạt nhân nguyên tử, các proton và nơtron khi ở khoảng cách rất nhỏ, sẽ hút nhau rất mạnh, chính năng lượng liên kết này mà proton và nơtron kết hợp với nhau ổn định trong hạt nhân, khi phân hạch hạt nhân hay tổng hợp hạt nhân, thì năng lượng liên kết này sẽ được giải phóng. Vì vậy, về bản chất, NLNT chính là năng lượng được sinh ra khi có sự phân hạch hoặc tổng hợp hạt nhân. Năng lượng hạt nhân là năng lượng hữu ích từ hạt nhân nguyên tử thu được nhờ các lò phản ứng hạt nhân có kiểm soát. Dựa trên các học thuyết vật lý hiện đại của thuyết tương đối 1 Y. Iwakoshi (2014), “Hỏi đáp về Năng lượng nguyên tử”, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội, tr23. 2 Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (2011), “Tuyển tập các thuật ngữ cơ bản về năng lượng hạt nhân – Basic Nuclear Glossary”, tr71. 12 và thuyết lượng tử thì năng lượng được hiểu là một đại lượng vật lý đặc trưng cho khả năng sinh công của một vật. Có ba loại phản ứng hạt nhân, đó là3: Phản ứng phân hạch: Phản ứng phân hạch là phản ứng tỏa nhiệt. Tổng khối lượng sản phẩm tạo thành sau phản ứng không bằng tổng khối lượng các chất tham gia phản ứng ban đầu. Khối lượng bị mất đã chuyển sang dạng nhiệt và bức xạ điện từ, đồng thời giải phóng một năng lượng lớn. Trong phản ứng phân hạch, hạt nhân nguyên tử bị các nơtron bắn phá thành những mảnh nhỏ khác với hạt nhân và nơtron ban đầu. Các nơtron mới tạo thành lại tham gia vào phản ứng kế tiếp. Từ đó hình thành phản ứng dây chuyền. Khi phản ứng đạt đến khối lượng tới hạn, nó trở thành phản ứng tự hoạt động. Nếu có quá nhiều nơtron được sinh ra, phản ứng sẽ mất kiểm soát dẫn đến cháy nổ lớn. Để tránh điều này, người ta sử dụng chất hấp thụ nơtron và bộ đều hòa nơtron để thay đổi tỷ lệ nơtron tham gia vào các phản ứng phân hạch tiếp theo. Urani235 và Plutoni239 là nguyên liệu chủ yếu của phản ứng hạt nhân, có thể phát ra năng lượng đến 200-210 MeV. - Phản ứng tổng hợp: Là loại phản ứng khác để tạo năng lượng hạt nhân. Một ví dụ thông dụng là triti và đơteri được kết hợp để tạo ra heli và một nơtron. Không như phản ứng phân hạch, phản ứng này chỉ sinh ra năng lượng khoảng 18 MeV. - Phân rã phóng xạ: Phóng xạ là hiện tượng một số hạt nhân nguyên tử không bền tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân (thường được gọi là các tia phóng xạ). Sự tự biến đổi như vậy của hạt nhân nguyên tử thường được gọi là sự phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân. Ví dụ urani tự vỡ ra thành các mảnh hạt nhân kèm theo sự thoát ra nơtron và một số hạt cơ bản khác, cũng là một dạng của sự phân rã hạt nhân. Trong quá trình phân rã hạt nhân đều có sự hụt khối lượng, tức là tổng khối lượng của các hạt tạo thành nhỏ hơn khối lượng hạt nhân ban đầu. Khối lượng bị hao hụt này chuyển hóa thành năng lượng khổng lồ được tính theo công thức nổi tiếng của Albert Einstein E=mc², trong đó E là năng lượng thoát ra khi phân rã hạt nhân, m là độ hụt khối và c=298.000.000 m/s là vận tốc ánh sáng trong chân không. - Dưới góc độ pháp lý, các điều ước quốc tế như Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân, Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện, Công ước An toàn hạt nhân, ... không đưa ra định nghĩa về NLNT hay năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, pháp luật của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển mạnh mẽ các ứng dụng NLNT 3 Cao Chi, “Kiến thức cơ bản về năng lượng hạt nhân”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, http://nangluongvietnam.vn/news/vn/khoa-hoc-va-cong-nghe/kien-thuc-co-ban-ve-nang-luong-hat-nhan.html 13 cũng có đưa ra các định nghĩa về NLNT hay năng lượng hạt nhân, chủ yếu khái niệm về các thuật ngữ này cũng dựa trên cơ sở khoa học vật lý như đã phân tích ở trên về bản chất của NLNT. Chẳng hạn như, theo khoản 1, Điều 3 Luật Năng lượng nguyên tử cơ bản năm 1955 của Nhật Bản, “thuật ngữ năng lượng hạt nhân được hiểu là tất cả các dạng năng lượng phát sinh từ hạt nhân nguyên tử trong quá trình chuyển hóa hạt nhân”4. Theo Điều 11, Chương 2, Luật Năng lượng nguyên tử năm 1954 của Hoa Kỳ, “Năng lượng nguyên tử có nghĩa là tất cả các dạng năng lượng phát sinh trong quá trình phân hạch hạt nhân hoặc biến đổi hạt nhân”5. Trong pháp luật Việt Nam, theo khoản 1 Điều 3 Luật NLNT 2008, “Năng lượng nguyên tử là năng lượng được giải phóng trong quá trình biến đổi hạt nhân bao gồm năng lượng phân hạch, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng do phân rã chất phóng xạ; là năng lượng sóng điện từ có khả năng ion hóa vật chất và năng lượng các hạt được gia tốc.”. Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về khái niệm NLNT cũng được tiếp cận dựa trên bản chất vật lý lượng tử và hóa học của quá trình giải phóng năng lượng hạt nhân. Cũng theo Luật NLNT 2008, hoạt động trong lĩnh vực NLNT được hiểu là hoạt động nhằm ứng dụng NLNT vào phục vụ đời sống kinh tế - xã hội của con người bao gồm: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực NLNT; - Xây dựng, vận hành, bảo dưỡng, khai thác, quản lý và tháo dỡ cơ sở hạt nhân, cơ sở bức xạ; - Thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng phóng xạ; - Sản xuất, lưu giữ, sử dụng, vận chuyển, chuyển giao, xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, nhiên liệu hạt nhân, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân; - Xử lý, lưu giữ chất thải phóng xạ và các dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT. - Có thể thấy, nguồn năng lượng lớn thu được từ các phản ứng biến đổi hạt nhân có thể được sử dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau phụ thuộc chính vào chính sách của mỗi quốc gia. Thuật ngữ “năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình” 4 Tạm dịch từ “The term "Nuclear Energy" means all types of energy emitted from the nucleus of an atom in the process of nuclear transmutation”, Article 3, Atomic Energy Basic Act, http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id=2233&vm=04&re=02 5 Tạm dịch từ “The term "atomic energy" means all forms of energy released in the course of nuclear fission or nuclear transformation”, Article 11, Chapter 2, Atomic Energy Act of 1954, http://pbadupws.nrc.gov/docs/ML1327/ML13274A489.pdf 14 được sử dụng lần đầu tiên trong bài phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower trước Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 08/12/1953, theo đó, NLNT cho hòa bình (atoms for peace) được hiểu là việc chỉ sử dụng năng lượng giải phóng từ sự biến đổi hạt nhân nguyên tử vào mục đích dân sự, đồng thời, nhấn mạnh rằng không sử dụng NLNT cho bất cứ hoạt động quân sự nào, đặc biệt là chế tạo, sản xuất vũ khí hạt nhân, tiến hành các vụ nổ thử hạt nhân. Như vậy, các quốc gia sử dụng NLNT nhằm mục đích hòa bình với mục tiêu chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống con người, cũng như đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường trước sự tác động ngày càng nghiêm trọng của vấn đề biến đổi khí hậu. Trong đó, sử dụng NLNT nhằm mục đích hòa bình được chia thành hai nhóm: ứng dụng trong vấn đề năng lượng (sản xuất điện hạt nhân) và ứng dụng phi năng lượng hay về bản chất chính là ứng dụng các đồng vị phóng xạ (xạ trị ung thư, chiếu xạ trong nông nghiệp để bảo vệ thực vật, sản xuất phân vi sinh,… ). Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, những nguy cơ và hậu quả nghiêm trọng của sử dụng NLNT vào các mục đích phi hòa bình, bao gồm việc phổ biến vũ khí hạt nhân, tiến hành các vụ nổ thử hạt nhân và khủng bố hạt nhân đang trở thành mối quan tâm, lo ngại chung của cộng đồng quốc tế. 1.2. Lịch sử hình thành và quá trình sử dụng năng lượng nguyên tử Trong những năm qua, NLNT có nhiều ứng dụng đa dạng, phổ biến nhất là sản xuất năng lượng, chế tạo vũ khí hạt nhân và áp dụng trong nhiều lĩnh vực bao gồm trong y học hạt nhân, hình ảnh cộng hưởng điện từ, cấy ion trong kỹ thuật vật liệu, bức xạ cacbon xác định tuổi trong địa chất học và khảo cổ học, ứng dụng trong nông nghiệp để tăng sản lượng và chất lượng cây trồng, … Trong những năm cuối thế kỷ XIX, urani – một trong những nguyên tố có khả năng dễ hấp thụ nơtron nhiệt và gây ra phân hạch hạt nhân nên được sử dụng làm nhiên liệu chủ yếu cho lò phản ứng hạt nhân, đã được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1789 bởi nhà hóa học người Đức, Martin Klaproth. Sau đó, bức xạ ion được phát hiện vào năm 1895 bởi Wilhelm Ronghen trong thí nghiệm cho một dòng điện chạy qua một ống chân không thủy tinh và tạo nên các tia X liên tục. Năm 1896, Henri Henri Becquerel đưa ra nhận định về các phóng xạ beta và các hạt alpha phát ra từ quặng uranit (có chứa radium và urani). Trong năm 1898, Pierre và Marie Curie đã tách được poloni và rađi từ quặng pecblen. Cũng trong năm 1898, Samuel Prescott đã phát hiện ra các bức xạ có thể tiêu hủy vi khuẩn trong thực phẩm6. 15 Những thành công trong thí nghiệm về phân hạch hạt nhân đã gây nên sự hấp dẫn cho nhiều nhà khoa học khác trong việc thực hiện nghiên cứu vào những năm đầu thế kỷ XX. Trong các nghiên cứu tiếp theo do Hahn và Strassmann thực hiện đã chỉ ra rằng, trong quá trình phân hạch hạt nhân không chỉ giải phóng rất nhiều năng lượng mà còn sản sinh ra các nơtron bổ sung. Các nơtron này có thể tiếp tục tạo nên sự phân hạch các hạt nhân urani khác từ đó hình thành nên một phản ứng dây chuyền tự duy trì nhằm tạo nên một nguồn năng lượng vô cùng lớn theo cấp số nhân. Một nghiên cứu khác trong sự phát triển của năng lượng hạt nhân trong giai đoạn này chính là ý tưởng về bom phân hạch (bom nguyên tử) do nhà vật lý người Pháp Francis Perrin đưa ra vào năm 1939. Từ tháng 4/1939, nhà vật lý học người Đức Werner Heisenberg cùng học trò của mình đã bắt đầu thực hiện dự án năng lượng hạt nhân dưới sự giám sát của Ủy ban bom mìn Đức quốc xã. Ban đầu, dự án được khởi động với mục tiêu chế tạo vũ khí hạt nhân nhưng đến năm 1942, dự án chính thức đóng cửa với kết luận về tính bất khả thi khi áp dụng năng lượng hạt nhân vào trong mục đích quân sự. Dù vậy, sự tồn tại của dự án đã thúc đẩy sự phát triển của bom nguyên tử tại Anh và Hoa Kỳ trong thời chiến7. Trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, với cuộc chạy đua vũ trang giữa các quốc gia tham chiến, các nhà khoa học Anh đã chịu áp lực lớn của Chính phủ trong việc nghiên cứu khai thác vũ khí hạt nhân. Hai nhà vật lý tị nạn sang Anh là Peierls và Fisch đã góp phần không nhỏ trong việc quân sự hóa năng lượng hạt nhân với bản ghi chép về các khái niệm trong cơ chế hoạt động của bom nguyên tử. Chính bản ghi chép của hai nhà nghiên cứu đã kích thích sự phát triển của việc chế tạo bom nguyên tử không chỉ tại Anh mà còn ở Hoa Kỳ trong những năm sau đó. Hai báo cáo đã được MAUD công bố vào tháng 7/1941 là “Sử dụng urani cho bom nguyên tử” và “Sử dụng urani như một nguồn năng lượng”. Báo cáo đầu tiên chỉ ra sự khả thi khi chế tạo một quả bom nguyên tử nặng 12 kg với khả năng tạo ra một vụ nổ tương đương với 1800 tấn thuốc nổ TNT và giải phóng một lượng lớn chất phóng xạ có khả năng ảnh hưởng tại nơi xảy ra vụ nổ trong một khoảng thời gian dài. Theo ước tính, cần phải sử dụng khoảng 5 triệu USD mỗi ngày và một lượng lớn lao động có kỹ năng để tạo nên 1 kg urani235 mỗi ngày8. Với lo ngại rằng người 6 Jerry M.Cuttler, Myron Pollycove, “Nuclear Energy and Health: And the benefits of Low-Dose Radiation Hormosis”, http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2664640/ 7 Lịch sử hình thành và phát triển của năng lượng hạt nhân, http://khoahoc.tv/lich-su-hinh-thanh-va-phattrien-cua-nang-luong-hat-nhan-53648 16 Đức cũng có thể tạo ra loại vũ khí tương tự, Anh ngay lập tức muốn ưu tiên cộng tác với Hoa Kỳ nhằm nhanh chóng chế tạo bom nguyên tử để phục vụ cho nhu cầu cấp thiết của chiến tranh. Báo cáo thứ hai của MAUD đã chỉ ra rằng hoàn toàn có thể sử dụng nhiệt lượng để cung cấp năng lượng ban đầu cho quá trình phân hạch trong bom nguyên tử đồng thời có thể bổ sung thêm một lượng lớn các đồng vị phóng xạ khác để thay thế cho urani trong phản ứng hạt nhân. Báo cáo cũng chỉ ra rằng có thể sử dụng hỗn hợp nước nặng và than chì để kiểm soát quá trình thực hiện phản ứng. Đây chính là mô hình lò hơi urani đầu tiên và vẫn còn được sử dụng để khai thác NLNT cho đến nay. Có thể nói, hai báo cáo trên đã định hình cho việc chế tạo thành công bom nguyên tử cũng như các lò hơi hạt nhân. Với diễn biến phức tạp của tình hình chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ cho rằng cần phải nhanh chóng sở hữu vũ khí hạt nhân, đây được coi là nhiệm vụ cấp thiết sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng và Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào tháng 7/1941; tại thời điểm đó, tất cả các nguồn lực của Hoa Kỳ đều dành cho việc phát triển bom nguyên tử. Sau các nghiên cứu của Hoa Kỳ, quả bom nguyên tử đầu tiên chứa urani235 đã được thả xuống Hiroshima, Nhật Bản vào ngày 06/08/1945 và quả bom thứ hai chứa plutoni239 đã được thả xuống Nagasaki, Nhật Bản vào ngày 09/08/19459. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nghiên cứu trước đó về vũ khí hạt nhân bắt đầu được các quốc gia xem xét để phục vụ cho mục đích hòa bình. Bên cạnh nguồn kinh phí để duy trì tiềm lực quân sự với vũ khí hạt nhân thì các quốc gia tiên phong ngành NLNT như Hoa Kỳ, Nhật, Liên Xô, … cũng đã có một nguồn ngân sách đầu tư nhằm phát triển năng lượng hạt nhân cho hơi nước và điện năng. Trong quá trình chạy đua vũ trang, các nước phương Tây bao gồm cả Liên Xô đều mua hàng loạt công nghệ xoay quanh năng lượng hạt nhân và trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng còn có thể khai thác trực tiếp năng lượng hạt nhân để tạo ra điện năng. Điều này đã mở ra rất nhiều tiềm năng cho năng lượng hạt nhân, từ cung cấp lưới điện quốc gia cho đến động cơ cho tàu ngầm. Tại Liên Xô, vào tháng 5/1946, Viện Vật lý kỹ thuật điện đã được thành lập với mục tiêu phát triển công nghệ điện hạt nhân. Các nhà máy điện hạt nhân được 8 Jerry M.Cuttler, Myron Pollycove, “Nuclear Energy and Health: And the benefits of Low-Dose Radiation Hormosis”, http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2664640/ 9 Lịch sử hình thành và phát triển của năng lượng hạt nhân, http://khoahoc.tv/lich-su-hinh-thanh-va-phattrien-cua-nang-luong-hat-nhan-53648 17 thành lập dựa trên nguyên lý trước đó là sử dụng than chì và nước nặng để kiểm soát quá trình phản ứng dây chuyền. Đây là mô hình cơ bản vốn được sử dụng cho mục đích quân sự trong thời chiến để làm giàu plutoni bao gồm cả nhà máy hạt nhân nổi tiếng Chernobyl. Tháng 6/1954, AM-1 là nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới tại Obninsk (Liên Xô cũ) đã chính thức hoạt động. Lò phản ứng AM-1 đạt công suất cung cấp điện năng 30 MWt và tiếp tục sản xuất điện tới năm 195910. Sau chiến tranh, Chính phủ Hoa Kỳ khuyến khích phát triển NLNT cho mục đích dân sự hòa bình. Sau sự kiện thành lập Ủy ban Năng lượng nguyên tử (AEC) vào năm 1946, Hoa Kỳ đã tiến hành xây dựng các lò phản ứng nghiên cứu tại Idaho, lò phản ứng tạo ra điện năng đầu tiên vào ngày 20/12/1951. Vào năm 1953, Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower đã đề xuất chương trình “hạt nhân cho hòa bình” nhằm kêu gọi các nghiên cứu hạt nhân hướng tới phát điện đồng thời thiết lập phát triển ngành công nghiệp điện hạt nhân dân sự tại Hoa Kỳ. Nhà máy mang tên Yankee Rowe được khởi công xây dựng từ năm 1960 và chính thức đi vào hoạt động vào năm 1992. Cùng lúc đó, lò phản ứng nước sôi (BWR) với công suất 250 MW được phát triển bởi phòng thí nghiệm quốc gia Argonne. Nhà máy đầu tiên áp dụng công nghệ lò BWR mang tên Dresden-1 được chính thức thiết kế và xây dựng bởi General Electric vào năm 196011. Trong thập niên 70 của thế kỷ XX, khủng hoảng dầu mỏ đã thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của điện hạt nhân, mô hình lò PWR và BWR đã có được đặt hàng từ rất nhiều nơi với công suất được nâng lên đến 1000 MW. Tuy nhiên, vào tháng 03/1979, tai nạn nghiêm trọng tại nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island (Hoa Kỳ) và tai nạn đặc biệt nghiêm trọng tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vào tháng 04/1986 đã tác động rất lớn tới vấn đề đánh giá lại việc ứng dụng NLNT vào sản xuất điện bởi hậu quả từ mức độ ảnh hưởng của bức xạ ra môi trường, con người và việc xử lý chất thải phóng xạ rất phức tạp. Một trong bốn lò phản ứng tại nhà máy Chernobyl, cách Kiev, Ucraina 110 km phát nổ và chỉ hai ngày sau, bụi phóng xạ được phát hiện tận Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan, cách đó hơn 1600 km. Theo Báo cáo năm 2005 của Chernobyl Forum - Tổ chức được thành lập bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Liên hợp quốc và Chính phủ các nước Belarus, Nga, 10 Lịch sử hình thành và phát triển của năng lượng hạt nhân, http://khoahoc.tv/lich-su-hinh-thanh-va-phattrien-cua-nang-luong-hat-nhan-53648 11 U.S. Department of Energy Office of Nuclear Energy (DOE/NE)-0088, “The history of nuclear energy, Washington”, D.C, page 7,8 http://www.energy.gov/sites/prod/files/The%20History%20of%20Nuclear%20Energy_0.pdf 18 Ucraina đã kết luận rằng, có 212 người chết trong tổng số 72.000 người bị phơi nhiễm phóng xạ. Tổ chức Hoà bình Xanh đánh giá sẽ có thêm 270.000 ca ung thư có liên quan tới vụ Chernobyl12. Do đó, từ những năm 1970 đến năm 2000, ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân gặp phải một số suy giảm và trì trệ. Sau thảm họa Chernobyl và dư luận toàn thế giới về vấn đề an toàn đối với hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân, các quốc gia đã tập trung chú trọng vào việc sửa chữa, nâng cấp hệ thống an toàn lò phản ứng, tăng cường an ninh thanh sát đồng thời tạm dừng hoạt động của một số nhà máy điện hạt nhân hoặc ngừng xây thêm các tổ máy mới. Trong giai đoạn này, ứng dụng NLNT chủ yếu trong lĩnh vực y tế như xạ trị ung thư, chẩn đoán hình ảnh; trong lĩnh vực nông nghiệp như gây giống cây trồng, chế tạo các chế phẩm kích thích tăng trưởng và bảo vệ thực vật hay được ứng dụng trong việc nghiên cứu nâng cao hiệu suất thăm dò và khai thác dầu khí; … Tuy nhiên, giai đoạn những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhằm mục đích đảm bảo an ninh năng lượng, cụ thể đó là sự cần thiết đa dạng hóa nguồn để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng trên toàn thế giới trong khi nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt; đồng thời sự nóng lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính và những vấn đề môi trường, sinh thái, các quốc gia đã có những chính sách mới để tái khởi động các nhà máy điện hạt nhân. Trước năm 2011 (thời điểm xảy ra tai nạn Fukushima tại Nhật Bản), tổng 433 lò với tổng công suất 371.422 MW, tổng sản lượng năm 2011 là 2518 tỷ KW (chiếm 13,5% tổng sản lượng điện thế giới)13. Nhưng, sau sự cố nổ nhà máy điện hạt nhân Fukushima, Nhật Bản thì vấn đề ứng dụng NLNT vào sản xuất điện lại tiếp tục gây ra nhiều tranh cãi. Đức, Bỉ và Thụy Sỹ quyết định loại bỏ dần điện hạt nhân, Chính phủ Đức đã đưa ra lộ trình đóng cửa tất cả các nhà máy điện hạt nhân trước năm 2022; một số quốc gia tiến hành đánh giá lại chương trình điện hạt nhân và tăng cường an toàn hạt nhân như Hoa Kỳ, Nhật, Nga,… Trong khi đó, nhóm các quốc gia mới bắt đầu khởi động chương trình điện hạt nhân vẫn tiếp tục cam kết thực hiện như Việt Nam, Bangladesh, Belarus, Thổ Nhĩ Kỳ, ... Riêng tại Nhật Bản, năm 2014, 5 tổ máy mới được nối vào lưới điện, năm 2015, Chính phủ Nhật Bản quyết định tái khởi động các nhà máy điện hạt nhân, trong đó, nhà máy Sendai đã nạp nhiên liệu vào ngày 07/07/2015 và khởi động vào tháng 08/201514. Đồng thời, trong giai đoạn hiện 12 WHO (2006), “Report of the UN Chernobyl Forum expert group Health”, Geneva, http://www.who.int/ionizing_radiation/chernobyl/who_chernobyl_report_2006.pdf 13 The World Nuclear Association, “World Nuclear Power Reactors & Uranium Requirements”, http://www.world-nuclear.org/info/reactors.html 19 nay, việc ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ trong nông nghiệp, công nghiệp, y tế vẫn đang tiếp tục được triển khai, phát triển ở các quốc gia trên thế giới với nhiều thành tựu nổi bật. 1.3. Cơ sở pháp lý quốc tế đối với hoạt động sử dụng năng lượng nguyên tử nhằm mục đích hòa bình 1.3.1. Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử Thảm họa hạt nhân Hiroshima và Nagasaki ở Nhật Bản năm 1945 đã khiến toàn thế giới nhận thức được cần phải có biện pháp hạn chế phổ biến và sử dụng vũ khí hạt nhân; đồng thời xuất phát từ thực tiễn các quốc gia ngày càng có xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật hạt nhân vào các mục đích phi quân sự sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, lần lượt, các điều ước quốc tế về sử dụng NLNT đã được nhiều quốc gia thông qua, sửa đổi, bổ sung. Các điều ước quốc tế chính là kết quả của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí và hành động của cộng đồng quốc tế nhằm tạo lập, duy trì một hành lang pháp lý quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của ngành NLNT trên cơ sở khuyến khích ứng dụng công nghệ hạt nhân vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và nền văn minh thế giới; đồng thời, bảo vệ con người, xã hội và môi trường khỏi những tác hại từ chính việc sử dụng nguồn năng lượng này. Ngày 08/12/1953, Tổng thống Hoa Kỳ Aisenhower đã có bài phát biểu quan trọng về vấn đề “Nguyên tử vì hòa bình” trước Đại hội đồng Liên hợp quốc. Bài phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ đã nhấn mạnh những ứng dụng hạt nhân trong lĩnh vực dân sự như nông nghiệp, y tế và đặc biệt là điện năng. Đây được xem là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước khởi đầu của các cam kết về việc phát triển công nghệ hạt nhân và sử dụng NLNT vì mục đích hòa bình. Năm 1957, Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và Cơ quan Năng lượng nguyên tử châu Âu (NEA) được thành lập với mục tiêu xúc tiến và hỗ trợ các quốc gia trong việc sử dụng hiệu quả NLNT vì mục đích hòa bình. Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực NLNT được chia thành ba nhóm như sau: Thứ nhất, các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân và thanh sát hạt nhân. Đây là các điều ước nhằm bảo đảm chính sách không phổ biến vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị hạt nhân với mục tiêu cơ bản là kiểm soát việc sử dụng kỹ thuật hạt nhân, vật liệu hạt nhân vì mục đích hòa bình và 14 IAEA (2015), “Nuclear Technology Review 2015”, Report by the Director General, https://www.iaea.org/About/Policy/GC/GC59/GC59InfDocuments/English/gc59inf-2_en.pdf 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan