Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

.PDF
72
96
143

Mô tả:

Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Đảng về sở hữu. Đánh giá vấn đề sở hữu tập trung vào các hình thức sở hữu ở Việt Nam. Nêu ra những hạn chế và luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC -------------------------- THÁI THỊ CHÚC VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC -------------------------- THÁI THỊ CHÚC VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Ngọc Liêu Hà Nội – 2019 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Ngọc Liêu đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019 Thái Thị Chúc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU ............................................ 7 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu ................................. 7 1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay..................................................................... 14 Chương 2. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .. 23 2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường .................................................................................................. 23 2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu. .................................................. 23 2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu. ......................................................................................................................... 27 2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam hiện nay. ......................................................................................................... 34 2.2.1. Sở hữu nhà nước.................................................................................. 36 2.2.2. Sở hữu tập thể ...................................................................................... 40 2.2.3. Sở hữu tư nhân .................................................................................... 43 2.2.4. Sở hữu hỗn hợp .................................................................................... 47 2.3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra ........................................................... 50 KẾT LUẬN .................................................................................................... 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Sở hữu luôn được coi là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề sở hữu sẽ tạo động lực cho phát huy kinh tế- xã hội, nhưng nếu không nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề sở hữu sẽ làm cản trở đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh cuốn hút các quốc gia vào một sân chơi chung. Vì vậy, mỗi quốc gia phải nhanh chóng thay đổi, bắt nhịp được xu thế chung của thế giới. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Với tình hình đất nước ta hiện nay, đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu và tìm ra các giải pháp giải quyết vấn đề. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển sẽ làm thay đổi vấn đề sở hữu theo hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho chủ thể kinh tế như các hình thức sở hữu đa dạng giúp cho chủ thể kinh tế có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh và phát huy tính năng động sáng tạo của mình. Từ đó, họ đảm bảo cuộc sống và mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, làm thay đổi các hình thức sở hữu. Bối cảnh phát triển mới của đất nước cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Đó là hiện thực khách quan ảnh hưởng hệ thống và sâu sắc trực tiếp đến tiến trình phát triển của Việt Nam, nhưng lại chưa được nghiên cứu. Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đứng trước những thời cơ và thách thức của thời đại, trước yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam nhất thiết phải tiếp tục giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu. Từ đây, đòi hỏi Đảng và nhà 1 nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thay đổi tư duy lãnh đạo, đổi mới đường lối và chính sách cho phù hợp với công cuộc hội nhập và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay và vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm nghiên cứu. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã có nhiều chính sách kịp thời nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế. Từ đó đến nay, vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm nghiên cứu. Song, thực tiễn xây dựng đất nước luôn đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết các vấn đề xung quanh sở hữu về bản chất của sở hữu, sự tồn tại, vai trò của các hình thức sở hữu hiện nay và những vấn đề đặt ra vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, vấn đề sở hữu luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị- xã hội. Việc giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề cơ bản trong việc xác định mô hình cũng như phương hướng phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Những tác động của thời cuộc đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự thay đổi của sở hữu và những quan niệm của con người về sở hữu. Vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm không những là những nhà nghiên cứu khoa học về luật pháp hay kinh tế, xã hội mà còn cả người dân trong nước mà còn có cả nước ngoài. 2 Trong đó, có thể kể ra một số công trình đề cập đến vấn đề sở hữu tiêu biểu sau đây: - Cuốn “Chủ nghĩa Mác- Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam” NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Đặng Hữu Toàn, tác giả đã phân tích vấn đề đa dạng hóa và tính chất đan xen của các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nhấn mạnh sự phát triển kinh tế tư nhân. Cuốn “Về vấn đề sở hữu” do Nguyễn Thị Luyến (chủ biên), tác giả chỉ ra rằng vấn đề sở hữu rất phức tạp và đang còn nhiều ý kiến khác nhau. “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, đã trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, quan điểm về sở hữu. Bài viết “Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa trên tạp chí Cộng sản, tháng 6/1989. Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận của Phạm Văn Đức (tạp chí Triết học, số 2- 2005) chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ thuộc vào những chủ trương và giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các loại hình sở hữu. Bài viết: Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tạp chí Lý luận Chính trị, số 032006) của tác giả Nguyễn Nhâm đã làm rõ tính khách quan của các hình thức sở hữu, xác định rõ các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Các đề tài nghiên cứu khoa học như: kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối với quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, 2001 do TS Trần Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài; công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế 3 thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội do GS. TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên. Các công trình đã nghiên cứu nhiều mặt của vấn đề sở hữu và đề cập khá sâu sắc, toàn diện và có hệ thống về vấn đề sở hữu. công trình “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luậnthực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006)” do Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận biên tập và nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản (lưu hành nội bộ) đã đề cập toàn diện và sâu sắc quá trình đổi mới và bài học rút ra về vấn đề sở hữu. - Các luận văn, luận án nghiên cứu như: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nguyễn Thị Huyền, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2004, trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề sở hữu, luận văn trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất và những nhân tố tác động đến quá trình hình thành, biến đổi của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế. Luận án Tiến sĩ Triết học: Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Vũ Hồng Sơn (2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trên cơ sở quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, thông qua phân tích sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu trên thế giới và trong công cuộc đổi mới ở nước ta, đã nêu lên xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Các đề tài trên là có đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu. Luận chứng khoa học một số nhận thức mới về phạm trù sở hữu. Và góp phần làm sáng tỏ nội dung quan điểm đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu hiện nay. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa đây là vấn đề đã được giải quyết thấu đáo. Thực tiễn khi xây dựng đất nước luôn luôn vận động, biến đổi và sở hữu với có sự ảnh hưởng quan trọng và luôn có những vấn đề mới nảy sinh cần được tiếp tục nghiên cứu. Song đây 4 sở hữu vẫn là vấn đề phức tạp và có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý báu cho triển khai đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu, đánh giá vấn đề sở hữu đặc biệt là các hình thức sở hữu và bước đầu luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ cụ thể như sau: • Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Đảng về sở hữu. • Đánh giá vấn đề sở hữu tập trung vào các hình thức sở hữu ở Việt Nam. Nêu ra những hạn chế và luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đặc biệt là các hình thức sở hữu. - Phạm vi nghiên cứu: • Về nội dung: Khi bàn về sở hữu dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn có rất nhiều vấn đề đặt ra. Có thể kể đến như các chủ đề như chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu, quyền sở hữu đối tượng sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu. Trong phạm vi của khóa luận, chúng tôi tập trung nghiên cứu khảo sát vào các hình thức sở hữu của Việt Nam hiện nay. • Về thời gian: Quá trình đổi mới từ năm 1986 cho đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong báo cáo là: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, logic- lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các phương pháp chung của khoa học xã hội. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận. - Ý nghĩa lý luận: Vì vậy, việc nắm vững vấn đề sở hữu, đặc biệt là luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ là cơ sở lý luận nền tảng tư tưởng cho việc vận dụng của Đảng trong hoạch định, định hướng phát triển cho đất nước. Đó là căn cứ để đấu tranh chống các tư tưởng phản động, chống đối và xuyên tạc quan điểm của Đảng và nhà nước. - Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần vào việc đánh giá có tính khái quát, nhận diện thực trạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta đang có quá trình hoà quyện, đan xem, bổ sung cho nhau để phát triển trong một hành lang định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là việc lựa chọn hợp quy luật và có hiệu quả, phát huy được các mặt của sở hữu. Trong đó, vẫn còn tồn tại mặt hạn chế và cần đưa ra những vấn đề đặt ra của sở hữu. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết. 6 Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu Khái niệm sở hữu đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu đời. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm “sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không được sử dụng, hoặc đã được dùng với những nghĩa khác xa nghĩa ngày nay [25; Tr. 9]. C. Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để phân tích xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, ông tìm ra quy luật khách quan về sự phát triển của xã hội loài người. C. Mác khác với những nhà tư tưởng cùng thời, ông đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn với các hình thái kinh tế- xã hội chứ không nghiên cứu khái niệm sở hữu một cách chung chung trừu tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin rất quan tâm vấn đề sở hữu, các ông đã tiếp thu một cách có chọn lọc những quan điểm về sở hữu và đã đưa ra những quan điểm khoa học về sở hữu dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, nhưng hầu như các ông không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về sở hữu. Trong các nghiên cứu của mình, C. Mác coi vấn đề sở hữu giữ vị trí cực kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Về mặt kinh tế, vấn đề sở hữu có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất. Sở hữu chính là mối quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan giữa người với người trong quá trình lao động sản xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải xã hội. Nhờ có mối quan hệ khách quan này, con người có thể tiến hành được quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã hội loài người có thể tồn tại và phát triển. C. Mác viết: “Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không có một tên sản xuất nào cả. Do đó cũng không có một xã hội nào cả”[8; Tr. 43]. Về mặt chính trị, C. Mác 7 cho rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản phẩm xã hội; giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất, thì giai cấp đó cùng năm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. Ông viết: “Tất cả các cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng đầu tiên cho đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo hộ chế độ sản xuất thuộc một loại nào đó.”[7;Tr. 173] Đồng thời, C. Mác coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của bất kỳ giai cấp nào trong xã hội, ông viết: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác- tùy thuộc vào trình độ phát triển của công nghiệp.”[2; Tr. 428]. Trong các tác phẩm mang tính cương lĩnh, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã xác định một cách triệt để và dứt khoát rằng sở hữu là “vấn đề cơ bản”, then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của Mác về sở hữu được trình bày ở nhiều tác phẩm Trong đó, có những tác phẩm viết riêng như “Tư bản”, “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844; có những tác phẩm viết chung với Ph. Ăngghen như “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”... Trước hết, C. Mác khẳng định: “định nghĩa sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”[3; Tr.234]. Đồng thời C. Mác và Ph. Ăngghen đều coi sở hữu không chỉ là một quan hệ xã hội, mà trước hết về thực chất và cơ bản, sở hữu là là mối quan hệ giữa người với người trong đời sống sản xuất xã hội, trước hết là tư liệu sản xuất và kết quả của lao động sản xuất. Con người chỉ đặt ra vấn đề sở hữu khi có sự hiện diện của người khác, cần khẳng định sự chiếm hữu của họ nhằm thực hiện một lợi ích nào đó được thừa nhận cả về kinh tế và pháp lý[27; Tr. 14]. Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng khẳng định sở hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể[5; Tr. 745- 746], C. Mác đã viết trong tác 8 phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847): “Trong các thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã hội hoàn toàn khác nhau.”[4; Tr. 234]. Khi định nghĩa về sở hữu C. Mác đã chỉ ra phương pháp luận để nghiên cứu khái niệm sở hữu đó là phân tích nền sản xuất xã hội. Vì chỉ có dựa vào nghiên cứu những điều kiện vật chất của đời sống xã hội mới đưa ra được định nghĩa, vị trí và vai trò của sở hữu. Sở hữu là quan hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Sở hữu luôn có hai nội dung kinh tế và pháp lý. Có thể hiểu một cách đơn giản nội dung pháp lý của phạm trù sở hữu thừa nhận về mặt pháp luật một vật phẩm nào đó (đối tượng sở hữu) là của ai và nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện ở chỗ, pháp luật quy định bảo vệ đối với chủ thể sở hữu như thế nào. Như trong tác phẩm “Quốc hữu hóa ruộng đất”, C. Mác đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thông qua luật pháp do chính họ đặt ra để đem lại tính ổn định về mặt xã hội (một sự thừa nhận nào đó) cho cái quyền nguyên thủy nảy sinh từ sức mạnh thô bạo. Còn nội dung kinh tế là những lợi ích mà người sở hữu được hưởng từ vật phẩm đó. Nội dung kinh tế của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Hai nội dung trên của sở hữu có quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển của các quan hệ sở hữu về mặt kinh tế sẽ kéo theo những thay đổi của quan hệ pháp lý. Còn, nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu rất phức tạp, bao hàm nhiều khâu, nhiều mối quan hệ, nó không chỉ dừng lại ở câu hỏi đối tượng sở hữu thuộc về ai, ai quản lý kinh doanh mà còn xem xét đến cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế như thế nào, dưới hình thức nào? Vì vậy, khi xác định được nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu trong một giai đoạn lịch sử nhất định thì cần phải đặt nó trong tất cả những mối liên hệ vốn có của nó. Sở hữu chính là biểu hiện về mặt xã hội của sự chiếm hữu, nó thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện kinh tế- xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách 9 khác, sở hữu là quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể biến đổi cùng với quá trình phát triển của lịch sử loài người. Quan niệm của C. Mác về sở hữu tư liệu sản xuất quyết định bởi tính chất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực lượng sản xuất, việc phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như việc tăng cường trao đổi hàng hóa là nguồn gốc nảy sinh hình thức sở hữu tư hữu. Bởi không ai có thể tiến hành sản xuất nếu như không sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất nào vì sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề tạo ra của cải vật chất và mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Các ông đã tiến hành phân tích những giai đoạn chủ yếu trong sự phát triển lịch sử của sản xuất mà cơ sở nền tảng của nó là sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Ở đây, quan điểm này được trình bày lần đầu tiên, các ông đã chỉ rõ, mỗi một nấc thang mới trong sự phát triển lịch sử của sản xuất đã làm nảy sinh những hình thức phân công lao động mới và tương ứng với mỗi hình thức phân công lao động ấy là những hình thức sở hữu mới và đến lượt mình, mỗi hình thức sở hữu này lại sản sinh ra những quan hệ xã hội và chính trị tương ứng với nó. C. Mác cho rằng: “không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang trong quá trình hình thành”[6; Tr. 15- 16]. Khi phát triển tới một giai đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, 10 trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Những quan hệ cũ đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ như cuộc cách mạng tư sản Pháp đã xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến để thay bằng chế độ sở hữu tư sản. Nói cách khác, một chế độ xã hội mới không thể ra đời, không thế chiến thắng chế độ xã hội cũ hay đứng vững khi mà các lực lượng sản xuất quá thấp kém hoặc quá trì trệ. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn đến thay đổi quan hệ sở hữu; bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa. Nhưng C. Mác cũng chỉ ra rằng tuy quan hệ sản xuất chịu sự quyết định trực tiếp của lực lượng sản xuất, nhưng với tư cách là thành tố quan trọng nhất, quyết định bản chất quan hệ sản xuất, quyết định bản chất chế độ kinh tế, quan hệ sở hữu là tiêu chí để phân biệt các hình thái kinh tế- xã hội khác nhau. Đặc biệt, để xóa bỏ chế độ tư hữu, theo C. Mác sẽ phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử của nó, với những ý nghĩa lịch sử của nó. Điều đó có nghĩa là, mặc dù chúng ta hiểu được thế nào là chế độ tư hữu và hơn thế, hiểu được bản chất của chế độ đó, nhưng chúng ta hoàn toàn không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, hay theo ý muốn chủ quan của con người. Ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ chế độ tư hữu cũng không thể thực hiện được ngay lập tức, như Ph. Ăngghen đã viết trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăngghen nêu rõ: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng 11 lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”[2; Tr. 469]. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra với phương thức sản xuất mới có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C. Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”. Kế thừa những quan điểm của C. Mác về sở hữu, Lênin đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã hội chủ nghĩa...”[28; Tr. 518]. Đồng thời, Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời đại mới, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX, tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Lênin cũng chỉ rõ đặc điểm kinh tế xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ 12 nghĩa. Ông giải thích: “Danh từ quá độ nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có cả những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”[29; Tr. 362]. Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với nhau. Bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ giữ vị trí thống trị và chi phối khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện tư tưởng này những năm sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP), làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị, đem lại sự khởi sắc nền kinh tế- xã hội, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới, những xí nghiệp vừa và nhỏ không thuộc quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả những xí nghiệp đã chuyển sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện Chính sách Cộng sản thời chiến song không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì trả lại cho chủ cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân, việc phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế Nga đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiêu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nên tiêu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nên tiêu sản 13 xuất và trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”. [30; Tr. 276] Nhưng, những tư tưởng của Lênin về thời kỳ quá độ, về phát triển kinh tế nhiều thành phần, về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và về phát triển nền kinh tế thị trường đã không được những người kế tục sau này kế thừa và phát triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo của nền kinh tế chỉ huy. Học thuyết Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho chính đáng của giai cấp công nhân, là cơ sở khoa học để hoạch định đường lối đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song việc vận dụng các nguyên lý về vấn đề sở hữu đòi hỏi phải tính đến những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Sự cứng nhắc giáo điều chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Chính C. Mác đã từng chỉ rõ, học thuyết mang tên ông “không phải là một giáo điều, mà là sự vận động”[29; Tr. 363]. Điều đó có nghĩa, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin phải được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể và cũng phải được nghiên cứu. Như vậy, nội dung phạm trù sở hữu khá rộng, phức tạp, bao hàm nhiều vấn đề, mối quan hệ, ở đây, chúng tôi chọn định nghĩa được nhiều người chấp nhận: “Sở hữu là phạm trù chỉ toàn bộ các mối quan hệ giữa người với người đối với đối tượng sở hữu và những sản vật đã tạo ra từ sự tác động của người lao động vào đối tượng sở hữu ấy bằng những công cụ lao động do lịch sử quy định.”[40; Tr. 17] 1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay. Năm 1975, sau khi giành được hoàn toàn độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lên xã hội chủ nghĩa cả 2 14 miền Bắc- Nam. Thời kỳ đầu chúng ta gặp rất nhiều khó khăn vì Việt Nam xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nền công nghiệp còn hạn chế, đồng thời chịu hậu quả của chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để lại. Mặc dù đã xây dựng và đã mất rất nhiều công sức để tiến hành công hữu, thậm chí đã phải cưỡng bức người dân để công hữu tư liệu sản xuất nhằm mau chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Đáng tiếc là do việc công hữu được tiến hành ồ ạt, thậm chí bất chấp cả hệ quả kinh tế- xã hội nên chế độ công hữu cao độ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã chưa phát huy được tác dụng trong thực tế sản xuất, kinh doanh và quản lý, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới kinh tế, thay đổi nội dung, cách quản lý, khai thác chế độ công hữu về tài sản. Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tưư tưởng Hồ Chí Minh vào thay đổi tư duy về vấn đề sở hữu, quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu được phát triển và hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương như: Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (Tháng 8/1979), Chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư (tháng 1/1981), Quyết định 25/CP của Thủ Tướng Chính phủ (1/1987). Bắt đầu từ Đại hội III của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cải tạo hệ thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã được thực hiện. Hai hình thức sở hữu này là cơ sở để xây dựng và phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979) thị trường được công nhận như là một phạm trù khách quan độc lập với kế hoạch, chúng ta có thể sử dụng để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 15 Từ năm 1986 đến nay, kế thừa các quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất, từ chỗ coi sở hữu là mục đích của cách mạng xã hội (thời kỳ trước đổi mới) chuyển thành phương tiện để phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã có bước phát triển mới về tư duy lý luận, khắc phục sai lầm chủ quan duy ý chí khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa để xác lập hai hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể. Đảng đánh dấu bước đột phá là trước đây coi sở hữu là mục đích của cách mạng thì bây giờ được coi là phương tiện để đạt mục tiêu trong phát triển kinh tế- xã hội. Sự đổi mới quan niệm về vấn đề sở hữu mà còn tập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đi đến một quyết định lịch sử với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là chiến lược lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã rút ra: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.”[12; Tr. 57] Đây chính là hướng tư duy khoa học tôn trọng sự vận động khách quan của kinh tế xã hội. Đặc biệt, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII và Văn kiện các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[14; Tr. 26 và 15; Tr. 19- 80]. Đó cũng là căn cứ để chúng ta xác định thế nào là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Áp dụng vào 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan