Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam (...

Tài liệu Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

.PDF
99
245
110

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ---- ---- NGUYỄN KHÁNH LY “VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM” LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2016 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ---- ---- NGUYỄN KHÁNH LY “VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM” LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC CHUYÊN NGÀNH : LUẬT QUỐC TẾ MÃ SỐ : 60380108 ; NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỒNG BẮC 3 HÀ NỘI – NĂM 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hồng Bắc. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong Luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung Luận văn của mình. Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016 Học viên Nguyễn Khánh Ly 4 LỜI CẢM ƠN Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các thầy cô của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô khoa Pháp luật Quốc tế của trường đã tạo điều kiện cho được thực hiện và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Và em cũng xin chân thành cám ơn cô giáo, TS. GVC Nguyễn Hồng Bắc đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp thầy, cô để em có thể trau dồi thêm được nhiều kinh nghiệm và kiến thức cho bản thân. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016 Học viên Nguyễn Khánh Ly 5 MỤC LỤC *** Trang 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài………………………………1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn…………………………3 4. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn………………………………….....4 5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn…………………………………4 6. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn………………………………..5 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn…………………………..5 8. Bố cục của Luận văn....………………………………………………...5 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài………………………..6 1.2. Ý nghĩa của việc quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…..11 1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………………………………………….13 CHƯƠNG II NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài............................................................................................20 2.1.1. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……..20 2.1.2. Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……28 6 2.1.3. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…………….…...32 2.1.4. Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài………………….35 2.1.4.1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi………………………..35 2.1.4.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi là trẻ em Việt Nam.................................................................................................................39 2.1.5. Hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………...…42 2.1.6. Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài..48 2.2. Thực tiễn giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…...60 2.2.1. Những thành tựu đã đạt được…………………………………………60 2.2.2. Những bất cập, khó khăn trong giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…………………………………………………………………............64 CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài................................................................................................................71 3.1.1. Ưu điểm……………………………………………………………….71 3.1.2. Hạn chế………………………………………………………………..74 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay……………77 KẾT LUẬN……………………………….…………………………………86 PHỤ LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1 Luật NCN năm 2010 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 2 NCN Nuôi con nuôi 3 SAI Service de l'Adoption internationale 8 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được pháp luật các nước điều chỉnh. Ở nước ta, trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần một mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết trong đời sống xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm con. Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân. Trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày nay, cùng với sự mở rộng của các quan hệ dân sự thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng rất phát triển. Thực tế trong những năm gần đây cho thấy, số lượng người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi không ngừng gia tăng, đặt ra các vấn đề pháp lý cần giải quyết. Ngày 17/06/2010, Quốc hội đã ban hành Luật Nuôi con nuôi nhằm điều chỉnh thống nhất việc nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một đạo luật. Bên cạnh đó, việc thông qua Luật nuôi con nuôi còn thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em; bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, hài hòa với tinh thần Công ước Lahay số 33 ngày 29/05/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam đã ký và phê chuẩn. Quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bên cạnh những thành công đã đạt được còn cho thấy một số tồn tại, bất cập cần tháo gỡ nhằm đảm bảo cơ chế nuôi con nuôi quốc tế chặt chẽ và minh bạch hơn. Nhận thấy tầm quan trọng của quan hệ nuôi con nuôi 9 có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay, đồng thời muốn tìm hiểu sâu hơn về quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, em xin chọn đề tài luận văn Thạc sĩ của mình là: “Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam” 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng không phải là vấn đề mới lạ, đã có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như các sách chuyên khảo, tuyển tập, luận án, luận văn... Cụ thể: Về sách chuyên khảo, tuyển tập: - Bộ Tư pháp, Cục con nuôi quốc tế (2006), Pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. - Nguyễn Công Khanh (2004), Một trăm câu hỏi về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Về luận án, luận văn: - Nguyễn Hồng Bắc (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ, Người hướng dẫn: TS. Hoàng Phước Hiệp, PGS.TS Hà Thị Mai Hiên, Hà Nội. - Đào Thị Thu Hường (2004), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hướng tới gia nhập Công ước La hay 1993, Luận văn Thạc sĩ, Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long, Hà Nội. - Phạm Thùy Dương (2006), Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ, Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long, Hà Nội. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên đều dựa trên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Dân sự năm 2005 nên về cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn có một số điểm không phù hợp với Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Sau khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 được ban hành có một công trình nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011. Trong đó, cuốn kỷ yếu: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi 10 năm 2010” bao gồm các bài viết của các tác giả phân tích nhiều nội dung xoay quanh vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra còn có các Khóa luận tốt nghiệp, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành Luật như: - Nguyễn Phương Lan (2012), Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học, số 5/2012, tr 48 – 55. - Lê Thị Bích Thủy (2012), Về nguyên tắc “chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước” theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học, số 10/2012, tr 46 – 53. Các đề tài trên đã phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời chỉ ra những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 so với các quy định trước đây về vấn đề này... Tuy nhiên, còn nhiều khía cạnh quan trọng của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa được nghiên cứu sâu sắc. Đặc biệt là chưa có sự so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới để rút ra những vấn đề cần học hỏi và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở những nghiên cứu của các đề tài trên, Luận văn sẽ tiếp tục làm rõ nội dung các quy định của pháp luật về vấn đề này, so sánh trong mối tương quan với pháp luật một số nước. Điều này sẽ giúp chúng ta có cách tiếp cận và hiểu các điều ước quốc tế trên khía cạnh tổng quan và trong sự hội nhập, phát triển của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn Đối tượng nghiên cứu: Luận văn hướng tới làm rõ những quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cụ thể là: các nguyên tắc giải quyết, thẩm quyền giải quyết, các trường hợp nuôi con nuôi, điều kiện nhận nuôi, hệ quả, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, Luận văn có sự so sánh với pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước 11 ngoài của một số nước trên thế giới như: Trung Quốc, Pháp cùng các tiêu chí so sánh cụ thể. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một Luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở Việt Nam và ở nước ngoài (trường hợp đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài) từ thời điểm Luật Nuôi con nuôi được ban hành năm 2010 đến nay. 4. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn Luận văn hướng tới phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi để làm rõ những kết quả đã đạt được, cũng như những điểm bất cập, những vướng mắc còn tồn tại, cần được giải quyết nhằm đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát triển. 5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài song vì nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam tương đối rộng nên còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu sâu. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn đó là: - Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nào cần được làm rõ hơn trong Luận văn này và đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này?. - Bên cạnh việc phân tích từng nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Luận văn kết hợp so sánh, đối chiếu như thế nào với pháp luật của một số nước trên thế giới như: Trung Quốc – là nước có số lượng trẻ em làm con nuôi người nước ngoài nhiều nhất thế giới, đồng thời pháp luật có sự tương đồng nhiều mặt với Việt Nam. Pháp – là nước nhận nhiều con nuôi là người Việt Nam nhất trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015?. Từ đó, Luận văn rút ra được những điểm tiến bộ và hạn chế gì của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và đưa 12 ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong thời gian tới ở Việt Nam như thế nào?. - Luận văn sử dụng những số liệu thực tế gần nhất về công tác nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài từ các Báo cáo tổng kết của Bộ Tư pháp cho đến thời điểm tháng 06/2016, thông qua việc xử lý số liệu Luận văn có những đánh giá gì về thực trạng tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam?. Từ việc phát hiện những bất cập của quy định pháp luật so với thực tế áp dụng thì có hướng sửa đổi như thế nào?. 6. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp cụ thể là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, bình luận kết hợp với các phương pháp khác như thống kê, điều tra xã hội học… 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn - Những kết quả nghiên cứu của Luận văn là những bổ sung vào lí luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; những đề xuất, kiến nghị trong Luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và đổi mới pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 8. Bố cục của Luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của Luận văn được bố cục thành ba chương: Chương I: Khái quát chung về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chương II: Những nội dung cơ bản và thực tiễn pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 13 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM Pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài trên thế giới được chia thành hai nhóm chủ yếu: - Nhóm thứ nhất: bao gồm các nước đang phát triển hoặc kém phát triển có dân số đông... thường là các nước cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, như: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam. - Nhóm thứ hai: bao gồm các nước phát triển, có nền kinh tế và xã hội ở trình độ cao... thường là các nước nhận trẻ em nước ngoài về làm con nuôi, như: Mỹ, Pháp, Úc, Anh. Với mỗi nhóm trên, pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài sẽ quy định những đặc tính riêng phù hợp với các quan hệ phát sinh NCN có yếu tố nước ngoài. Với các nước chủ yếu cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thì các quy định của pháp luật sẽ đề cập nhiều đến các chế định về trẻ em cũng như NCN có yếu tố nước ngoài một cách cụ thể. Đối với các nước chủ yếu có công dân nhận trẻ em của nước ngoài làm con nuôi thì pháp luật sẽ quy định cụ thể hơn đối với công dân của nước mình trong việc nhận con nuôi người nước ngoài. Về nội dung các chế định NCN nói chung và NCN có yếu tố nước ngoài nói riêng của các nước cũng rất khác nhau, có nước quy định trong Bộ luật dân sự, có nước xây dựng một luật riêng, có nước chỉ quy định như những nguyên tắc. Tuy nhiên, mục đích cao cả của các chế định NCN đều hướng tới bảo vệ lợi ích của trẻ em, tạo cho trẻ em mái ấm gia đình thay thế tốt nhất, giúp các em phát triển cả về tinh thần và thể chất. Ở Việt Nam, sau khi Luật NCN năm 2010 được ban hành cho đến nay, đã có hàng loạt các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành vấn đề NCN nói chung và vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể là: - Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ban hành ngày 21/03/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật NCN. - Thông tư liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP ban hành ngày 07/09/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí 14 hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực NCN từ nguồn thu lệ phí đăng ký NCN, lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép của tổ chức con nuôi nước ngoài, chi phí giải quyết NCN nước ngoài. - Thông tư số 15/2014/TT-BTP ban hành ngày 20/05/2014 hướng dẫn tìm gia đình thay thế ở nước ngoài cho trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, trẻ em từ 5 tuổi trở lên, hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần tìm gia đình thay thế. - Thông tư số 24/2014/TT-BTP ban hành ngày 29/12/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu mẫu NCN. - Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-BTP-BNG-BCA-BLĐTBXH ban hành ngày 22/02/2016 hướng dẫn theo dõi tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi nước ngoài và bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần thiết. - Quyết định số 3139/QĐ-BTP ngày 20/11/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Con nuôi. Như vậy, về cơ bản, hệ thống pháp luật Việt Nam về NCN có yếu tố nước ngoài đã khá hoàn chỉnh, tiến bộ, phù hợp với tinh thần Công ước Lahay năm 1993. Trong Luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài của hai nước tiêu biểu trong mỗi nhóm kể trên, đó là: pháp luật Trung Quốc bởi đây là quốc gia cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài nhiều nhất thế giới nên có sự gần gũi và tương đồng với pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, pháp luật Pháp bởi đây là quốc gia trong những năm gần đây nhận nhiều con nuôi là người Việt Nam nhất (xem Phụ lục 1, 2 của Luận văn). Tại Trung Quốc, Luật con nuôi của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 29/12/1991 có hiệu lực từ ngày 01/04/1992. Sau này, Luật con nuôi tiếp tục được sửa đổi tại cuộc họp Uỷ ban thường vụ lần thứ 5 và Quốc hội lần thứ 9 ngày 4/11/1998 và có hiệu lực kể từ ngày 01/4/1999. Luật gồm 34 điều, quy định chi tiết về nguyên tắc, 15 thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi. Tiếp đó, để thực thi Luật NCN, ngày 12/05/1999, Vụ Dân chính đã ban hành quy định đăng ký việc nuôi con nuôi của người nước ngoài tại Trung Quốc. Quy định này hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tại Pháp, có một hệ thống hoàn chỉnh các văn bản để giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài, cụ thể: - Bộ luật dân sự; - Bộ luật về Hoạt động xã hội và Gia đình; - Luật số 2005-744 ngày 04/07/2005 về cải cách lĩnh vực NCN; - Nghị định số 2006-981 ngày 01/08/2006 về việc chấp thuận cho nhận trẻ được nhà nước giám hộ hay trẻ em nước ngoài làm con nuôi và sửa đổi bộ luật hoạt động xã hội và gia đình; - Nghị định số 2006-1272 ngày 17/10/2006 về biểu mẫu quyết định và phiếu chấp thuận cho phép nhận trẻ được nhà nước giám hộ và trẻ em nước ngoài làm con nuôi; - Các điều từ R225-12 đến R225-46 Bộ luật Hoạt động xã hội và Gia đình về các tổ chức được phép hoạt động trong lĩnh vực NCN (OAA); - Nghị định số 2009-291 và thông tư ngày 16/03/2009 về cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính trung ương Bộ Ngoại giao và Châu Âu; - Nghị định số 2009-407 ngày 14/04/2009 về Cơ quan trung ương NCN quốc tế1. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài tại Pháp là Bộ luật dân sự. Cụ thể, tại phần VIII quy định riêng về nuôi con nuôi, Bộ luật bao gồm Chương I giải quyết vấn đề nuôi con nuôi đầy đủ hay còn gọi là nuôi con nuôi trọn vẹn (từ Điều 343 đến Điều 359), Chương II giải quyết về nuôi con nuôi đơn giản (từ Điều 360 đến Điều 370)2. 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Theo quan điểm chung, nuôi con nuôi được hiểu là việc trẻ em đi làm con nuôi ở gia đình khác trong cùng một nước hay ở ngoài nước, nhằm mục Xem: http://www.diplomatie.gouv.fr/fr/IMG/pdf/Adoption_VIETNAM.pdf truy cập ngày 20/06/2016. Xem: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?cidTexte=LEGITEXT000006070721 truy cập ngày 07/07/2016. 1 2 16 đích xác lập mối quan hệ cha mẹ và con, giữa người nuôi và con nuôi với mục đích đảm bảo cho người được nhận nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một loại hình nuôi con nuôi mà trẻ em không còn ở nước gốc mà ra nước ngoài làm con nuôi với cha mẹ nuôi cùng hoặc khác quốc tịch. Trẻ em Việt Nam được công dân nước ngoài nhận làm con nuôi thì được coi là con nuôi quốc tế hoặc con nuôi nước ngoài. Nuôi con nuôi là hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới. Trong Bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất đã chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt với đối tượng trẻ em bị bỏ rơi. Mục 106 của Bộ luật này đã quy định: Trước khi đàn ông có thể nuôi một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải trả đứa trẻ cho họ. Như vậy, có thể thấy giải pháp tốt nhất mà xã hội giành cho trẻ em ( Từ cổ xưa đến hiện đại) vẫn là “ưu tiên trước hết đối với trẻ là được chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ , được sống trong môi trường gia đình ruột thịt của mình” (Điều 3 Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc). Trong hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thì vì mục đích của nhận con nuôi con nuôi chủ yếu để duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản. Thời kỳ cách mạng tư sản việc nuôi con nuôi đã có ý nghĩa về mặt xã hội. Gia đình nào càng đông con thì càng hạnh phúc. Vấn đề con nuôi cũng được đề cập đến trong Bộ luật dân sự Napoleon 1804 – Bộ luật ra đời đánh dấu nền lập pháp hiện đại. Theo quan điểm của bộ luật này – điều trái ngược với mong muốn của Napoleon – thì việc nuôi con nuôi bị hạn chế. Nó đã xóa bỏ đối tượng con nuôi là trẻ vị thành niên, chỉ cho phép con nuôi là người đã trưởng thành và đã được chăm sóc trong gia đình cha mẹ nuôi 6 năm. Người nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và không có con nối dõi. Như vậy, giải pháp nuôi con nuôi chỉ được thực hiện trong trường hợp cha mẹ nuôi không có người thừa kế. Con nuôi được giữ nguyên tất cả các quyền của chúng trong gia đình gốc, chỉ được quyền thừa kế tài sản và mang tên của người nuôi. Có thể nói vấn đề nuôi con nuôi đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới, nhưng vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối quan tâm của công đồng thế giới trong vòng hơn nửa thế kỷ qua, kể từ chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ 17 và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Về “yếu tố nước ngoài” trong khoa học tư pháp quốc tế cũng đã có sự thừa nhận chung là có ba loại yếu tố nước ngoài. Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ có ít nhất một trong các bên tham gia là người nước ngoài. Người nước ngoài ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: có thể là cá nhân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài hoặc quốc gia nước ngoài. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Thứ hai, đối tượng của quan hệ là tài sản ở nước ngoài. Trong trường hợp này, các bên chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự cùng quốc tịch nhưng tài sản liên quan đến quan hệ đó nằm ở nước ngoài. Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Trong trường hợp này, các bên chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự cùng quốc tịch nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài3. Quan hệ NCN không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi mà hơn hết nó tác động trực tiếp đến sự sống, phát triển của một đứa trẻ, do đó, yếu tố nước ngoài trong quan hệ này được pháp luật Việt Nam quy định hẹp hơn so với quy định chung kể trên nhằm điều chỉnh một cách cụ thể, chặt chẽ hơn mối quan hệ này. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 (Luật NCN năm 2010) thì quan hệ NCN được cho là có yếu tố nước ngoài khi có một trong những yếu tố sau: - Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Theo giải thích tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 thì: “Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập Xem: Nguyễn Hồng Bắc (2014), Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr 35. 3 18 cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”. Khoản 1 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 giải thích rằng: “ Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”. Hiểu một cách đơn giản thì người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, trong trường hợp này là quan hệ NCN giữa người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam với trẻ em mang quốc tịch Việt Nam. - Quan hệ NCN giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam. - Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. Theo giải thích tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Trong trường hợp này là việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc tịch và đang sinh sống tại Việt Nam làm con nuôi. Như vậy, các quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài có liên quan đến pháp luật của nhiều nước, trong đó ít nhất có pháp luật của cha mẹ nuôi (Luật Quốc tịch hoặc luật nơi thường trú của người nhận nuôi) và pháp luật của con nuôi (Luật nơi thường trú hoặc Luật Quốc tịch của con nuôi). Thực tiễn cho thấy, không tránh khỏi những trường hợp pháp luật của các nước có liên quan quy định khác nhau về vấn đề NCN (như vấn đề điều kiện NCN, thủ tục thực hiện việc NCN, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi), từ đó đặt ra yêu cầu lựa chọn pháp luật của một trong các nước có liên quan điều chỉnh việc NCN. 1.2. Ý nghĩa của việc quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoàiu6  Ý nghĩa đối với người nhận con nuôi Con trẻ là nguồn vui, là động lực trong cuộc sống của bất kỳ cha mẹ nào. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà cặp vợ chồng không thể có con, xuất phát từ tấm lòng nhân đạo hoặc không có ý định xây dựng gia đình thì nhận con nuôi chính là giải pháp tốt nhất. Pháp luật Việt Nam quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho người nước ngoài thực hiện mong ước lớn lao đó là có một đứa con. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của 19 cha mẹ và con. Cha mẹ nuôi từ đây sẽ cùng sống dưới một mái nhà với con nuôi, sẽ chăm sóc, giáo dục con nuôi như chính con đẻ của mình, điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn với cha mẹ nuôi.  Ý nghĩa đối với người được nhận làm con nuôi NCN có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người được nhận làm con nuôi. Mỗi đứa trẻ khi sinh ra đều có quyền được hưởng sự yêu thương, chăm sóc của bố mẹ, gia đình, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng may mắn như vậy. Trên thực tế, rất nhiều trẻ em khi sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi hoặc hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ không có điều kiện để chăm sóc cho các em, các em phải lang thang kiếm sống và cuối cùng được đưa vào các cơ sở bảo trợ xã hội. Dù hiện nay, được sự quan tâm của các nhà hảo tâm trong và ngoài nước, điều kiện sống ở các cơ sở này đã cải thiện rõ rệt song các em ở đây vẫn chịu nhiều thiệt thòi so với các bạn cùng trang lứa. Bởi ở các cơ sở này, số lượng trẻ em ngày một gia tăng mà số lượng nhân viên chăm sóc lại hạn chế cùng với đó là gánh nặng về chi phí sinh hoạt do đó không thể quan tâm một cách tốt nhất đến các em. Không phải gia đình Việt Nam nào cũng có điều kiện nhận nuôi các em, nhất là những bé có bệnh cần được chữa trị và cả những bé nhiễm HIV, khi đó thì việc gia đình nước ngoài có lòng hảo tâm, tiềm lực kinh tế và mong muốn nuôi các em là một trong những giải pháp tốt nhất cho các em.  Ý nghĩa đối với cơ quan có thẩm quyền Việc trẻ em được nhận làm con nuôi làm giảm gánh nặng về tài chính, kinh tế, xã hội cho Nhà nước ta trong việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài đã tạo dựng những căn cứ, biện pháp để cơ quan chức năng dễ dàng thực hiện việc điều tra, giám sát, giải quyết những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ này. Đồng thời việc quy định NCN có yếu tố nước ngoài cũng sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Việt Nam với các nước khi tham gia ký kết các Hiệp định Hợp tác NCN quốc tế, từ đó nâng cao mối quan hệ bang giao không chỉ trong lĩnh vực này mà trên các lĩnh vực khác. 20 Chính vì vậy, pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng với trẻ em được nhận làm con nuôi và cả cha mẹ nuôi của các em. Nó là cơ sở pháp lý đem lại cho trẻ em mái ấm gia đình cũng như bảo vệ quyền lợi của cha mẹ nuôi người nước ngoài, đồng thời, nó hạn chế phần nào những sai phạm, hành vi trái pháp luật có thể xảy ra trong quá trình nhận NCN có yếu tố nước ngoài mà cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết. 1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.3.1. Thời kỳ trước năm 2000 Bước vào thời kỳ đổi mới, với chính sách ngoại giao rộng mở, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quan hệ giữa Việt Nam và các nước ngày càng phát triển, cùng với đó các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có xu hướng ngày càng mở rộng đã đặt ra yêu cầu cần có một văn bản quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là văn bản đầu tiên quy định về vấn đề NCN trong một chương riêng (Chương VI), nhưng vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài chỉ được quy định chung chung ở Điều 53. Ngày 29/04/1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 145HĐBT ban hành quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý - Đây là văn bản đầu tiên đánh dấu bước phát triển của pháp luật Việt Nam về NCN có yếu tố nước ngoài. Sau đó, liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Tư pháp – Ngoại giao – Nội vụ đã ban hành Thông tư số 01/TTLB ngày 19/01/1993 hướng dẫn thi hành Quyết định số 145-HĐBT. Ngày 02/12/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ngày 30/11/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 184/CP quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, NCN, nhận con đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Ngày 25/05/1995, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 503-LB/TT hướng dẫn thi hành Nghị định số 184/CP của Chính phủ. Như vậy, các văn bản trên đã tạo nên cơ sở pháp lý thống nhất mang lại
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan