Lêi c¶m ¬n
Trong qua tr×nh häc tËp vµ hoµn thµnh khãa luËn. T«i ®· nhËn ®îc sù gióp
®ì vµ gãp ý ch©n thµnh cña c¸c thÇy c« trong khoa LÞch sö còng nh c¸c b¹n
trong líp 46A - Trêng §¹i hoc Vinh, ®Æc biÖt lµ sù gióp ®ì, chØ b¶o tËn t×nh
cña thÇy gi¸o híng dÉn: PGS.TS NguyÔn C«ng Khanh. T«i xin bµy tá lßng biÕt
¬n sù gióp ®ì quý b¸u cña thÇy.
MÆc dï ®· hÕt søc cè g¾ng, nhng do thêi gian vµ n¨ng lùc cã h¹n nªn
khãa luËn kh«ng tr¸nh khái khiÕm khuyÕt, kÝnh mong c¸c thÇy c« vµ c¸c b¹n
ch©n thµnh gãp ý ®Ó t«i rót kinh nghiÖm cho c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa
häc lÇn sau.
Xin ch©n thµnh c¶m ¬n!
Vinh, th¸ng 5 n¨m 2009
T¸c gi¶
Phan ThÞ Hång
DANH MôC c¸c ch÷ viÕt t¾t
BTC:
§êng èng dÉn dÇu Bacu - Tbilisi – Ceyhan
G7:
G8:
EU:
NATO:
OSCE:
SNG:
WTO:
Nhãm 7 níc c«ng nghiÖp ph¸t triÓn
Nhãm 8 níc c«ng nghiÖp ph¸t triÓn (thªm Nga)
Liªn minh ch©u ¢u
Tæ chøc HiÖp íc B¾c §¹i T©y D¬ng
Tæ chøc an ninh vµ hîp t¸c ch©u ¢u
Céng ®ång c¸c quèc gia ®éc lËp
Tæ chøc th¬ng m¹i thÕ giíi
MỤC LỤC
Mở đầu...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................5
4. Nguồn tư liệu sử dụng trong khóa luận......................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5
6. Đóng góp của khóa luận.............................................................................6
7. Bố cục của khóa luận..................................................................................6
Nội dung.........................................................................................................7
Chương 1 Những nhân tố tác động đến việc Nga công nhận độc lập
®ối với hai xø tù trÞ Nam Ossetia vµ Abkhazia.
......................................................................................................................
7
1.1. Bối cảnh quốc tế......................................................................................7
1.2. Tình hình hai vùng tự trị Nam Ossetia và Abkhazia trước 7/8/2008.......11
1.2.1. Tình hình Gruzia ..................................................................................11
1.2.2. Tình hình hai vùng tự trị Nam Ossetia và Abkhazia.............................13
1.2.2.1. Tình hình Nam Ossetia .....................................................................13
1.2.2.2. Tình hình Abkhazia ...........................................................................16
1.3. Chính sách của Nga đối với các nước láng giềng nói chung và với các
vùng lãnh thổ ly khai trong không gian hậu Xô viết nói riêng
........................................................................................................................
17
1.3.1. Đối với các nước láng giềng.................................................................17
1.3.2. Đối với các vùng lãnh thổ ly khai trong không gian hậu Xô viết.........20
Chương 2. Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia .................21
2.1. Nguyên nhân Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia............21
2.2. Hệ quả của việc Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia.......30
2.2.1. Hệ quả đối với Gruzia...........................................................................30
2.2.2. Hệ quả đối với Nga...............................................................................37
2.2.3. Hệ quả đối với Mỹ và phương Tây.......................................................44
2.2.4. Hệ quả chung........................................................................................50
2.3. Tương lai của hai vùng đất Nam Ossetia và Abkhazia vừa được Nga
công
nhận
độc
lập
......................................................................................................................
52
Chương 3. Quan hệ Nga - Mỹ sau sự kiện Nga công nhận độc lập
Nam Ossetia và Abkhazia và ảnh hưởng quốc tế của mối quan hệ này
......................................................................................................................
58
3.1. Quan hệ Nga - Mỹ...................................................................................58
3.2. Quan hệ Nga với các nước phương Tây khác (NATO, EU)....................63
3.3. Vị trí của sự kiện Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia
đối với việc hình thành trật tự thế giới mới
......................................................................................................................
67
Kết luận..........................................................................................................72
Tài liệu tham khảo........................................................................................75
Phụ lục...........................................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nét đặc trưng cơ bản của lịch sử thế giới hiện đại trong
những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là sự bùng nổ của các cuộc xung
đột sắc tộc và tôn giáo. Nhân loại đã chứng kiến những cuộc chiến tranh ly
khai đẫm máu. Một trong những vấn đề đó là các cuộc xung đột - tranh chấp
phức tạp trên nhiều lĩnh vực, đó là những xung đột liên quốc gia trong không
gian hậu Xô viết, những xung đột chịu tác động mạnh mẽ của sự tan rã Liên
Xô và bắt nguồn từ thời kỳ chuyển tiếp của các thể chế kinh tế, chính trị - xã
hội ở các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) những năm qua.
Vùng Kavkaz vẫn là vũ đài của những xung đột nặng nề nhất trên lãnh thổ
Liên Xô cũ. Hơn 40 cuộc xung đột lãnh thổ và sắc tộc đã xuất hiện làm cho
Kavkaz hết sức mất ổn định.
Mặt khác, trong không gian hậu Xô viết không chỉ có các xung đột liên
quốc gia, mà còn có nhiều xung đột ngay trong nội bộ các quốc gia. Nổi bật
trong số đó là cuộc chiến tranh ly khai khỏi lãnh thổ Gruzia của Abkhazia và
Nam Ossetia bùng nổ từ những năm 1991-1992 đến nay vẫn chưa ngớt tiếng
súng, nhưng không được quốc gia, tổ chức nào công nhận độc lập. Tuy nhiên,
ngày 26/8/2008, nước Nga đã tuyên bố công nhận độc lập hai nước cộng hoà
trên thuộc Gruzia làm cho tình hình hết sức căng thẳng trong quan hệ quốc tế,
nhất là quan hệ giữa Nga và Mỹ kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc vào
cuối thế kỷ XX đến nay.
Ngoài vấn đề sắc tộc, tôn giáo, cuộc chiến tranh ly khai ở Gruzia từ 1991
đến nay còn chịu nhiều tác động và sức ép mạnh mẽ của các nhân tố từ bên
ngoài thúc đẩy mâu thuẫn trong nội bộ giữa Gruzia với Abkhazia và Nam
Ossetia một cách sâu sắc hơn. Nhất là khi chiến tranh lạnh đã kết thúc vào
cuối thế kỷ XX nhưng dường như cái bóng của nó vẫn ám ảnh ở một số nước
thuộc Liên Xô cũ, điển hình là ở Gruzia.
Còn Nga, đang trong thời kỳ phục hưng, cần có sự ủng hộ của phương
Tây nhưng đã công nhận độc lập của hai vùng tự trị trên dẫn đến sự đối đầu
với phương Tây. Bản thân Gruzia sẽ ứng xử như thế nào giữa những người
bạn lớn? Ẩn - thực chất đằng sau vấn đề Nga công nhận độc lập Nam Ossetia
và Abkhazia là gì mà làm cho tình hình thế giới căng thẳng và “tâm điểm” chú
ý trong những ngày qua?
Trên đây là những lý do khiến tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vấn đề Nga
công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia vµ tác động của nó đến quan hệ
Nga - Mỹ”, để có cái nhìn đúng đắn, chân thực, khách quan về vấn đề. Qua đó
giúp chúng ta rút ra được những bài học trong chiến lược đối ngoại đối với
nước ta, nhất là trong bối cảnh các thế lực thù địch luôn tìm cách gây rối loạn
tình hình an ninh - chính trị của nước ta.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, phong trào ly khai ở Gruzia, nhất là sự kiện Nga công nhận
độc lập Nam Ossetia và Abkhazia cũng như tác động của vấn đề đến quan hệ
giữa Nga với các nước, tổ chức, quan hệ quốc tế hãy còn là một vấn đề còn rất
mới mẻ. Trong một thời gian nó đã trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng đối với
dư luận thế giới quan tâm. Đã có những bài viết, bài nghiên cứu đến vấn đề
này nhưng tất cả những tài liệu ấy đều chưa đi sâu vào đề tài chúng tôi nghiên
cứu.
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kế thừa một số kết quả nghiên cứu
dưới những góc độ khác nhau của các công trình như:
Cuốn “Trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh, phân tích và dự báo”, tập 1
của Viện thông tin Khoa học xã hội, chuyên đề, Hà Nội, 2001 đề cập đến
những thay đổi của tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh, mối quan tâm đến
vị thế địa - chính trị của các nước lớn và xu hướng hình thành trật tự thế giới
mới…Tác phẩm cũng đã đề cập đến vị thế, ảnh hưởng của hai cường quốc
Nga và Mỹ trong trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh. Mặc dù, tác phẩm chưa
đi gần với vấn đề tôi nghiên cứu nhưng chính tác phẩm đã giúp chúng tôi
nhận thức được sự chi phối cũng như sự can thiệp của hai quốc gia Nga và Mỹ
đến mối quan hệ nội bộ của các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ.
Cuốn “Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI”, do Nguyễn Thiết Sơn chủ biên,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, đã trình bày quan điểm bá
quyền của Mỹ trong chính sách đối ngoại đối với các nước trên thế giới, trong
đó Mỹ được coi là siêu cường chi phối mọi hoạt động của quan hệ quốc tế,
nước Mỹ đã giành nhiều thời gian cũng như tiền bạc vào các mối quan hệ đối
ngoại với các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ. Người Mỹ cũng như chính
phủ của họ theo sát từng bước tiến của Liên bang Nga, và không ngừng nâng
cao tinh thần cảnh giác trước một nước Nga đang hồi sinh sau trận ốm nặng
kéo dài hơn một thập niên.
Cuốn “Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI” của Vadim Makarenco, do Ngô
Thuỷ Hương, Đinh Phương Thuỳ, Lê Văn Thắng dịch, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội, 2002, đã đề cập đến những yếu tố liên quan đến sự phát
triển của Liên bang Nga trong tương lai, các mối quan hệ chiến lược trong quá
trình hội nhập vào nền kinh tế, chính trị thế giới. Cuốn sách, cũng đã đề cập
đến những đường lối, chính sách đối ngoại của chính quyền Liên bang Nga
đối với nước Mỹ trước những biến động của tình hình quốc tế cũng như chính
trong nội các Nga và Mỹ.
Hai cuốn sách “Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI” và “Nước Mỹ năm
đầu thế kỷ XXI” đều đề cập đến những thay đổi chiến lược trong chính sách
đối ngoại cũng như quan điểm mới về chính sách đối ngoại trong thời kỳ mới
của Nga và Mỹ. Trong đó, đã nêu bật lên sự quan tâm hàng đầu của hai quốc
gia này đối với nhau, vì, về thực chất thì cả Nga và Mỹ đều đang tìm cách để
kìm chế lẫn nhau trong nhiều vấn đề có liên quan đến lợi ích quốc gia của họ.
Mặc dù cả hai cuốn sách đều không đi gần với vấn đề tôi nghiên cứu, nhưng
đó là cơ sở để chúng tôi nhận thức được vấn đề Nga công nhận độc lập Nam
Ossetia và Abkhazia sẽ tác động đến mối quan hệ Nga - Mỹ nói riêng và Nga
với các nước, tổ chức khác nói chung.
Đặc biệt, để hoàn thành, giải quyết tốt nhất những vấn đề mà đề tài đặt ra
thì chúng tôi chủ yếu sử dụng, cập nhật ở nhiều báo, tạp chí, internet như:
- Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân.
- Tuần tin tức.
- Báo An ninh thế giới, báo Hồ sơ - sự kiện - bình luận.
- Tư liệu từ Thông tấn xã Việt Nam.
- Internet: http://google.com.vn; http://xem.com.vn. …
Song tất cả những tài liệu trên thiên về phong cách luận chính trị - thời sự
cao, đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề. Vì thế, tài liệu có tính chất phân
tán, đòi hỏi người nghiên cứu phải có khả năng xử lý.
Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu vấn đề này còn rất mới mẻ, vấn đề chính
của đề tài còn mang tính chính trị - thời sự cao. Tuy nhiên, những tài liệu trên
đây sẽ là cơ sở, là nguồn tư liệu quan trọng đề chúng tôi tiến hành khoá luận
của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài trên, chúng tôi sẽ phác hoạ qua về tình hình Gruzia, Nam
Ossetia và Abkhazia đề thấy phong trào ly khai cũng như hiểu được ngọn
nguồn của vấn đề. Tìm hiểu nguyên nhân sự kiện xung đội quân sự Nga Gruzia và sự kiện Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia.
Qua đó để thấy rõ động cơ, sự can thiệp của các nước lớn, nhất là Nga và
Mỹ đối với các nước trong không gian hậu Xô viết nói chung và Gruzia nói
riêng. Cũng như thấy được mối quan hệ Nga - Mỹ trong chính sách ngoại giao
về chiến lược lợi ích quốc gia của họ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung vào nghiên cứu sự kiện xung đột quân sự Nga Gruzia, Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia. Tác động của nó
đến quan hệ Nga - phương Tây nói chung và Nga - Mỹ nói riêng.
4. Nguồn tư liệu sử dụng trong khoá luận
Như đã nêu ở trên, đây là đề tài về một vấn đề cụ thể còn đang rất mới
mẻ, các diễn biến của vấn đề này vẫn đang tiếp diễn nên nguồn tài liệu khai
thác được vẫn đang rất hạn chế.
Ngoài các sách mang tính chất tham khảo như đã giới thiệu phần lịch sử
nghiên cứu vấn đề, khoá luận được tiến hành chủ yếu trên cơ sở nguồn tư liệu
từ Thông tấn xã Việt Nam, các báo như: Nhân dân, An ninh thế giới…các
nguồn trên mạng internet…
Bên cạnh đó, liên quan đến với vấn đề này chúng tôi còn tham khảo
nhiều công trình nghiên cứu khác như: luận văn tốt nghệp đại học “Bước đầu
tìm hiểu tình hình Tresnia (Liên bang Nga) từ 1991 đến nay” của tác giả Lại
Thị Hương, luận văn thạc sỹ lịch sử “Các cuộc “cách mạng sắc màu” ở
Gruzia, Ucraina và Cưrơgưxtan” của tác giả Phạm Thị Bình ở Thư viện
trường Đại học Vinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận chủ yếu dựa vào phương pháp duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng ta làm cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu.
Mặt khác, là đề tài thuộc chuyên ngành lịch sử nên nội dung được thể
hiện theo trình tự thời gian cụ thể. Do vậy, chúng tôi sử dụng các phương pháp
sau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic kết hợp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, đối chiếu…một mặt để xử lý các nguồn thông tin để dựng lại
sự kiện, mặt khác rút ra những kết luận, nhận xét ban đầu.
Về cơ bản, đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, chân
thực và khách quan.
6. Đóng góp của khoá luận
Thông qua khoá luận này chúng tôi sẽ cung cấp những hiểu biết về cuộc
khủng hoảng chính trị ở Gruzia nói riêng và diễn biến “hoà bình nóng” trên
thế giới hiện nay nói chung thông qua làm rõ nguyên nhân diễn biến, tác động
của sự kiện Nga công nhận độc lập cho Nam Ossetia và Abkhazia thuộc
Gruzia.
Giúp người đọc có cái nhìn xác thực hơn về mối quan hệ Nga - Mỹ cũng
như chính sách đối ngoại của hai nước từ sau chiến tranh lạnh đến nay liên
quan đến lợi ích quốc gia của họ.
Giúp người đọc có những hiểu biết ban đầu về một trật tự mới sau cuộc
chiến Gruzia - Nga.
Cũng thông qua khoá luận này, chúng tôi hy vọng góp phần làm cho bạn
đọc có cái nhìn cảnh giác đối với các hoạt động diễn biến hoà bình của Mỹ tại
Việt Nam.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, khoá luận bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến việc Nga công nhận độc lập đối
với hai xứ tự trị Nam Ossetia và Abkhazia ở Gruzia.
Chương 2: Nga công nhận độc lập Nam Ossetia và Abkhazia.
Chương 3: Quan hệ Nga - Mỹ sau sự kiện Nga công nhận độc lập Nam
Ossetia và Abkhazia và ảnh hưởng quốc tế của mối quan hệ này.
NỘI DUNG
Ch¬ng 1
Nh÷ng nh©n tè t¸c ®éng ®Õn viÖc nga c«ng nhËn
®éc lËp ®èi víi hai xø tù trÞ nam ossetia vµ abkhazia
ë gruzia
1.1. Bối cảnh quốc tế
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên bang Xô viết và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ là hai siêu cường của thế giới, chi phối lẫn nhau và chi phối mọi mặt
của đời sống quan hệ quốc tế. Có thể người ta còn nhiều bất đồng trong đánh
giá hàng loạt vấn đề chính trị - kinh tế - xã hội của Liên Xô cũ, song không ai
có thể phủ nhận một thực tế rằng Liên Xô là một cường quốc đủ mạnh để làm
đối trọng với Mỹ, để tạo ra và duy trì thế cân bằng chiến lược đó suốt thời kỳ
chiến tranh lạnh. Mặc dù đó là sự cân bằng rất nguy hiểm trên miệng hố chiến
tranh hạt nhân nóng toàn cầu, song nó cũng tạo ra sự ổn định tương đối trong
trật tự thế giới lúc bấy giờ.
Chiến tranh lạnh kết thúc đã kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống
XHCN ở Đông Âu, cùng với sự “suy yếu tương đối của Mỹ”, sự trỗi dậy của
Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, sự phân hoá trong các nước thế giới thứ 3.
Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tầm nhìn chiến lược của các quốc
gia trên thế giới. Các quốc gia không còn đứng trên lập trường đối đầu quyết
liệt nữa mà thay vào đó là đối thoại, là hướng tới “toàn cầu hoá” theo nghĩa là
một tiến trình phát triển mới về chất của nhân loại. Sức ép của toàn cầu hoá
làm bùng nổ sự đụng độ giữa tính dân tộc và tính toàn cầu, giữa quyền tự
quyết của các dân tộc và những cái gọi là chuẩn mực do các cường quốc nhân
danh các giá trị nhân loại áp đặt. Cũng đồng thời khơi dậy các xung đột sắc
tộc và mâu thuẫn tôn giáo, nội chiến và chiến tranh cục bộ vẫn diễn ra thường
xuyên, triền miên.
Từ đó cho thấy, chiến tranh lạnh kết thúc đã không như sự mong đợi lạc
quan của nhiều người, là thế giới sẽ được hoà bình và ổn định. Sự đối đầu
Đông - Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế…từng chi phối đời sống
quốc tế suốt thời kỳ chiến tranh lạnh đang nhường chỗ cho sự cách biệt ngày
một tăng giữa thế giới phát triển và thế giới chưa phát triển mà biểu hiện rõ
nhất là mâu thuẫn Bắc - Nam ngày một thêm sâu sắc…
Sau chiến tranh lạnh cùng với sự tan rã của Liên bang Xô viết đã làm cho
nước Nga cũng đồng thời mất đi những vùng đệm chiến lược trước đây thuộc
phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô cũ. Các nước Cộng hoà Xô viết cũ đều đã là
những quốc gia độc lập, có chủ quyền. Những chủ thể pháp lý quốc tế mới
này có quan hệ khá phức tạp với Liên bang Nga, thậm chí là đối đầu kịch liệt.
Những điều đó làm cho vị thế nước Nga bị mất trên trường quốc tế. Thế yếu
của nước Nga đã bị bộc lộ rõ ràng trước năm châu nhất là khi phương Tây,
đứng đầu là Mỹ tiến hành cuộc không kích vào Liên bang Nam Tư và xu
hướng bành trướng của khối NATO theo hướng “Đông tiến” khó có gì cưỡng
nổi. Động thái đó không chỉ đe doạ an ninh mà còn nhằm kiềm chế không để
nước Nga phục hồi địa vị cường quốc Âu - Á của mình.
Như vậy, chiến tranh lạnh kết thúc, phần thắng thuộc về Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, còn Liên Xô chịu phần thua làm cho tương quan lực lượng thay đổi
bất lợi cho Liên bang Nga. Vai trò địa - chính trị của Nga bị suy giảm: chẳng
những ảnh hưởng toàn cầu của Nga bị mất đi mà khả năng tác động vào tiến
trình vận động của các sự kiện đang diễn ra ở khu vực Âu - Á kề cận cũng bị
hạn chế, thậm chí ở SNG, Nga phải khó khăn lắm mới giữ được ưu thế của
mình. Trên thế giới và ngay cả ở châu Âu, có hàng chục, hàng trăm vấn đề đã
và đang được giải quyết mà không có sự tham gia của Liên bang Nga, trong
đó NATO mở rộng là một ví dụ.
Nhưng đa số các nhà nghiên cứu, nhà chính trị cả ở phương Tây lẫn
phương Đông đều cho rằng nước Nga trong tương lai sớm hay muộn sẽ khôi
phục được vị thế của mình trên trường quốc tế với tư cách là một cường quốc
lớn.
Còn Mỹ, sau khi kết thúc chiến tranh lạnh trong thế thắng đã lợi dụng
vươn lên nhằm xây dựng một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ đứng đầu. Trật tự
thế giới hình thành sau chiến tranh lạnh đã được nhiều nhà phân tích đánh giá
như một trạng thái quá độ của thế giới sang cấu trúc đa cực. Theo cách diễn
đạt của học giả Trung Quốc, trạng thái quá độ này là “nhất siêu đa cường”,
còn nhà chính trị học người Mỹ, Samuel Humingtơn thì dùng cụm từ “Đơn Đa cực” để diễn tả nó [11, 128].
Trái ngược với ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mỹ là hoạt động
đối ngoại của một số các nước lớn theo hướng, thiết lập hệ thống quan hệ
quốc tế đa cực, nhất là về kinh tế. Tính đa cực đó đang được thể hiện trước hết
trong quan hệ giữa các nước lớn. Ngoài Mỹ, các cường quốc thế giới, các
trung tâm quyền lực khác đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn, hoặc về
kinh tế - thương mại, hoặc về chính trị - quân sự trong đời sống xã hội loài
người. Ngoài các cường quốc lâu đời, đã xuất hiện các cường quốc mới nổi
lên ở các khu vực khác nhau. Trong đó, điều quan trọng nhất là các cường
quốc sau chiến tranh lạnh, từ các đồng minh của Mỹ trong NATO, G7 đến các
nước “đối tác chiến lược” như Trung Quốc, Liên bang Nga…đều ngày càng tỏ
ra độc lập hơn trong quan hệ với Mỹ, không cam chịu đối tác lép vế của Mỹ
như trước.
Thế kỷ XX đã khép lại, thế kỷ XXI mới bắt đầu với những bản thông
điệp về hoà bình, thịnh vượng với mong ước về một thế kỷ mới an lành, ấm
no cho tất cả mọi người. Thế nhưng, tiến trình toàn cầu hoá ngày càng nhanh
thì sự đối đầu của văn hoá phương Tây và văn hoá Hồi giáo ngày càng quyết
liệt, thế lực khủng bố ngày càng cực đoan hoá, bạo lực hoá và toàn cầu hoá.
Thế lực khủng bố can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia trở thành
mối đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới và sự ổn định khu vực.
Như vậy, thế giới mới sau chiến tranh lạnh đã chưa thể định hình rõ ràng.
Thập niên đầu của thế kỷ XXI đang dần qua trong những làn sóng gió của các
cuộc đấu tranh dành ảnh hưởng của các cường quốc, khu vực…trong đó nổi
bật nhất vẫn là tham vọng bá quyền của Mỹ. Tuy nhiên, trong hai năm gần đây
(2007-2008), sau bài phát biểu gây ấn tượng mạnh của cựu Tổng thống Nga
V.Putin tại Muynich, người ta tranh luận sôi nổi về hình hài của một trật tự thế
giới mới mà người đứng đầu điện Kremli đã phác hoạ. Họ chưa thật tin rằng,
trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo có thể một sớm một chiều sụp đổ.
Nhưng rồi cuộc chiến tranh ở Nam Ossetia và tiếp đến là cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ sau đó đã nhanh chóng lan toả ra khắp toàn cầu làm
lung lay không ít những người luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh tuyệt
đối của nước Mỹ. Nếu như niềm tin nước Mỹ - Trung tâm tài chính và kinh tế
toàn cầu đã bị lung lay thì vị thế chính trị hàng đầu thế giới của Mỹ cũng sẽ
không còn chắc chắn, vì, “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”. Hệ quả
tiếp theo là sức mạnh quân sự Mỹ cũng sẽ không mạnh như trước vì không có
gì phụ thuộc vào kinh tế như quân sự. Vị thế siêu cường duy nhất lãnh đạo thế
giới của Mỹ trong trật tự thế giới đơn cực, đã bị đụng chạm “không ít”.
Vậy trật tự nào cho thế giới tương lai? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta
cần hướng tới Hội nghị thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu vừa bế mạc tại
Oasinhtơn ngày 15/11/2008. Trong bài phát biểu bế mạc hội nghị, Tổng thống
Mỹ G.W.Busơ nói: “Chúng ta đang làm cho hệ thống tài chính của mình thích
ứng với thế giới trong thế kỷ XXI” [18].
Tổng thống Nga D.Medvedev tuyên bố: “Cơ cấu tài chính toàn cầu được
thiết lập từ cuối chiến tranh thế giới thứ II hiện đã lỗi thời, cần phải xây dựng
và tái cấu trúc tài chính quốc tế, đảm bảo cho hệ thống đó hoạt động công
bằng, hữu hiệu và hợp pháp” [18].
Rõ ràng, trật tự kinh tế thế giới trong những năm tới sẽ khác so với trật tự
đã từng hình thành trong mấy thập kỷ qua. Hệ quả là trật tự thế giới nói chung
sẽ khác trước. Điều đó chúng ta hiểu rằng, Mỹ đang suy yếu, Nga đang dần
phục hồi lại vị thế của mình. Vì “níc Nga là một nước lớn, do số phận quy
định, bằng cách này hay cách khác vẫn là một cường quốc trong các vấn đề
thế giới, bất luận những khó khăn mà nó gặp phải” [11,36].
Thập niên đầu thế kỷ XXI, nhân loại lại đối mặt với vấn đề mới nóng
bỏng: khủng bố, ly khai. Sự kiện Mỹ và phương Tây hậu thuẫn cho tỉnh
Kôsôvô đơn phương tuyên bố độc lập đã tạo ra một tiền lệ rất nguy hiểm trong
quan hệ quốc tế hiện nay. Dưới tác động của sự kiện Kôsôvô, vấn đề đòi ly
khai đang có xu hướng phát triển phức tạp, nguy hiểm không chỉ ở trong
không gian hậu Xô viết mà còn ở phạm vi toàn thế giới. Con bài “ly khai”,
“xung đột sắc tộc” luôn được nhiều nước phương Tây và Mỹ ưu tiên sử dụng
để can thiệp, phá hoại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước.
“Nếu Mỹ và phương Tây có thể công nhận độc lập của Kôsôvô thì Nga
cũng có thể làm điều tương tự với hai mảnh đất ly khai của Gruzia là Nam
Ossetia và Abkhazia” [74]. Đó là lý lẽ mà điện Kremli đưa ra, nghe có vẻ khá
“cùn” nhưng sự thật là ngày 26/8/2008 Nga đã ký sắc lệnh công nhận hai tỉnh
ly khai Nam Ossetia và Abkhazia thuộc Gruzia là những quốc gia độc lập.
Nếu Nga đã thua phương Tây trong ván bài Kôsôvô thì có vẻ trường hợp
Nam Ossetia và Abkhazia là đòn đáp trả. Nhưng đây chỉ là một phần lý do của
việc Nga công nhận độc lập hai vùng này. Điều đó nó còn liên quan đến nhiều
nước nhiều thế lực quốc tế bởi nhân tố địa - chính trị của lãnh thổ Gruzia. Do
vậy, tác động của cộng đồng quốc tế đến tiến hành tháo gỡ xung đột Nga Gruzia, Nga - Mỹ, Nga - phương Tây rất khó khăn và phức tạp. Vì, tuy xung đột
quân sự giữa Gruzia và Nga đã ngưng nhưng tình hình vẫn tiếp diÔn phức tạp,
nhất là trong quan hệ Nga với phương Tây nói chung và Nga - Mü nói riêng.
1.2. Tình hình Gruzia và hai vùng tự trị Nam Ossetia và Abkhazia
trước ngày 7/8/2008
1.2.1. Tình hình Gruzia
Gruzia là một quốc gia Âu - Á tại vùng Cancacus phía bờ Đông biển
Đen. Có truyền thống văn hoá và lịch sử từ thời đồ đá mới. Đây là một quốc
gia nhỏ với dân số hiện nay không đầy 5 triệu người. Tổ tiên người Gruzia
xưa, trước và sau công nguyên là người Cantê, Xphan, Mingêriê, quần cư ở
vùng núi phía Nam dãy Capcadơ. Từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI ở đây thành lập
nên quốc gia phong kiến dân tộc Gruzia. Từ thế kỷ XI đễn thế kỷ XIII thành
lập quốc gia tập quyền thống nhất, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV lần lượt chịu
sự xâm lược của người Tácta và Têmun, về sau người Iran và Thổ Nhĩ Kỳ
thống trị. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, Gruzia xuất hiện nhiều công quốc
và vương quốc nhỏ. Năm 1801-1804, các quốc này lần lượt sáp nhập vào đế
chế Nga. Đầu thế kỷ XIX, Gruzia sáp nhập vào Nga, là thành viên của Nga
dưới thời đế chế Pie đệ nhất và phát triển liên tục đến Cách mạng tháng 10
Nga năm 1917.
Ngày 25/2/1921, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia được
thành lập và sau 1 tháng gia nhập nước Cộng hoà Liên bang Xô viết ngoại
Capcadơ. Ngày 5/12/1936 trở thành một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ.
Năm 1990, giữa lúc cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng của Liên
Xô gần đi đến hồi kết thúc, những nhà lãnh đạo Gruzia ở Matxcơva đã trở về
quê hương phát động cuộc đấu tranh dành độc lập. Ngày 9/4/1991, thông qua
toàn dân bỏ phiếu, tuyên cáo độc lập, trở thành nước “Cộng hoà Gruzia”. Năm
1922, Gruzia tuyên bố độc lập, ông Shevardnadze, cựu Uỷ viên Bộ chính trị
Đảng cộng sản Liên Xô, cựu Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô trở thành người
đứng đầu nước Gruzia mới tách ra từ Liên Xô.
Sau nhiều năm là thành viên của Liên bang Xô viết, nền kinh tế của
Gruzia hầu như lệ thuộc vào Nga nhưng sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
ở Gruzia đã xuất hiện các dấu hiệu của sự suy thoái kinh tế làm cho đời sống
nhân dân ở đây gặp nhiều khó khăn, nợ nước ngoài tăng, tính đến năm 2004,
Gruzia nợ nước ngoài lên tới 1,7 tỷ USD, chủ yếu là nợ Nga. Cũng chính là
thành viên nhiều năm của Liên Xô cũ mà nền chính trị ở Gruzia vẫn duy trì
theo lối cũ là quan liêu, bảo thủ.
Tất cả những điều đó làm cho tình hình chính trị, xã hội ở Gruzia luôn
bất ổn. Vì vậy, với dân số hiện nay vẻn vẹn 5 triệu người, nhưng Gruzia lại là
nơi diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt giữa hai cường quốc Nga và Mỹ. Sự chú ý
đặc biệt này do Gruzia có vị trí chiến lược đặc biệt. Phía Bắc giáp với Nga,
phía Nam giáp với Thổ Nhĩ Kỳ và Acmênia, phía Tây giáp với Azerbaijan. Đó
là một quốc gia liên lục địa, nằm tại điểm nối Đông Âu và Tây Á, án ngữ
tuyến đường xuất khẩu dầu lửa quan trọng từ biển Caxpi tới thị trường thế
giới, là khu vực đệm của Nga với khối NATO.
Đây là những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển đất nước của Gruzia,
nhưng đồng thời những yếu tố thuận lợi trên cũng khiến cho nước Cộng hoà
Gruzia trở thành một nơi khó khăn nhất trên thế giới khi quyết định các chính
sách thân Nga hay thân phương Tây. Vì vị trí đặc biệt quan trọng đó nên đất
nước Gruzia trở thành nơi tranh giành của các nước lớn. Bên cạnh đó, trong
nước, Gruzia luôn bị đe doạ và đối mặt với phong trào ly khai.
Những khó khăn về kinh tế, cùng những phức tạp về chính trị, xã hội, cơ
chế cũ chưa mất hẳn, cơ chế mới chưa định hình rõ ràng làm cho tình hình xã
hội thêm khó khăn. §ây chính là cơ sở cho sự can thiệp của các thế lực bên
ngoài. Cuộc “Cách mạng hoa hồng” không đổ máu năm 2003 đã thiết lập một
chính phủ ủng hộ thân phương Tây và đang có kế hoạch gia nhập NATO cũng
như nỗ lực đưa các vùng đất chủ trương ly khai trở lại dưới quyền kiểm soát
của Gruzia. Những nỗ lực đó làm xói mòn quan hệ với Nga và dẫn đến cuộc
xung đột quân sự với Nga vào ngày 7/8/2008 rất khốc liệt.
1.2.2. Tình hình hai vùng tự trị Nam Ossetia và Abkhazia
1.2.2.1. Tình hình Nam Ossetia
Nam Ossetia là khu vực trực thuộc Gruzia với diện tích 3900km 2, dân số
khoảng 7 vạn người, cách thủ đô Tbilisi của Gruzia 100km về phía Bắc. Sở dĩ
có Nam Ossetia là vì năm 1774, lãnh thổ Ossetia sáp nhập vào đế chế Nga. Đế
chế Nga ra sắc lệnh phân chia khu vực hành chính, do lãnh thổ Ossetia có dãy
Capcadơ ở giữa gây trở ngại lớn trong công tác quản lý hành chính nên đế chế
Nga quyết định chia cắt Ossetia thành hai miền là Nam Ossetia và Bắc
Ossetia, lấy giới tuyến là dãy núi Capcadơ. Nam Ossetia nằm ở sườn Nam,
Bắc Ossetia nằm ở sườn Bắc dãy Capcadơ.
Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ, nhà nước Liên bang Xô viết ra đời.
Nam Ossetia được hưởng quy chế tự trị trong nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Xô viết Gruzia, Bắc Ossetia là khu vực tự trị thuộc Liên bang Nga. Nam
Ossetia luôn nuôi dưỡng sáp nhập và thống nhất với Bắc Ossetia.
Kể từ khi Gruzia tuyên bố tách khỏi Liên bang Xô viết vào ngày
9/4/1991, nhà nước Gruzia đã xoá bỏ quyền tự trị mà Liên Xô trao cho Nam
Ossetia nhằm thống nhất lãnh thổ. Tuy nhiên, năm 1992 Nam Ossetia tuyên
bố độc lập, tách khỏi Gruzia và mong muốn sáp nhập vào cộng hoà Bắc
Ossetia thuộc Liên bang Nga dẫn đến cuộc xung đột với chính quyền trung
ương Gruzia . Trong hai năm xung đột đã có hơn 1000 người thiệt mạng [58],
hàng nghìn người phải sang tị nạn ở Bắc Ossetia - vùng lãnh thổ mà những
người ở Nam Ossetia có chung một nền văn hoá và sắc tộc. Cuối cùng, xung
đột Gruzia - Nam Ossetia tạm lắng xuống khi Hiệp định Dagomyss được ký
kết giữa Nga và Gruzia vào ngày 14/06/1992. Theo Hiệp định, tiến trình hoà
bình tại Nam Ossetia sẽ do một uỷ ban hỗn hợp gồm Nga, Gruzia, Bắc Ossetia
và Abkhazia đảm nhiệm quy chế cho Nam Ossetia. Đồng thời hai bên nhất trí
triển khai lực lượng gìn giữ hoà bình đến Nam Ossetia gồm binh sỹ Nga,
Gruzia và Bắc Ossetia.
Sau cuộc “Cách mạng nhung” năm 2004, nhân vật theo chủ nghĩa dân tộc
thân phương Tây Mikhai Saakashvili lên nắm quyền tại Gruzia, Nam Ossetia
đã trở thành một trong những trọng tâm trong chính sách của Gruzia, tình hình
ở khu vực xung đột trở nên căng thẳng do phía Gruzia được Mỹ hậu thuẫn, ®Ò
xuÊt gi¶i quyÕt vÊn ®Ò b»ng gi¶i ph¸p qu©n sù. Năm 2004, ban lãnh đạo Nam
Ossetia gửi đơn đề nghị Hạ viện (Đu ma quốc gia) Nga chấp nhận Nam
Ossetia sáp nhập vào Nga. Tháng 01/2005, Gruzia công bố kế hoạch trong
vòng 3 năm sẽ trao cho Nam Ossetia quy chế “tự trị rộng rãi” trong thành
phần Gruzia, nhưng không được Nam Ossetia chấp nhận.
Ngày 12/11/2006, Nam Ossetia tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về quy
chế độc lập. Cuộc trưng cầu dân ý đã nhận được số phiếu ủng hộ áp đảo với
98,99% phiếu thuận [63]. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu chỉ được Nga công nhận,
trong khi chính quyền Gruzia, Mỹ, EU coi cuộc trưng cầu này là bất hợp
pháp. “Các kết quả của cuộc trưng cầu dân ý về độc lập tại Nam Ossetia
không có ý nghĩa với cộng đồng Châu Âu” [63]. Đó là lời phát biểu của Peter
Someby, đại diện đặc biệt của Liên minh châu Âu tại Capcadơ khi thăm
Matxcơva ngày 13/09/2006.
Việc Nam Ossetia muốn độc lập khỏi Gruzia, sáp nhập với Bắc Ossetia
thuộc Liên bang Nga là có lý do lịch sử, do hàng nghìn người Nam Ossetia đã
chạy sang lánh nạn ở Bắc Ossetia sau các cuộc xung đột vũ trang năm 1992.
Mặc dù có sự phân chia về địa lý và hành chính nhưng ở cả hai khu vực Nam
và Bắc Ossetia chỉ có một dân tộc với cùng một ngôn ngữ và một nền văn
hoá. Vì vậy, người dân Nam Ossetia quyết tâm thống nhất lãnh thổ với những
người đồng bào Bắc Ossetia trong thành phần nước Nga. Thực tế, Nam
Ossetia có nhiều mối quan hệ với Nga hơn là Gruzia do 80% người dân ở đây
mang hộ chiếu Nga, đồng tiền được sử dụng ở khu vực này là đồng Rúp Nga
[36]. Kinh tế vùng này cũng phụ thuộc và liên kết với kinh tế Nga.
Tất cả những điều đó, không có gì có thể ngăn nổi phong trào ly khai ở
Nam Ossetia độc lập khỏi Gruzia để trở thành một phần lãnh thổ của Nga và
thống nhất với Bắc Ossetia, nhất là sau cuộc “cách mạng nhung” đưa
Saakhavili - nhân vật thân phương Tây lên làm Tổng thống Gruzia.
Tình hình trên làm cho quan hệ Gruzia với Nam Ossetia cũng như Gruzia
với Nga hết sức căng thẳng. Căng thẳng tiếp tục gia tăng khi phương Tây và
Mỹ công nhận độc lập của Kôsôvô vào đầu năm 2008, bất chấp sự phản đối
của Nga và Serbia. Theo đó, Nam Ossetia và Abkhazia, cho rằng: “Nếu
Kôsôvô có thể độc lập, sau đó chúng ta cũng có thể làm như vậy”. Vì thế mà
họ lại đệ đơn kêu gọi Nga và các tổ chức quốc tế công nhận độc lập của họ.
Sau rất nhiều vụ đụng độ trong năm 2008, quân đội Gruzia đã quyết định
tiến hành cuộc tấn công vào Nam Ossetia vào đêm mùng 7 rạng sáng mùng
8/8/2008 gây ra sự phản ứng mạnh mẽ từ phía Nga. Lực lượng quân đội Liên
bang Nga có mặt ở khu vực với nhiệm vụ gìn giữ hoà bình đã được lệnh phản
công, dẫn đến cuộc “chiến tranh nóng” căng thẳng nhất trong những năm vừa
qua ở khu vực Kavkaz. Ngày 26/08/2008, Nam Ossetia chính thức được Liên
bang Nga công nhận độc lập khỏi Gruzia .
1.2.2.2. Tình hình Abkhazia
Abkhazia là một trong hai nước cộng hoà tự trị của Gruzia (từ năm
1992) tại vùng Capcadơ. Vùng lãnh thổ này là nước cộng hoà độc lập trên
thực tế nhưng không được cộng đồng quốc tế công nhận như Nam Ossetia .
Quốc gia độc lập trên thực tế này với diện tích 8432 km 2, dân số hơn 15 vạn
người nằm bên bờ Đông Hắc Hải, phía Bắc giáp với Liên bang Nga.
Cũng như Nam Ossetia, kể từ khi Gruzia tuyên bố tách khỏi Liên bang
Xô viết, một phong trào ly khai của dân tộc thiểu số Abkhazia ở khu vực này
đã dẫn đến việc nước cộng hoà này tuyên bố độc lập khỏi Gruzia vào năm
1992.
Cuộc xung đột vũ trang giữa Gruzia và Abkhazia vào năm 1992-1993
làm gần 7000 người chết, khoảng 200-250 nghìn người, phần lớn là người gốc
Gruzia ph¶i đi tị nạn [36]. Mặc dù hai bên (Gruzia và Abkhazia ) đã ký thoả
thuận ngừng bắn năm 1994 qua Nga, nhưng tình hình khu vực này vẫn không
ổn định, việc tranh chấp chủ quyền vẫn chưa được giải quyết, khu vực này
vẫn bị chia cắt giữa hai bên, 83% lãnh thổ do chính quyền ly khai Sukhumi
đựoc Nga hậu thuẫn và 17% lãnh thổ do chính phủ cộng hoà tự trị Abkhazia
- Xem thêm -