Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề dân chủ và những luận điệu xuyên tạc vấn đề dân chủ của nước ta hiện nay....

Tài liệu Vấn đề dân chủ và những luận điệu xuyên tạc vấn đề dân chủ của nước ta hiện nay.

.DOCX
34
299
58

Mô tả:

MỤC LỤC Chương I: Lý luận chung về vấn đề dân chủ ................................................................2 1. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ..................................................................2 2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa..............................4 Chương II: Thực tiễn vấn đề dân chủ ở Việt Nam hiện nay.........................................6 1. 2. 3. 4. 5. Mô hình dân chủ Việt Nam đang xây dựng...........................................................6 Đặc trưng mô hình dân chủ Việt Nam đang xây dựng...........................................7 Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng dân chủ ở Việt Nam.......13 Một số luận điệu xuyên tạc quá trình xây dựng dân chủ ở Việt Nam..................20 Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng dân chủ ở Việt Nam ngày nay....................................................................................................................... 27 Tài liệu tham khảo 34 1 Chương 1: Lý luận chung về vấn đề dân chủ 1. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Trong ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, khái niệm “dân chủ” được hiểu là: việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” đó là “quyền và sức lực của nhân dân”. Như vậy, ngay từ buổi sơ khai của lịch sử nhân loại, “dân chủ” được hiểu với tư cách là “quyền lực của nhân dân”. Khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời, giai cấp và bất bình đẳng xuất hiện, các hình thức tự quản của xã hội trước đây đã không còn thích hợp, xã hội cần đến những tổ chức chính trị với những công cụ bạo lực, cưỡng bức để điều chỉnh hoạt động của xã hội, giai cấp và công dân. Trong điều kiện như vậy, một tổ chức đặc biệt đã ra đời, đó là “nhà nước”. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, gii cấp chủ nô đã lập ra cơ quan quyền lực nhằm trước hết bảo vệ lợi ích của mình và sau nữa nhằm đãp ứng nhu cầu ổn định trật tự xã hội. Cơ quan đó chính là nhà nước dân chủ đối với chủ nô, thực hiện sự thống trị của thiểu số đối với đại đa số những người lao động, tức những người nô lệ. Nhà nước chủ nô chính thức sử dụng thuật ngữ “dân chủ” với nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có “quyền lực của dân”. Nhưng cũng từ đây, nhà nước do giai cấp chủ nô nắm giữ đã quy định dân bao gồm chủ nô, quý tộc, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn tuyệt đại đa số nô lệ không được coi là dân. Như vậy, về thực chất, ngay từ thế kỉ VIII trước công nguyên, với nhà nước đầu tiên trong lịch sử, giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột (giai cấp chủ nô) đã dùng pháp luật và bộ máy thống trị của mình để chiếm mất quyền lực của đông đảo quần chúng nhân dân lao động là những người nô lệ. Sau hàng ngàn năm lịch sử, các giai cấp chúa đất phong kiến và giai cấp tư sản đã bằng mọi cách tiếp tục chiếm đoạt quyền lực của nhân dân lao động. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại mới: lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân lao động đã dành lại được quyền lực thật sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó đã trở thành nhà nước đầu tiên thực hiện quyền lực của nhân dân. 2 Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu ra những quan niệm cơ bản về dân chủ như sau:  Thứ nhất: dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất công.  Thứ hai: dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những giai cấp người này là đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị.  Thứ ba: dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo Lênin, dân chủ là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để dành quyền bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi có xã hội giai cấp, dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”. Bước chuyển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô lệ đã đánh dấu bước ngoặc quan trọng của dân chủ. Dân chủ là quyền lực của nhân dân được thực hiện bởi những tổ chức tự quản một cách tự nguyện, theo truyền thống đã chuyển sang một hình thức mới gắn với nhà nước. Từ đây dân chủ được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, bằng pháp luật của giai cấp thống trị chủ nô và được thực hiện chủ yếu bằng cưỡng chế. Nền dân chủ hay chế độ dân chủ đầu tiên trong lịch sử của xã hội có giai cấp xuất hiện. Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất của 3 nhà nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật. V.I.Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta”. Do đó, nền dân chủ luôn gắng với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị. 2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lầ quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quát về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và phát triển xã hội. “Với việc phát triền chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi công việc quản lý nhà nước” Như vậy thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan, một động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được bằng phương pháp thực hành dân chủ một cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. “Chủ nghia xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống… chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”. Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chính là quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của chế độ chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị xã hội chủ 4 nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận dộng và thực hành dân chủ; là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách mạng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực hiện chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lôi cuốn nhân dân vào quá trình sáng tạo xã hội mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu xảy ra nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân; là điều kiện cần thiết, tất yếu của mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó, đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu hiện củ dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỹ cương, pháp luật. Tóm lại, Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ngày càng hương tới cơ sở hiện thực của nó, tơi con người hiện thực, nhân dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”. 5 Chương 2: Thực tiễn vấn đề dân chủ ở Việt Nam hiện nay 1. Mô hình dân chủ Việt Nam đang xây dựng Thời đại ngày nay được định nghĩa bằng nhiều khái niệm, từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Trên lĩnh vực khoa học công nghệ, người ta cho rằng, thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão, đặc biệt là công nghệ thông tin - viễn thông (ITC) và số hóa. Những tác động to lớn của khoa học, công nghệ đến đời sống xã hội đã diễn ra đúng như dự báo của Các Mác cách đây hơn nửa thế kỷ. Trên vĩnh vực xã hội, chính trị, người ta cho rằng, thời đại ngày nay được đánh dấu bằng quá trình toàn cầu hóa nhiều mặt từ chính trị, dân chủ đến quyền con người và kinh tế thị trường. Cho dù tiếp cận từ lĩnh vực nào thì người ta cũng không thể phủ nhận được rằng, những đặc trưng của thời đại là một thực tế khách quan, là điều kiện mà mỗi quốc gia, dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều phải thích ứng với quá trình đó. Không phủ nhận rằng, sự phát triển của nền dân chủ trên thế giới ngày nay, đặc biệt là về thể chế là một xu thế không thể đảo ngược được. Nó được xem như một đặc trưng về chính trị của nền văn minh nhân loại. Nội dung chủ yếu của xu thế đó là:  Thứ nhất, vai trò của nhân dân ngày càng được nâng cao.  Thứ hai, Nhà nước pháp quyền và nguyên tắc pháp luật tối thượng được khẳng định mạnh mẽ.  Thứ ba, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.  Thứ tư, “tự do ngôn luận, báo chí”, quyền tiếp cận thông tin của người dân được tôn trọng và bảo đảm. Nền dân chủ của dân tộc ta ra đời trong cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nền dân chủ đó đã được thử thách, trải nghiệm trong các cuộc kháng chiến đánh bại những kẻ thù hung bạo nhất của chủ nghĩa đế quốc, để lại dấu ấn thời đại. Bước vào giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ đó cũng đã được trải nghiệm trong mô hình cũ của chur nghĩa xã hội, mà đặc trưng của nó là: về chính trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản...; về kinh tế, đó là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu với hai thành phần duy nhất: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể... Đại hội VI, năm 1986 Đảng 6 ta đã quyết định chuyển sang xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình mới - mô hình được hoàn thiện từng bước từ Đại hội VII đến nay. Những thành tố của mô hình đó là: về chính trị, xã hội do nhân dân làm chủ với nhà nước pháp quyền do đảng ta lãnh đạo; về kinh tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... 2. Đặc trưng mô hình dân chủ Việt Nam đang xây dựng Phân tích thực tiễn qua trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân chủ trong lịch sử, đặc biệt là những quy luật của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định: đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội củ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qúa trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội. Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phat triển mới về chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử đã hình thành chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân. Trong quá trình hình thành và phát triển, xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu cuối cùng của chế độ kinh tế ở nước ta, chứ không phải chỉ xóa bỏ bóc lột, áp bức, bất công, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Mục tiêu trên cũng chính là nguyện vọng, mơ ước của nhân dân tiến bộ trên thế giới, là cái đích của xã hội loài người nói chung. Ở Việt Nam, trong điều kiện xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì yêu cầu phấn đấu cho một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” tất yếu theo con đường xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu chiến lược vô cùng đẹp đẽ, đồng thời là một khẩu hiệu đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng rãi xây dựng xã hội mới. Điều quan trọng là bằng đường lối, chính sách và pháp luật mà Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, quản lý, điều hành toàn xã hội tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. 7 Hai là, do nhân dân làm chủ. Theo Hồ chủ tịch, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động, chống lại nhân dân. Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng thì nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân lao động làm chủ được bảo đảm trên thực tế, trong mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp theo qui định của pháp luật. Quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một quá trình phấn đấu, hoàn thiện từng bước, từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả phát triển xã hội và phát triển con người. Ba là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Cả mặt thực tế, cả logic – lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Bởi vì chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đa số nhân dân lao động, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị xã hội. Thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xóa việc sinh ra giai cấp đối kháng, cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Song, chế độ công hữu 8 chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện tưng bước trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời là xây dựng chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, quá trình xây dựng chế độ công hữu không thể nóng vội mà cần chú trọng đến các yếu tố hoàn cảnh lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động… Cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian áp dụng “Chính sách cộng sản thời chiến” đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện “Chính sách kinh tế mới” với kinh tế hàng hóa 5 thành phần và tự do lưu thông hàng hóa trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xóa bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng ta khẳng định: Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với những đặc trưng cơ bản là đại chúng, dân tộc, hiện đại và nhân văn, được xây dựng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ được thể hiện về nội dung tư tưởng mà còn cả trong hình thức biểu hiện và trong các phương tiện chuyển tải nội dung văn hóa. 9 Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; là lòng nhân ái, khoan dung; trọng nghĩa tình, đạo đức; là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống, v.v… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo của văn hóa. Nền văn hóa chúng ta đang xây dựng theo định hướng xã hội chủ nghĩa mang những đặc trưng cơ bản là đại chúng, dân tộc, hiện đại, nhân văn, phát triển theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phát triển sự nghiệp văn hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa, hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp phát triển văn hóa cần hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp… Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848, Mác, Ănghen không chỉ luận giải về vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người được các ông để cập khá sâu sắc. Các ông cho rằng, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người cũng giữ vị trí rất quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ chủ tịch. Hồ chủ tịch nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. 10 Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng được con người, cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người đều được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mới hoàn toàn triệt để. Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội. Giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công và đồng thời phải hướng tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Con người được phát triển toàn diện, cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X có đoạn: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở 11 vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.” Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. 12 3. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng dân chủ ở Việt Nam a. Thành tựu Kể từ khi tiến hành đổi mới đến nay, trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động sâu sắc, nhờ kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nên Việt Nam tiếp tục giành nhiều thắng lợi mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định “ Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn ,bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đăn những vấn đề do cuộc sống đặt ra”; phải ra sức “Năng cao trình độ trí tuệ chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới” Một là, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam: Trong quá trình đổi mới, nhờ nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình thực tiễn thế giới và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, khắc phục những quan điểm ấu trĩ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua gần 30 năm đổi mới với 6 nhiệm kỳ đại hội Đảng, mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong nhận thức lý luận của Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… trên con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; cón nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 13 con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới”. Cương lĩnh cũng xác định tám phương hướng cơ bản và tám mối quan hệ lớn cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Có thể coi đó là đường lối chung để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hai là, Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng xác định phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đảng ta đã quyết định từ bỏ mô hình tập trung bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới . Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền kinh tế độ lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới 14 (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê giới, suy thoái kinh tế toàn cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là 49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Ba là, Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội: Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách và từng bước phát triển. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt Nam. Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển 15 và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Phát triển mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng. Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý. Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm công. Trong gần 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng; chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam bình quân 1,5-2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm, đảm bảo mức sống người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú. Đã xây dựng và 16 hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội; bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, nhất là cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số. Bốn là, tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa binh, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp nên Việt Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học- công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn minh của nhân loại… để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng đất nước. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI,ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 nước ( trong đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước), quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt nam ngày càng được nâng lên. 17 Năm là, Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan. Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phực suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng tổ chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực hiện cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Chú trọng kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và chính sách cán bộ). 18 Đổi mới và tăng cường công tác dân vận; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội. Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công; phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật, luật và pháp lệnh theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao vai trò tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương các cấp. Ở Việt Nam việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, là động lực của sự ngiệp đổi mới. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật,. được pháp luật bảo đảm. b. Hạn chế Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn chế. Một số người đồng nhất hoàn toàn dân chủ hiện nay với dân chủ xã hô iô chủ nghĩa theo nghĩa đầy đủ của nó. Một số lại có ảo tưởng muốn đạt ngay một trình độ phát triển cao của dân chủ trong khi nhiều tiền đề khách quan và chủ quan chưa chín muồi. Do không hiểu thực chất dân chủ trong chủ nghĩa tư bản nên một bộ phận nhân dân ngộ nhận dân chủ đó như là giá trị tuyệt đỉnh mà chủ nghĩa xã hô ôi cũng phải khuôn theo. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn tồn tại ở không ít người. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và Nhà nước vẫn còn bị hiểu sai lệch, biến thành tập trung quan liêu hoặc dân chủ vô tổ chức. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu 19 quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa nhanh nhạy và có hiệu quả cao. Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng quan liêu, chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; cán bộ của nhiều đoàn thể chính trị - xã hội vẫn trong tình trạng “hành chính hóa”, “viên chức hóa”. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức. Dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan cùng sự độc đoán chuyên quyền vẫn diễn ra ở một số nơi, một số lĩnh vực. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp còn nhiều biểu hiện thiếu thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của mình. Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức. Tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng thường đi đôi với việc lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên quyền, thậm chí gia trưởng. Ngược lại, có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước không nghiêm. Còn nhiều vi phạm trong việc thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu và tổ chức đảng, chính quyền quy định chưa rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm dẫn đến tình trạng “tranh công đổ lỗi” - thành tích thì cá nhân nhận. 4. Một số luận điệu xuyên tạc quá trình xây dựng dân chủ ở Việt Nam Nhiều năm nay đối với Việt Nam, các thế lực xấu, thù địch liên tục triển khai các hoạt động truyền bá, gieo rắc thông tin sai trái, xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền. Họ khai thác trên biên độ rất rộng từ tự do tôn giáo, tự do ngôn luận đến các chính sách của Nhà nước, thực thi pháp luật... Để thực hiện mưu đồ, họ lập nhiều tổ chức nhân danh dân chủ, nhân quyền, có “tổ chức” chỉ gồm vài ba người, hoặc một người ghi tên ở mấy nơi khác nhau. Một trong những thủ đoạn mà các thế lực xấu, thù địch thường xuyên sử dụng nhằm vu cáo, bịa đặt về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là cắt xén một số văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam và Liên hợp quốc (LHQ), rồi dựa vào đó xuyên tạc, vu cáo 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng