Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp hội liên hiệp phụ nữ việt nam...

Tài liệu Vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp hội liên hiệp phụ nữ việt nam

.PDF
102
14
55

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KIM OANH VAI TRÒ THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KIM OANH VAI TRÒ THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hoàng Anh HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ 6 LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM Cơ sở lý luận Khái niệm về quản lý nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân Chủ trương, quan điểm của Đảng Các quy định của pháp luật Quy định của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Cơ sở thực tiễn Hệ thống tổ chức Đội ngũ cán bộ Nguồn lực tài chính Hội viên Chương 2: THỰC TRẠNG 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.1.3. 1.1.4. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.2.3. 1.2.4. 2.2. 2.2.1. 2.2.1.1. 2.2.1.2. 3 Công tác chỉ đạo, cụ thể hóa vai trò tham gia quản lý nhà nước vào hoạt động Hội Kết quả đạt được trong tham gia quản lý nhà nước và nguyên nhân Những kết quả chính Tham gia xây dựng luật pháp, chính sách Tham gia tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách 2.2.2. 2.2.2.1. 2.2.2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.2.1. 2.3.2.2. 6 6 28 49 49 50 50 52 52 53 56 NÂNG CAO VAI TRÒ, HIỆU QUẢ THAM NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP NAM 3.1. 3.1.2. 3.1.3. 28 28 32 49 PHỤ NỮ VIỆT 3.1.1. 26 44 GIA QUẢN LÝ 12 17 21 21 22 24 25 26 Kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước Nguyên nhân đạt được các kết quả Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân khách quan Hạn chế trong việc tham gia quản lý nhà nước của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và nguyên nhân hạn chế Những hạn chế Nguyên nhân của hạn chế Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân khách quan Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 9 THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM 2.1. 2.2.1.3. 3.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Yêu cầu về phát huy quyền dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Yêu cầu về phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ nói riêng trong quản lý nhà nước Yêu cầu khắc phục những hạn chế trong tham gia quản lý nhà nước của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thời gian qua Yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công 4 56 56 58 59 59 tác Hội và vai trò tham gia quản lý nhà nước nói riêng phù hợp với tình hình phát triển mới của đất nước Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thời gian tới Giải pháp về thể chế, chính sách Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước Giải pháp đối với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam 3.2. 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU 61 61 65 68 72 77 THAM KHẢO PHỤ LỤC 5 80 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có tính đại đoàn kết toàn dân và bản chất nhân dân sâu sắc. Hoạt động quản lý nhà nước, bao gồm cả trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Tuy nhiên, với những yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là nguyên tắc phát huy quyền dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân, nhân dân tham gia tổ chức nhà nước, quản lý nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước là một nguyên tắc quan trọng, thể hiện bản chất nhân dân của nhà nước ta. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với các tổ chức cấu thành của hệ thống chính trị, trong đó có các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng, tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên; tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 320 tổ chức hội quy mô hoạt động toàn quốc, hàng ngàn hội cấp tỉnh, hàng vạn hội cấp huyện, xã... nhưng chỉ có 6 tổ chức chính trị xã hội. Các tổ chức này đều do Đảng lãnh đạo, là cơ sở chính 4 trị - xã hội của Đảng và gắn bó với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Các tổ chức này đều chịu sự lãnh đạo của Đảng , sự quản lý của Nhà nước. Tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội gắn bó chặt chẽ với tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội bằng cương lĩnh đường lối chiến lược, bằng nghị quyết, các định hướng về chủ trương, chính sách… bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và vận động, tổ chức kiểm tra, bằng hành động gương mẫu của mọi đảng viên và công tác cán bộ. Nhà nước cũng phối hợp của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội - cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiếm trên 51% dân số và 48% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực, góp phần cùng toàn dân thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Tuy là không phải là một cơ quan quản lý nhà nước nhưng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có vai trò nhất định trong công tác quản lý nhà nước, thể hiện trên cả mặt lý luận và thực tiễn. Những năm qua, Hội đã có những đóng góp đáng kể, góp phần giúp Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình. Tuy nhiên, việc tham gia quản lý nhà nước của Hội vẫn còn những hạn chế, khó khăn nhất định. Để khắc phục những khó khăn, hạn chế đó, đồng 5 thời đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước, của Hội, cần thiết phải có các giải pháp thúc đẩy vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội, làm cho việc tham gia của Hội có hiệu quả rõ nét hơn. Chính vì lý do đó, học viên đã lựa chọn vấn đề "Vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn của mình với mong muốn có cái nhìn tổng quan về vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội đặt trong các vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật; đồng thời, qua đó, giúp học viên nâng cao kiến thức, phục vụ cho chính công việc của mình tại cơ quan Trung ương Hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác phụ nữ và vai trò của phụ nữ/Hội phụ nữ trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội đã được Đảng, Nhà nước quan tâm từ rất lâu. Đã có một số giáo trình, bài viết của các chuyên gia, học giả giả hoặc các báo cáo đánh giá của Hội phụ nữ, của cơ quan quản lý nhà nước về một số khía cạnh như Luật Hành chính Việt Nam (GS.TS Phạm Hồng Thái, PGS.TS Đinh Văn Mậu), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Cửu Việt), cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phụ nữ ở Việt Nam hiện nay (Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương), vai trò của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước (ThS. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Hải Hà- Học viện Hành chính quốc gia), đánh giá việc thực hiện vai trò của Hội theo quy định của Luật Bình đẳng giới (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam), đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ tham gia quản lý nhà nước (Bộ Nội vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam)… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu và tài liệu nào đánh giá tổng quan về vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ 6 Việt Nam. Nội dung này cũng chưa được Hội hay cơ quan quản lý nhà nước nào tổng kết, đánh giá một cách toàn diện. 3. Mục đích nghiên cứu Qua việc nghiên cứu vấn đề này, học viên mong muốn: Thứ nhất, khái quát lại các vấn đề lý luận về vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; tổng hợp, hệ thống lại các chủ trương của Đảng, các chế định của pháp luật về vấn đề này; xem xét cơ sở thực tiễn đảm bảo cho Hội thực hiện vai trò này. Thứ hai, đánh giá về thực trạng tham gia quản lý nhà nước của Hội, làm rõ những kết quả đạt được và nguyên nhân đạt, những hạn chế và nguyên nhân, cả ở góc độ chủ quan và khách quan. Thứ ba, đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tham gia quản lý nhà nước của Hội trong thời gian tới. Đồng thời mong muốn những thông tin, kết quả của luận văn sẽ được sử dụng phục vụ cho công tác chuyên môn của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Luận văn lấy Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu và tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Xem xét các quan điểm, chủ trương của Đảng và các chế định của pháp luật về vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực của quản lý nhà nước. - Xem xét thực trạng tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam để thấy được những đóng góp của Hội vào các hoạt động quản lý của Hội, đồng thời nghiên cứu các hạn chế, bất cập và nguyên 7 nhân hạn chế làm căn cứ để kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia quản lý nhà nước của Hội trong thời gian tới. - Xem xét các yêu cầu, tính cần thiết phải nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia quản lý nhà nước của Hội; kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tham gia quản lý của các cấp Hội 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu, phân tích thông tin từ các tài liệu tham khảo kết hợp với các kiến thức tích lũy trong quá trình làm việc, đặt trong mối liên hệ với các kiến thức có được qua khóa đào tạo sau đại học, chuyên ngành Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn cũng vận dụng các nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và dựa trên tình hình thực tiễn để giải quyết vấn đề. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Chương 2: Thực trạng tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÕ THAM GIA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CỦA CÁC CẤP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm về quản lý nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân Quản lý là một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, là sự tác động một cách có tổ chức và sự định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Theo GS.TS Phạm Hồng Thái và PGS.TS Đinh Văn Mậu, "quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa đầy đủ, là sự quản lý có tính chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước" [30, tr. 10]. Cũng về khái niệm quản lý nhà nước, theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, "quản lý nhà nước theo nghĩa rộng, là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước" [35, tr. 27]. Với khái niệm này, có thể thấy, chủ thể của quản lý nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đối tượng của quản lý nhà nước là toàn thể nhân dân. Hoạt động quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc 9 phòng… nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của nhân dân. Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội theo định hướng mà nhà nước đề ra. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước là việc thực thi các loại quyền lực nhà nước nhằm tác động và điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, làm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng đề ra. Việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước gồm: thực thi quyền lập pháp, thực thi quyền hành pháp và thực thi quyền tư pháp. Tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, có thể thấy nội dung của quản lý nhà nước gồm: Ban hành các loại văn bản pháp luật (lập pháp) nhằm tạo khuôn khổ pháp luật cho xã hội vận động và phát triển; đưa pháp luật vào đời sống (hành pháp), điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nảy sinh; xử lý các vi phạm pháp luật (tư pháp) nhằm đảm bảo cho hệ thống pháp luật được nghiêm minh. Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước là của chủ thể các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về 10 mọi mặt của nhân dân, nhân dân có thể thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình bằng nhiều hình thức, trong đó có việc làm chủ thông qua tổ chức đại diện của mình. Trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động quản lý này, Nhà nước có mối quan hệ rất mật thiết với các thành tố khác trong hệ thống chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt: Đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước là sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Điều này xuất phát từ sự thống nhất về mục đích là xây dựng xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính tích cực chính trị của công dân, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của công dân [35, tr. 366]. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước như: vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, bầu ra cơ quan dân cử, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ viên chức nhà nước; tham gia xây dựng pháp luật và chính sách; đóng góp ý kiến với cơ quan nhà nước các cấp; tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân… Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước. Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, Nhà nước lắng nghe những kiến nghị của các đoàn thể. Nhà nước phối hợp với các đoàn thể trong việc chăm lo lợi ích chính đánh của 11 nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội. Qua đó có thể thấy, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước không tách rời khỏi mối quan hệ với các đoàn thể, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam một tổ chức đại diện cho hơn 50% dân số đất nước. Hội có vai trò nhất định, tham gia cùng nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, cơ sở lý luận cho việc tham gia quản lý nhà nước của Hội phụ nữ chính là xuất phát từ bản chất nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, cùng với sứ mệnh của các tổ chức đoàn thể là bảo vệ lợi ích các thành viên như trên đã phân tích, thì việc tham gia quản lý nhà nước của các đoàn thể nói chung, Hội Liên hiệp phụ nữ nói riêng, là một yêu cầu tất yếu đối với cả phía Nhà nước và phía Hội phụ nữ. 1.1.2. Chủ trương, quan điểm của Đảng Từ những ngày đầu thành lập đến nay, Đảng đã luôn quan tâm đến phụ nữ và công tác phụ nữ với mong muốn phát huy được vai trò của người phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (1930), Đảng đã xác định thực hiện "Nam nữ bình quyền" là một trong mười nhiệm vu cốt yếu của cách mạng Đông Dương và chủ trương tổ chức, vận động các tầng lớp phụ nữ đứng lên tham gia cách mạng, giải phóng dân tộc. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là một trong lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ. Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn 12 các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng. Thực hiện Nghị quyết Hội Nghị Trung ương Đảng tháng 10/1930 về việc tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ, tổ chức cách mạng của phụ nữ đã ra đời. Đảng cũng luôn quan tâm lãnh đạo phát huy vai trò của tổ chức Hội phụ nữ để Hội thực sự là tổ chức đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, đồng thời tham gia quản lý nhà nước. Quan điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ, công tác phụ nữ cũng như vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ được thể hiện nhất quán và xuyên suốt qua các thời kỳ; được ghi nhận trong các nghị quyết Đại hội Đảng, nhất là trong các chỉ thị, nghị quyết: Nghị quyết số 152-NQ/TW về Một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận" (ngày 10/1/1967), Nghị quyết số 153-NQ/TW về Công tác cán bộ nữ (ngày 10/1/1967), Chỉ thị số 44-CT/TW về Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ (ngày 7/6/1984), Nghị quyết số 04-NQ/TW về Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới (ngày 12/7/1993), Chỉ thị số 37-CT/TW về Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới (ngày 29/9/1993)… Đặc biệt, ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nêu rõ quan điểm: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phải phấn đấu làm tốt vai trò nòng cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao nhận thức cho phụ nữ về bình đẳng giới, khắc phục tư tưởng tự ti, an phạn, níu kéo nhau, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn kết, vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội. Hội cần phát huy vai trò tích cực trong tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và tham gia giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và lao động nữ trong các thành phần kinh tế. Hội phối hợp cùng các ban, ngành, đoàn thể vận 13 động, hướng dẫn phụ nữ phấn đấu rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu. Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, cán bộ, đảng viên nữ cần chủ động, tích cực tham mưu, giới thiệu tạo nguồn cán bộ nữ và giới thiệu quần chúng là phụ nữ ưu tú cho Đảng. Khắc phục tư tưởng an phận, tình trạng níu kéo, không ủng hộ nhau ngay trong nội bộ cán bộ nữ [12]. Để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần đẩy mạnh nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, hướng mạnh hoạt động về cơ sở, khu dân cư; chăm lo thiết thực quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho hội viên, không phô trương, hình thức, không chạy theo thành tích; phát huy vai trò chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội; tham gia đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Hội cần mở rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các đối tượng và phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện; đa dạng hóa các hình thức tập hợp để phát triển hội viên trong các lĩnh vực; có hình thức phù hợp động viên phụ nữ Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết, phát triển, hướng về Tổ quốc. Nghị quyết cũng chỉ ra một vấn đề về cơ chế "Quốc hội, cơ quan nhà nước các cấp có cơ chế để Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp chủ động tham gia vào quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chương trình, dự án phát triển của quốc gia, bộ, ngành, địa phương" [12]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã thông qua Báo cáo chính trị, trong phần giải pháp về đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội có nội dung: Phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ 14 trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc phục tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng. Ban hành Luật về hội; phát triển nhiều hình thức tự quản của dân hoạt động theo pháp luật [11]. Như vậy, vai trò của Hội phụ nữ tham gia vào các hoạt động quản lý của Nhà nước đã được Đảng ghi nhận và giao nhiệm vụ, thể hiện trong nhiều văn bản quan trọng. Các văn bản này đã tạo điều kiện cho phụ nữ và Hội phụ nữ phát huy vai trò và vị trí của mình, thực sự trở thành lực lượng cách mạng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, bảo vệ, xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp. 1.1.3. Các quy định của pháp luật Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Vì vậy Luật pháp Việt Nam dành rất nhiều điều quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội trong việc tham gia vào việc quản lý nhà nước ở nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Về vai trò tham gia quản lý nhà nước nói chung: Điều 9 Hiến pháp năm 1992 quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà 15 nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức thành viên hoạt động hiệu quả [22]. Nghị định số 19/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước là một văn bản pháp lý quan trọng, cụ thể hóa vai trò đại diện quyền làm chủ của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ phối hợp giữa các cấp Chính quyền và Hội Liên hiệp phụ nữ phát huy hiệu quả tham gia quản lý nhà nước của các cấp Hội, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho Hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tăng cường mối quan hệ phối hợp tác giữa Hội và các Bộ, ngành, đoàn thể. Về vai trò tham gia xây dựng luật pháp, chính sách: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, chính vì vậy hoạt động xây dựng luật pháp, chính sách là hoạt động rất quan trọng của nhà nước. Thông qua các hoạt động này, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân được thể chế hóa. Việc tham gia vào hoạt động này là hoạt động có ý nghĩa lớn lao của các đoàn thể nói chung, Hội Liên hiệp phụ nữ nói chung. Hiến pháp năm 1992, Điều 87 quy định: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội [22]. Như vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội, có thể là dự án luật mới hoặc dự án luật sửa đổi, bổ sung luật 16 hiện hành. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với tư cách là đại biểu Quốc hội cũng có thể trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Điều 29, 30 của Luật Bình đẳng giới cũng quy định Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có trách nhiệm tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Hội có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Khi trình dự án luật, pháp lệnh và nghị quyết, nghị định có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Hội, đến quyền lợi của phụ nữ, Chính phủ phải gửi dự thảo văn bản để Hội phụ nữ góp ý kiến (theo Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ). Quyền và nhiệm vụ của Hội trong lĩnh vực xây dựng văn bản luật pháp còn được thể hiện rõ trong Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với những văn bản mà tính chất và nội dung liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Hội, đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt là công dân nữ, đến tổ chức bộ máy nhà nước, cơ quan có trách nhiệm trong việc xây dựng văn bản phải tạo điều kiện để Hội tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản (Điều 3, 30, 40). Đồng thời, theo Điều 11, khi văn bản được thông qua, các cơ quan có trách nhiệm phải kịp thời gửi đến Hội phụ nữ. Cũng theo luật này, Hội có thể ký kết, ban hành nghị quyết hoặc thông tư liên tịch với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các lĩnh vực mà Hội tham gia quản lý nhà nước. Theo Điều 81, Hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái với Hiến pháp; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nếu những văn bản đó trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 17 Về vai trò tham gia tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật: Đây là khâu quan trọng đảm bảo cho nhà nước thực hiện mục tiêu quản lý của mình. Để pháp luật được thực thi có hiệu quả, ngoài bộ máy cơ quan nhà nước, nhà nước đã phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện (đặc biệt là khâu tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật) và kiểm tra, giám sát. Chính phủ có trách nhiệm bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình. Theo Điều 111 và 112 của Hiến pháp 1992 thì Chính phủ phối hợp với Hội trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để Hội hoạt động có hiệu quả; mời Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham dự các phiên họp khi bàn các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của phụ nữ. Điều 29, 30 Luật Bình đẳng giới cũng quy định Hội có trách nhiệm tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới; tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên thực hiện bình đẳng giới, thực hiện phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về bình đẳng giới… Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cũng được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề liên quan, được thông báo tình hình mọi mặt của địa phương... (Điều 125 Hiến pháp). Hội có trách nhiệm tham gia phối hợp với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp động viên nhân dân, phụ nữ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương… Bên cạnh những quy định chung như trên, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam - với đặc thù là đoàn thể đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ - có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật ở lĩnh vực bình đẳng giới và hôn nhân - gia đình. Luật Bình đẳng giới quy định Hội có trách nhiệm tổ chức các hoạt động hỗ trợ phụ nữ góp phần thực hiện mục 18 tiêu bình đẳng giới; Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; phụ nữ đủ tiêu chuẩn tham gia quản lý nhà nước, lãnh đạo các cơ quan trong hệ thống chính trị. Theo Luật Hôn nhân và gia đình, Hội Liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật (Điều 15); hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên (Điều 42); buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó (Điều 55); xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự (Điều 66), ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp quy định tại điểm 2 và điểm 3 Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 77). Luật phòng chống bạo lực gia đình, Điều 34 quy định trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam gồm: Thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 33 (tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, phòng chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; Kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân gia đình, bình đẳng giới, phòng chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác; tham gia phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình; tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình). Tổ chức cơ sở tư vấn về phòng chống bạo lực gia đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín dụng, tiết kiệm để hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Nhiều văn bản Luật, dưới luật khác cũng quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước trong 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan