Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mư...

Tài liệu Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mường tỉnh ninh bình hiện nay

.PDF
124
202
117

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NINH THỊ LIÊN VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NINH THỊ LIÊN VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC MƯỜNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 85 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN CƯ HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................... 7 1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan, văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc .................................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan ............................................................. 7 1.1.2. Văn hóa dân tộc ............................................................................. 16 1.1.3. Bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................. 26 1.2. Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc .................................................................................... 29 1.2.1. Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc phối hợp lãnh, chỉ đạo vấn đề xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc........................................................... 29 1.2.2. Vai trò nhân tố chủ quan thể hiện trong tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc .................................................................................................. 33 Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG Ở NINH BÌNH HIỆN NAY ................................................................... 37 2.1. Vài nét về văn hoá dân tộc Mường ........................................................... 37 2.1.1. Lịch sử tộc người, đặc điểm cư trú, dân số ..................................... 37 2.1.2. Về đặc điểm kinh tế ....................................................................... 40 2.1.3. Về đặc điểm văn hóa, xã hội .......................................................... 41 2.2. Đặc điểm văn hoá dân tộc Mường ở Ninh Bình ........................................ 47 2.2.1. Đặc điểm kinh tế và đời sống vật chất ............................................ 47 2.2.2. Đặc điểm xã hội và lịch sử ............................................................. 49 2.2.3. Nét đặc thù trong văn hóa dân gian của người Mường ở Ninh Bình ...... 54 2.3. Thực trạng vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường ở Ninh Bình và những vấn đề đặt ra ... 77 2.3.1. Thực trạng...................................................................................... 77 2.3.2. Những vấn đề đặt ra ....................................................................... 85 Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY .................... 90 3.1. Quan điểm ................................................................................................ 90 3.1.1. Nâng cao vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay .......................................................................... 90 3.1.2. Tổ chức việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bằng hoạt động cụ thể, thiết thực ........ 93 3.2. Giải pháp .................................................................................................. 96 3.2.1. Phát triển kinh tế, nâng cao dân trí phù hợp với đặc điểm đồng bào dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình ................................................ 96 3.2.2. Gắn tuyên truyền, vận động với những hoạt động thích hợp nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Mường ở Ninh Bình giai đoạn hiện nay .............. 104 3.2.3. Bảo tồn, khôi phục, phát huy các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần phải trở thành hoạt động thường nhật của cả cộng đồng dân tộc Mường trong tỉnh .......................................................................... 107 3.2.4. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là người Mường phải đáp ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ......................................................................................... 108 KẾT LUẬN .................................................................................................... 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 115 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNCS : Chủ nghĩa cộng sản GDP : Tổng sản phẩm quốc nội ĐKKQ : Điều kiện khách quan HĐND : Hội đồng nhân dân NTCQ : Nhân tố chủ quan UBND : Uỷ ban nhân dân UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc VH - TT - DL: Văn hoá - thể thao - du lịch MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, được phân bố ở các vùng, miền của Tổ quốc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau, đã hình thành nên các vùng văn hóa khác nhau, từ đó văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt và mang tính đặc thù. Cùng với dòng chảy của thời gian và những biến động của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cùng vận động, biến đổi theo những quy luật nhất định, vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa có sự đan xen những yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi dân tộc và góp phần tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt. Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, đã tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, vận hội của sự phát triển là nguy cơ phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa. Hơn nữa các thế lực thù địch vẫn tiến hành âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt là trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do vậy khẳng định hệ giá trị văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự vừa lâu dài đối với đất nước ta. Đây là vấn đề không mới, rất nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc đặc biệt là vùng văn hóa các dân tộc thiểu số. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. 1 Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ dân số đông thứ 4 sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, họ cư trú trên vùng địa bàn đồi núi thấp thuộc các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tây (cũ)... Đặc biệt với kiểu địa hình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam như tỉnh Ninh Bình, phù hợp với phong tục tập quán canh tác, phát triển nghề thủ công của người Mường. Sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của người Mường ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú như lễ hội, trang phục, thơ, ca, tín ngưỡng... đậm tính triết lý nhân sinh. Trước sự tác động và biến đổi của thế giới, đã có không ít những giá trị văn hóa truyền thống của người Mường chỉ còn tồn tại trong ký ức của những người già. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mai một, đứt gãy, những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số, có nguyên nhân sâu xa nằm trong chính bản thân những con người, những tầng lớp kế thừa văn hóa của dân tộc ấy. Cho nên, việc giáo dục ý thức, thái độ tự vươn lên giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa của mỗi tộc người là hết sức cần thiết. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay" cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là vấn đề mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu với tầm cỡ, quy mô và khác cạnh khác nhau. - Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học như: Vũ Thị Kim Dung, Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí Triết học, số 1/1998; Vũ Đức Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Nguyễn Huy Hoàng, Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử của Các Mác, Nxb Văn hóa 2 Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết học văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002. - Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển như: Chương trình nghiên cứu cấp nhà nước KX.06, "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội"; Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993; Nguyễn Hồng Sơn, "Quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển xã hội trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ, 1995; Phạm Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Phạm Xuân Nam, "Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - Các công trình bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trường như: Đặng Hữu Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999; Hồ Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. - Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam như: Trần Ngọc Thêm, "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Đỗ Huy - Trường Lưu, "Bản sắc dân tộc của văn hóa", Viện Văn hóa, 1990; Huy Cận, "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Ngô Văn Lệ, "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Nguyễn Từ Chi, "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003; Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Phan Hữu Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu thì trong các văn kiện của Đảng cũng nêu rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn 3 đề: "Vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay". 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường, những yêu cầu cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người nói chung và dân tộc Mường nói riêng, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là: Chỉ ra vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hai là: Trình bày những điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hóa Mường; chỉ rõ nét đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình. Ba là: Tìm hiểu thực trạng và những vấn đề đặt ra của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Bốn là: Nêu một số quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, bao hàm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần; luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hoá của dân tộc mà chủ yếu tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố, có nội dung liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp nhuần nhuyền các phương pháp: Lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; điều tra - so sánh... nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần điều tra, nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình, từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay. - Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho công tác văn hóa tư tưởng của tỉnh Ninh Bình và làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên ngành: Triết học,, CNXHKH, Văn hóa... ở các trường chính trị tỉnh hoặc các trường đại học, cao đẳng. 5 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết: Chương 1: Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Ninh Bình hiện nay. Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Ninh Bình hiện nay. 6 Chương 1 NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan, văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc 1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan Cùng với quá trình hoạt động thực tiễn của con người, khái niệm nhân tố chủ quan (NTCQ) và điều kiện khách quan (ĐKKQ) từng bước được hình thành và phát triển. Để hiểu được nội dung của khái niệm này thì nhất thiết phải tìm hiểu đến những khái niệm có liên quan như khái niệm "chủ thể", "khách thể", chỉ khi nào hiểu được các khái niệm này thì mới hiểu được khái niệm NTCQ và ĐKKQ. "Chủ thể", "khách thể" là những khái niệm rất quan trọng, trong mối quan hệ với khái niệm "NTCQ" và "ĐKKQ", nếu không hiểu được các khái niệm này thì cũng không thể hiểu được khái niệm "NTCQ" và "ĐKKQ" hoặc hiểu không đúng, dễ bị nhầm lẫn đồng nhất giữa các khái niệm. * Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”: Trong quá trình hoạt động của mình, con người đã tác động vào thế giới khách quan, cải tạo thế giới khách quan nhằm phục vụ lợi ích con người. Vì vậy, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời vừa là chủ thể của hoạt động cải tạo hoàn cảnh, từ đó đã hình thành nên khái niệm chủ thể. Khái niệm chủ thể đã được rất nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu và đã đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau. Có quan niệm cho rằng "Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm.) tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn" [49, tr.92]. Quan điểm khác thì lại hiểu "Chủ thể là con người có ý thức và ý chí, và đối lập với khách thể bên ngoài" [50, tr.192]. Từ những khái niệm trên cho thấy: Tùy từng đối tượng được xem xét mà xác định chủ thể tương ứng, chủ thể có thể là cả loài người, một nhóm người, 7 một giai cấp, một đảng phái hay một tổ chức chính trị - xã hội nào đó, bằng những hoạt động của mình nhằm cải tạo đối tượng khách thể, làm cho đối tượng ấy (khách thể) biến đổi cho phù hợp với lợi ích của mình. Như vậy, có thể hiểu: chủ thể là con người có ý chí, có ý thức, mang tính sáng tạo với những cấp độ tồn tại khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) bằng hoạt động thực tiễn của mình đã và đang tác động đến khách thể. Con người ở đây với tư cách là chủ thể có ý thức và ý chí, bằng hoạt động mang tính sáng tạo của mình tác động vào đối tượng (khách thể) nhằm cải tạo đối tượng (tự nhiên và xã hội) cho phù hợp với mục đích của chủ thể và phục vụ chủ thể. Năng lực sáng tạo của chủ thể được thể hiện bằng phương pháp, cách thức tác động vào đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra. V.I.Lênin nói: "Khái niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mình thực hiện mình, tự cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới quan và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình" [20, tr.228]. Với cách hiểu khái niệm “chủ thể” như vậy thì có thể quan niệm: Khách thể là tất cả những đối tượng mà chủ thể bằng ý thức và hoạt động thực tiễn của mình tác động vào chúng nhằm nhận thức và cải tạo chúng cho phù hợp với mục đích con người. Khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan mà chỉ là một bộ phận của hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan vô cùng phong phú nên khách thể (với tư cách là bộ phận của thế giới khách quan) cũng vô cùng phong phú, khách thể có thể là những sự vật, hiện tượng hay quá trình trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội, những quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị - xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể của những chủ thể tương ứng. Khách thể và chủ thể có mối quan hệ khăng khít với nhau, tồn tại song song với nhau, khách thể là khách thể của chủ thể xác định và ngược lại, chủ thể là chủ thể của khách thể tương ứng, không có khách thể và chủ thể chung chung trừu tượng tồn tại một cách độc lập tách rời bất biến. 8 Như vậy, có thể nói khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, mặt này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành chủ thể khi hoạt động tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan ấy thành khách thể của quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Chủ thể nhận thức và cải tạo một cách chủ động sáng tạo khách thể theo mục đích của mình; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ thể. Bởi lẽ, khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy luật vốn có của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận động của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực. * Khái niệm "Nhân tố chủ quan" và "Điều kiện khách quan" Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên cứu các khái niệm “chủ thể” và “khách thể”; mà còn quan tâm tới khái niệm "nhân tố chủ quan "và" điều kiện khách quan. Bởi vì các khái niệm điều kiện và nhân tố chủ quan được dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có ý thức của con người và hoàn cảnh mà trong đó con người hoạt động. - Khái niệm "Nhân tố chủ quan" Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm chủ thể. Hiện nay trên sách, báo tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều những quan niệm khác nhau về khái niệm nhân tố chủ quan. Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có tác giả đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người nói chung. "Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức của những con người, những giai cấp, những chính đảng sáng tạo ra lịch sử" 31, tr.18. Cũng có tác giả lại giới hạn và đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người. Như vậy, nhóm quan niệm nêu trên thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của ý thức, tư tưởng, vai trò của ý thức trong việc phản ánh điều kiện khách quan. Những quan niệm trên đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn 9 nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa thật đầy đủ và như vậy dễ dẫn đến tình trạng "chủ quan hoá" hoạt động của con người. Bởi vì, hoạt động của con người không chỉ thuần tuý thuộc về nhân tố chủ quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện khách quan. Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần đề cập tới đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ thể hoạt động. Bởi lẽ, các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của mọi quá trình diễn ra trong lịch sử - xã hội loài người. Do đó, khi đặt con người với tư cách là chủ thể (Tuỳ ở cấp độ xem xét là nhóm, giai cấp...) trong trạng thái đang tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo nó theo một mục đích nhất định, với đầy đủ các mặt yếu tố, động lực, phẩm chất và năng lực... tạo thành. Tính tích cực của chủ thể - Các nhân tố tạo thành nguyên nhân và điều kiện của mọi hoạt động tích cực của chủ thể, chúng ta có khách niệm nhân tố chủ quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan 35, tr.18-19. Từ những nội dung phân tích trên đây, theo chúng tôi, giữa nhân tố chủ quan và chủ thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự thống nhất giữa khái niệm "chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở chỗ : nhân tố chủ quan về tất yếu luôn thuộc về chủ thể. Còn giữa các khái niệm này có sự khác nhau và tính độc lập tương đối. Vì nhân tố chủ quan, là khái niệm để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể, được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực của chủ thể nhằm để biến đổi khách thể cụ thể. Do đó: Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào một hoạt động cụ thể của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó. Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng tôi xét về cấu trúc nhân tố chủ quan, bao gồm. Thứ nhất: ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái niệm nhân tố chủ quan. Song điều đáng lưu ý đó là, không phải là ý thức nói chung 10 của chủ thể là nhân tố chủ quan, mà là những bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là phương châm của hoạt động, nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể 40, tr.19. Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức của con người (con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng...) để sáng tạo ra lịch sử; là nói tới tính tổ chức, ý chí và nghị lực của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Do đó, nhân tố chủ quan không chỉ thuần tuý là ý thưc của chủ thể mà còn bao gồm cả bản thân quá trình hoạt động đó. Vì ý thức của chủ thể cùng lắm mới chỉ dừng lại ở "giải thích thế giới". Điều đó, như trước đây Mác cũng đã từng khẳng định: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" 21, tr.12. Từ những nội dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố chủ quan còn bao gồm cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể đối với một khách thể xác định. - Khái niệm "Điều kiện khách quan" Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã đưa ra những quan niệm khác nhau về khái niệm đó, chẳng hạn: + Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động 3, tr.19. + Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt động của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó 35, tr.12. Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho dù ở các vị trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một điều kiện khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi hoạt động của chủ thể, các yếu tố hợp thành điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều mặt. Như, các yếu tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn 11 trong tự nhiên; các yếu tố vật chất tồn tại dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính vật chất, cùng với các yếu tố tinh thần như tư tưởng, tâm lý, tập quán... đang tồn tại hiện thực trong xã hội hợp thành một hoàn cảnh để chủ thể tồn tại và hoạt động - Đó là điều kiện khách quan. Do vậy, theo chúng tôi điều kiện khách quan đó là: Tổng thể những mặt, những nhân tố, những mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài và độc lập với chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh, một điều kiện hiện thực, thường xuyên tác động và quy định hoạt động của chủ thể trong những hoạt động xác định. Như vậy, ĐKKQ là hoàn cảnh mà trong đó chủ thể tồn tại và hoạt động, nó quy định hoạt động của chủ thể. Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng có thể được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó đóng vai những tiền đề của hoạt động [53, tr.71-72]. Với quan niệm và những nội dung phân tích như trên, khi nói đến ĐKKQ thỡ trước hết phải nói đến những điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực và độc lập với chủ thể xác định và quy định hoạt động của chủ thể đó. Nếu các điều kiện vật chất luôn là ĐKKQ (xét trong mối quan hệ với ý thức), song ĐKKQ được xác định cụ thể lại không đơn thuần là điều kiện vật chất mà cũn bao gồm cả những yếu tố thuộc ý thức, tư tưởng, những ý thức, tư tưởng này tồn tại khách quan với chủ thể xác định và ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể, đó cũng là ĐKKQ. Như vậy, có thể nói ĐKKQ là những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào chủ thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động của chủ thể. * Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan: Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trò của NTCQ. Hoạt động của chủ thể là nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Mục đích, mục tiêu mà chủ thể đặt ra đều xuất phát từ điều kiện và khả năng của hiện thực, nếu chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan mà không xuất phát từ hiện thực 12 khách quan thì hoạt động của con người sẽ không thể thành công được. Điều đó được Lênin khẳng định: "Thật ra, mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề" [20, tr.201]. ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối, quy định phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt động của chủ thể phải phù hợp với thực tiễn khách quan. Thứ hai, NTCQ có vai trò tác động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ. NTCQ là những gì thuộc về chủ thể, cho nên NTCQ tuy bị ĐKKQ quy định nhưng nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính độc lập tương đối so với ĐKKQ. Vai trò tích cực sáng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ: Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của mình để tìm hiểu, nhận thức quy luật vận động của cái khách quan, khi cả hai tương thích sẽ tạo nên sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn những khả năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mình vừa không đi ngược lại tiến trình phát triển của lịch sử. Các quy luật khách quan vận động đan xen nhau, nhưng chủ thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở những nhận thức đúng, phù hợp của mình để điều chỉnh hình thức, trật tự tác động của quy luật khách quan, có thể tạo ra những yếu tố làm xuất hiện những quy luật khách quan mới. Trong quá trình tác động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng thời tự nâng cao khả năng nhận thức của mình trong quá trình biến đổi thế giới khách quan. Tuy nhiên, NTCQ có vai trò to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế nào thì trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế giới khách quan, có nguồn gốc từ thế giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao động, và phát triển của chủ thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới khách quan - Mọi sự cố gắng của chủ thể trong quá trình phản ánh, nhận thức và cải tạo thế giới cũng là 13 để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của chính mình (cả vật chất lẫn tinh thần). Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thì ĐKKQ là tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ chức hoạt động thực tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh khách quan mà luôn lấy ĐKKQ là điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo ra những tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mình. Tính biện chứng trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ còn thể hiện ở chỗ: để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thì bắt buộc NTCQ phải vận động, phát triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mình cho phù hợp với những quy luật vốn có của thế giới khách quan. Bất cứ một sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí nào cũng sẽ dẫn tới những hành động vi phạm quy luật khách quan, kìm hãm sự phát triển của tự nhiên, xã hội, con người và của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động ấy. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm nên lịch sử đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự nhiên để đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu tồn tại của mình. Từ hoạt động lao động cải tạo thế giới tự nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội loài người được thiết lập, các quan hệ xã hội của loài người được hình thành (tự nhiên và khách quan). Cùng với tự nhiên, giống như tự nhiên, xã hội loài người cũng không ngừng vận động và phát triển theo những quy luật nhất định. Trong quá trình đó, cái khách quan và cái chủ quan, những ĐKKQ và NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng; trong đó ĐKKQ bao giờ cũng có vai trò quy định đối với NTCQ. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong quá trình hoạt động lao động của con người, chỉ khi nào những quan hệ vật chất cần thiết đã phát triển chín muồi, hoặc ít ra cũng 14 đang trong quá trình hình thành, thì khi đó NTCQ mới có cơ sở khách quan để biến những khả năng thành hiện thực, công cuộc cải biến xã hội mới thành công. Khi phân tích tình thế cách mạng ở Nga năm 1917, so sánh tình hình cách mạng ở Nga khi đó với những tình thế cách mạng trước đó cả ở Nga, ở Đức, và tất cả các thời kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đã khẳng định: Cũng là những ĐKKQ giống như thế, cũng là sự khủng hoảng chính trị của tầng lớp trên cùng, quần chúng nhân dân bị áp bức nặng nề, cũng là ý thức muốn vùng lên làm một cuộc cải biến xã hội… Nhưng các cuộc cách mạng trước đó không thể nổ ra là vì thiếu đi sự chín muồi của NTCQ, của giai cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả năng phát động, tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của các giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh cách mạng ấy [19, tr.268]. Như vậy, theo V.I.Lênin, nếu không xuất hiện các tình thế cách mạng (ĐKKQ), hoặc nếu không có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng thì tình thế cách mạng (ĐKKQ) chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là hiện thực. Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phát (tự nó) hình thành, mà có lúc các ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các hoạt động tích cực của con người. Sự năng động chủ quan của con người phải được đo bằng hiệu quả vật chất chứ không chỉ là trong lý luận hay tư duy. Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trò NTCQ không thể tách rời những ĐKKQ đang có, không thể hoạt động một cách tùy tiện trước quy luật của tự nhiên, của xã hội. Đó phải là sự biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ năng lực, phẩm chất, đạo đức… đến khả năng thiết kế, tổ chức hoạt động thực tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy được kinh tế - xã hội phát triển, mới cải tạo thế giới khách quan thành công, mới ngày một nâng cao hơn chất lượng cuộc sống cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần, con người (chủ thể hành động) ngày càng hoàn thiện bản thân mình, trang bị cho mình đầy đủ các điều kiện để vươn tới cuộc sống đậm chất người hơn. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan