LUẬN VĂN:
Vai trò Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ chế độ mới ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Mặt trận
Lào xây dựng Tổ quốc (trước đây là Mặt trận Lào yêu nước) luôn luôn có vị trí, vai trò cực
kỳ quan trọng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới về mọi mặt của đất nước, vai trò của
Mặt trận càng phải được thể hiện rõ hơn, nhất là trong việc thực hiện và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một tổ chức đoàn kết thống nhất các tầng lớp
nhân dân trong xã hội Lào; nó vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai
trò quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của
nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Lào và thực hiện quyền lực của nhân dân
các bộ tộc Lào trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Báo cáo Chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào, Đại hội VII đánh giá:
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã đóng
góp quan trọng vào việc vận động quần chúng tham gia sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Chúng ta rất tự hào thấy rằng truyền thống đại đoàn kết của
khối cộng đồng các bộ tộc trong nước không ngừng được phát huy và quyền
lợi chính đáng của nhân dân các bộ tộc được tăng cường, đời sống của nhân
dân các bộ tộc được cải thiện tốt hơn [43, tr. 16-17].
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị
ở CHDCND Lào (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân). Vì vậy,
sự vững mạnh hay yếu kém của hệ thống chính trị phụ thuộc vào cả hệ thống và vào từng
chủ thể của hệ thống.
Trong quá trình lý giải, cắt nghĩa những nguyên nhân thành công hay chưa thành
công của hệ thống chính trị ở CHDCND Lào, các nhà nghiên cứu thường chú trọng vai
trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước nhưng chưa chú ý thỏa đáng đến
vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân - cơ sở chính trị của chính quyền nhà nước.
Đảng có trong sạch vững mạnh, Nhà nước hoạt động có hiệu quả hay không, một phần
lớn phụ thuộc vào cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước có lành mạnh hay không. Vì vậy,
nên đặt ra một cách tiếp cận mới là cùng với nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng
lực hoạt động của Nhà nước trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị ở CHDCND
Lào cần chú ý hơn nữa đến vai trò của các tổ chức quần chúng, đặc biệt là vai trò của Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc. Đây là vấn đề mà hiện nay chúng ta còn chưa chú ý đúng mức
và là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình xây dựng Đảng, cải cách
hoạt động của bộ máy nhà nước gặp khó khăn, ít tiến triển.
Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài "Vai trò Mặt trận Lào xây dựng Tổ
quốc trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay"
làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Việt Nam, vai trò các đoàn thể xã hội trong việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động luôn là vấn đề đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 05-05 do PGS.PTS Hoàng Chí Bảo chủ
nhiệm: "Cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay", Hà Nội, 1992.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 05-10 nghiên cứu về Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân trong quá trình đổi mới của đất nước do TS. Nguyễn Viết Vượng chủ nhiệm
đã xuất bản thành sách: "Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994.
- "Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở hiện nay", do TSKH
Phan Xuân Sơn chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Liên quan đến đề tài còn có các luận văn:
- "Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh với việc thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân lao động", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền Oanh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2002.
- "Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện
quy chế dân chủ ở xã tại Nghệ An", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Lan, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
ở CHDCND Lào, vấn đề vai trò của các đoàn thể xã hội trong việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động nói chung được các nhà lãnh đạo đề cập đến một
số khía cạnh mang tính chất chung gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, thể hiện trong các Văn kiện, Nghị quyết của Trung ương Đảng
NDCM Lào, một số bài đăng trên báo Nhân dân, tạp chí Lào Sangxat và một số tạp chí
của cơ quan Đảng. Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp
về vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân các bộ tộc Lào. Nhưng những công trình đã kể trên đã cung cấp cho tác
giả tư liệu và những gợi ý về phương pháp luận để thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu thực trạng hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc vị trí, vai trò
của nó trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào; từ đó chỉ ra
những nguyên nhân yếu kém, đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của tổ chức này trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ
tộc Lào hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào.
- Phản ánh tình hình tổ chức và hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc phát huy và thực hiện quyền làm chủ về chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào
trong thời kỳ đổi mới; xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết;
đưa ra được hệ thống những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc thực
hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào trong thời kỳ xây dựng và củng cố
chế độ dân chủ nhân dân hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về quyền
lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các
phương pháp nghiên cứu của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã
được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp logic và lịch sử.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong
việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào là tất yếu do những điều
kiện khách quan và chủ quan.
- Đóng góp những ý kiến về giải pháp để khắc phục một số yếu kém còn tồn tại
trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện
nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân
dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân hiện
nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác của ủy ban
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc; có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy ở các trường đào tạo cán bộ của nước CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương và 6 tiết.
Chương 1
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân các bộ tộc Lào
1.1. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong hệ thống chính trị ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
1.1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong hệ thống
chính trị ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Trong lịch sử lâu dài hàng ngàn năm của đất nước Lào, nhân dân các bộ tộc Lào
đã làm nên những thành tích lớn lao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân
yêu mình. Mặt trận Tổ quốc của chúng ta rất tự hào được kế tục và phát huy truyền thống
anh dũng và rực rỡ của ông cha ta. Những thành tích đã đạt được của Mặt trận trong quá
trình lịch sử phát triển của các bộ tộc Lào là to lớn, rất quan trọng và được ghi nhớ công
ơn trong lịch sử của đất nước Lào.
Kể từ cuối thế kỷ thứ XIX, bọn đế quốc thực dân Pháp xâm lược và chiếm lấy
đất nước Lào làm thuộc địa, từ đó ngọn lửa đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào đã nổi
lên ở khắp mọi miền đất nước, đó là quá trình đấu tranh chống ách thống trị ngoại xâm,
dứt khoát không chịu làm nô lệ của nhân dân Lào. Mặc dù cuộc đấu tranh đó không giành
được thắng lợi vì nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân gốc là thiếu sự lãnh đạo của
Đảng (Đảng mác xít). Nhưng cuộc đấu tranh đó là bài học kinh nghiệm quý báu của
truyền thống anh hùng và rực rỡ của nhân dân các bộ tộc Lào.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, cuộc sống của nhân dân Lào trở nên cùng
cực, điêu đứng, chính sách độc quyền bóc lột vơ vét kinh tế và chính sách chuyên chế về
chính trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như hai gọng kìm kẹp chặt nhân dân Lào trong
vòng nô lệ, phụ thuộc. Nhân dân các bộ tộc Lào mất hết quyền tự chủ độc lập, không còn
chút quyền tự do, dân chủ nào. Sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp làm phát
sinh và thúc đẩy những mâu thuẫn trong lòng xã hội Lào trở nên ngày càng sâu sắc: mâu
thuẫn giữa dân tộc Lào với thực dân Pháp xâm lược, mâu thuẫn giữa nhân dân Lào (mà trước
hết là nông dân) với bọn đặc quyền, địa chủ phong kiến phản bội làm tay sai của chúng.
Nhưng nhiệm vụ cấp bách đầu tiên là phải đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Mục tiêu dân tộc độc lập và mục tiêu dân chủ gắn liền với nhau. Nhưng vấn đề đặt ra là
lực lượng xã hội nào có thể tổ chức lãnh đạo, dẫn dắt cuộc đấu tranh để dành thắng lợi cuối
cùng.
Thực tế lịch sử đã chứng tỏ rằng, chỉ có giai cấp công nhân và nhân dân lao động
với đội tiên phong của nó là Đảng cách mạng lấy lý luận Mác - Lênin làm kim chỉ nam - là
người lãnh đạo lực lượng xã hội duy nhất làm tròn sứ mệnh lịch sử cao cả đó.
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương là cột mốc, là bước ngoặt của cách
mạng Đông Dương. Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít chân chính và dưới ngọn cờ
"cách mạng dân tộc dân chủ", cuộc đấu tranh của nhân dân Lào đã bước sang một giai đoạn
mới về chất. Do nhu cầu thực tiễn của cách mạng Lào, năm 1934, "Xứ ủy Ai Lào" của Đảng
Cộng sản Đông Dương được thành lập trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Lào.
Năm 1941, dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào" đã thành lập "Mặt trận Ai Lào
đồng minh", một tổ chức cách mạng tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân
yêu nước để đấu tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào" (tiền thân của Đảng NDCM Lào) và "Mặt trận
Ai Lao đồng minh", cách mạng Lào kết hợp với cách mạng Việt Nam đã đánh bại thực
dân Pháp. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời (2/9/1945) tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào phát triển tiến liên giành
thắng lợi sau này.
Đến ngày 12/10/1945, bản tuyên ngôn độc lập của Chính phủ lâm thời đã được
tuyên bố trước thế giới về nền độc lập, thống nhất đất nước và quyền tự do, dân chủ của
nhân dân Lào. Nhân dân các bộ tộc Lào từ người mất nước trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình, đó là một sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu thời kỳ
nước Lào giành được chủ quyền sau mấy chục năm thực dân Pháp thống trị.
Nhưng với dã tâm xâm lược, thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương lần
nữa.
Trước tình hình đó, với sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào", ngày 20/01/1949 quân
đội "Pa-thết Lào" (quân đội giải phóng nhân dân Lào) đã được thành lập và đến ngày
13/08/1950 Đại hội đại biểu của nhân dân các bộ tộc Lào đã thành lập Mặt trận thống
nhất mang tên "Nèo-Lào-ít-xa-La". Đại hội đã đề ra cương lĩnh chính trị 12 điểm, bầu ra
ban Trung ương Mặt trận "Neo-Lào ít-xa-la" gồm 14 người và Đại hội cử ra Chính phủ Lào
kháng chiến gồm 5 người, ông Hoàng thân Suphanuvông làm chủ tịch Mặt trận, vừa làm
thủ tướng Chính phủ Lào kháng chiến [28, tr. 49]. Lúc đó Mặt trận làm nhiệm vụ như là
Quốc hội, còn Chính phủ Lào kháng chiến như là cơ quan hành pháp. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Mặt trận "Neo-Lào ít-xa-la" đã ra sức tập hợp sự đoàn kết toàn dân thành một
lực lượng hùng mạnh, liên kết đặc biệt với quân đội và nhân dân Việt Nam anh em, liên
kết ba nước Đông Dương, làm tròn sự nghiệp sứ mệnh lịch sử anh dũng như: giải phóng
đất nước mình ra khỏi ách thống trị của thực dân cũ, giành được độc lập tự do cho dân
tộc mình năm 1945.
Sau hiệp nghị Giơ-ne-vơ (1954) về Đông Dương, bọn đế quốc Mỹ, vi phạm hiệp
nghị Giơ-ne-vơ, nhảy vào thay thế thực dân Pháp. Chúng có dã tâm lấy Lào tiếp tục làm
thuộc địa. Đứng trước tình hình đó, yêu cầu cấp thiết là phải tập hợp sự đoàn kết của mọi
lực lượng xã hội rộng rãi hơn trước để đánh thắng đế quốc thực dân mới. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Mặt trận "Nèo-Lào-ít-xa-La" ngày 06 tháng 01 năm 1956 đã đổi
tên thành Mặt trận "Nèo-Lào-Hắc-xạt" (Mặt trận Lào yêu nước). Hoàng thân
Suphanuvông được bầu làm chủ tịch Mặt trận.
Mặt trận Lào yêu nước với chức năng là Nhà nước công nông là chính quyền của
nhân dân, có vai trò to lớn trong việc tổ chức, động viên, giáo dục nhân dân đoàn kết
chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng vững mạnh. Mặt trận còn làm chức năng quản lý
Nhà nước như là một chính quyền ở cấp Trung ương và địa phương. Với chức năng đó,
Mặt trận dưới hình thức chính quyền Nhà nước của cách mạng Lào (tính đặc thù) đã đề ra
những chính sách có tính chất pháp lý để quản lý các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội, an ninh, quốc phòng... bảo đảm cho vùng giải phóng trở thành căn cứ địa cách mạng
vững mạnh. Mặc dù chính quyền cách mạng ngày đó còn rất non trẻ, các chính sách đề ra
đều đơn giản nhưng vì đáp ứng những lợi ích thiết thực cơ bản của nhân dân (hầu hết cán
bộ và nhân dân đều gương mẫu thực hiện), cho nên đã tạo một lòng tin tuyệt đối của dân
đối với cách mạng, với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước năm 1975. Do
đó, Mặt trận Lào yêu nước coi như là một trong những phương thức và môi trường đầu
tiên để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị. Và Mặt trận Lào yêu nước đã làm tròn
nhiệm vụ to lớn của mình là đánh đuổi đế quốc thực dân mới, lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ
chế độ phong kiến, xây dựng chế độ mới chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Để tập hợp sự đoàn kết toàn dân thành một lực lượng trong việc tổ chức thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong công
cuộc đổi mới toàn diện của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc của Mặt trận Lào yêu nước
năm 1979 đã đổi tên thành Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, là một tổ chức kế tục sứ
mệnh lịch sử và truyền thống anh dũng của Mặt trận "Nèo Lào Hắc-xạt" (Mặt trận Lào
yêu nước).
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là thành tố quan trọng trong cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào. Hệ thống chính trị ở CHDCND Lào là hệ
thống chính trị theo mô hình xã hội chủ nghĩa gồm có Đảng, Nhà nước, Mặt trận các đoàn
thể nhân dân và mối quan hệ qua lại giữa chúng nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua Nhà nước và Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân thực
hiện quyền, nghĩa vụ và còn có trách nhiệm tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã
hội. Thực chất hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là cơ chế đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân. Quyền lực của nhân dân muốn được thực hiện thì phải có sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, trong đó có mặt trận là một bộ phận quan trọng. Mặt trận là sức mạnh
tập thể của bản thân nhân dân có tổ chức, là một trong những thành tố cấu thành hệ thống
chính trị vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
Trong cơ chế đó chức năng của Mặt trận là động viên nhân dân thực hiện những chủ
trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra.
Khi xem xét vị trí của Mặt trận trong hệ thống chính trị phải đặt nó trong mối
quan hệ phối hợp hoạt động với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Sự lớn mạnh
hay yếu kém của tổ chức này đều ảnh hưởng đến tổ chức khác và ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của hệ thống chính trị - xã hội của đất nước. Nếu xem nhẹ vai trò của Mặt
trận thì quyền làm chủ của người dân ở cơ sở khó được đảm bảo. Bởi vì, nhân dân không
thể làm chủ một cách trừu tượng hoặc tự phát mà làm chủ những nội dung cụ thể, có các
thể chế đảm bảo, thông qua các tổ chức, các cộng đồng xã hội hoặc hệ thống Nhà nước.
Tóm lại, Mặt trận là một trong những tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân, hoạt động của Mặt trận là một phương thức thực thi quyền dân chủ của nhân
dân, thông qua tổ chức này nhân dân các bộ tộc Lào phát huy vai trò của mình trong việc
tham gia bầu cử Quốc hội, xây dựng chủ trương, chính sách pháp luật. Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc có vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội của đất nước. Điều
đó đã được khẳng định tại Điều 7 Hiến pháp nước CHDCND Lào 1991: Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc, Liên hiệp Công đoàn Lào, Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào, Hội
liên hiệp phụ nữ Lào các cơ quan, tổ chức xã hội là nơi tập hợp đoàn kết và động viên các
tầng lớp nhân dân các bộ tộc tham gia sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong
tổ chức mình [42, tr. 5]: "Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, tập hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tập hợp khối đại đoàn kết và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân" [45, tr. 3].
1.1.2. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
- Khái niệm quyền lực chính trị
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã có một giai đoạn lịch sử không
có sự phân chia thành giai cấp, và cũng không có quyền lực chính trị. Đó là xã hội
nguyên thủy. Trong các thị tộc, bộ lạc nguyên thủy, quyền lực công biểu hiện thành các
chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán... tập trung ở quyền lực của Hội đồng công xã và
trao cho người thủ lĩnh thừa hành.
Khi chuyển sang xã hội nô lệ - xuất hiện chế độ tư hữu, hình thành giai cấp và
đấu tranh giai cấp thì quyền lực công (bộ phận cơ bản) được tổ chức thành Nhà nước.
Nhà nước xuất hiện dường như để điều hòa làm dịu mâu thuẫn giai cấp, để các giai cấp
không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội. Song, cuộc đấu tranh quyền lực nhà nước
lại trở thành vấn đề trung tâm, then chốt trong hoạt động của các giai cấp, các lực lượng
xã hội. Khi một giai cấp đoạt được quyền lực nhà nước và trở thành giai cấp thống trị thì
giai cấp đó sẽ dùng quyền lực nhà nước để thiết lập sự thống trị của mình trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, để đảm bảo thực hiện lợi ích của giai cấp mình và đàn áp lại
sự chống đối của các giai cấp đối lập. Do đó, quyền lực chính trị - quyền lực của giai cấp
thống trị đã xuất hiện trong đời sống xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là
cội nguồn của quyền lực. Nền sản xuất vật chất và các nguồn dự trữ xã hội do nó tạo ra là
điều kiện để hình thành quyền lực và quyền lực chính trị. Nhân dân lao động là chủ thể
tạo ra các nguồn lực kinh tế, xã hội làm cho nó vận động trong quá trình lao động. Vì
vậy, nhân dân lao động là nguồn gốc xã hội trực tiếp nhất của quyền lực chính trị.
Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là người chủ chân chính những tư
liệu sản xuất của chế độ công hữu XHCN. Họ không chỉ là lực lượng tiên tiến nhất trong
nhân dân mà lợi ích cơ bản của họ còn thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Họ là bộ phận trung tâm trong nhân dân, nắm lấy quyền lãnh đạo,
quyền lực nhà nước. Vì vậy, quyền lực chính trị của nhân dân là quyền quyết định của
toàn dân đối với quyền lực nhà nước.
Sức mạnh của cuộc cách mạng XHCN được tạo nên trên nền tảng của liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Con
đường cách mạng của nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ thực
hiện mục đích chính trị đến cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc giải phóng lao
động khỏi áp bức bóc lột, tổ chức cuộc sống hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Khi giành được chính quyền, nhân dân lao động sẽ thực hiện dân chủ cho mọi
người lao động. Thông qua hoạt động bầu cử, nhân dân lao động thiết lập nên bộ máy
nhà nước "kiểu mới" của mình để tổ chức và quản lý xã hội. Giai cấp công nhân và nhân
dân lao động thực hiện một nền dân chủ cao hơn các nền dân chủ trước đó, là sự tham gia
rộng rãi của nhân dân vào đời sống chính trị, vào công việc của nhà nước. Đó là nền dân
chủ của số đông mọi người chứ không phải của một số ít người đặc quyền, đặc lợi trong
xã hội. Dân chủ thực sự theo nguyên nghĩa của nó là quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ XHCN là hình thức chính trị kiểu mới, trong đó giai cấp công nhân và nhân
dân lao động được giải phóng, trở thành người chủ của xã hội.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nhìn thấy ở quần chúng nhân
dân là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Theo các ông, mọi sự kiện lớn
lao trong đời sống xã hội, mọi biến đổi cách mạng xảy ra trong lịch sử sẽ không thể thành
công nếu không có sự tham gia tích cực của quần chúng.
Dân chủ XHCN là một nền dân chủ chân chính, dân chủ của số đông nhân dân
lao động, của đa số dân cư và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Bản chất của dân
chủ XHCN là tất cả quyền lợi thuộc về nhân dân, là thành quả của quá trình hoạt động tự
giác của quần chúng nhân dân. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng mới giác ngộ lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc, mới đấu tranh tự giác trong quá trình thực hiện yêu cầu dân chủ; cũng chỉ
dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít, quần chúng nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả
chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ, mục đích đi ngược lại lợi ích
của nhân dân.
Trong dân cư, nhân dân lao động chiếm đa số, nên họ là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân có nghĩa là nhân dân làm chủ và kiểm soát
quyền lực về kinh tế, chính trị, xã hội và việc sử dụng những quyền lực ấy nhằm đảm bảo lợi
ích của mình trong đời sống xã hội.
Như vậy "quyền lực thuộc về nhân dân lao động có nghĩa là nhân dân lao động
làm chủ và kiểm soát quyền lực kinh tế - xã hội và việc sử dụng những quyền lực ấy
nhằm đảm bảo lợi ích của mình trong đời sống xã hội" [26, tr. 340]. Muốn thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân lao động thì phải có những hình thức tổ chức thực hiện
đa dạng, thích hợp phải có những cơ quan nhất định hoạt động thường xuyên, là công cụ
đại diện để nhân dân lao động thực hiện có hiệu quả quyền lực của mình. Do đó, dân chủ
trực tiếp và dân chủ gián tiếp được coi là hai phương thức để nhân dân thực hiện quyền
lực chính trị của mình.
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công đã đem lại chính quyền và tư liệu sản
xuất cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xác lập quyền làm chủ của họ về mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhưng vấn đề quan trọng không chỉ là giành lại những quyền lợi
chính đáng trước đây bị giai cấp thống trị tước đoạt mà nhiệm vụ chủ yếu, nặng nề và vô
cùng khó khăn đặt ra là phải xây dựng một tổ chức xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, bảo
đảm củng cố vững chắc quyền lực chính trị, quyền làm chủ của người lao động.
Do đó, nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế trở thành một trọng tâm công
tác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lênin nói: giờ đây chúng ta phải quản
lý nước Nga, chúng ta phải hiểu rõ rằng muốn quản lý được tất cả, thì ngoài cái tài thuyết
phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn vẫn phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực
tiễn. Đó là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì vấn đề là phải tổ chức theo phương thức mới.
"Những cơ sở sâu xa nhất, những cơ sở kinh tế của đời sống của hàng chục triệu con
người" [9, tr. 301].
Kế thừa và phát huy những tư tưởng của Mác, Ăngnghen và Lênin về quyền lực
chính trị và thực thi quyền lực chính trị, Hồ Chí Minh trên nền tảng tư tưởng và truyền
thống phương Đông và bằng thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam đã làm cho hệ quan
điểm mác xít về những vấn đề này được bổ sung thêm những nội dung mới. Từ quan
niệm cho rằng quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn áp một giai cấp khác và mục đích trước mắt của những người cộng sản là
tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp
vô sản phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc. Hồ Chí
Minh khẳng định: Nhân dân Việt Nam phải giành lấy chủ quyền, và vấn đề tiên quyết là
phải xây dựng được một đảng cách mệnh để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lấy chính
quyền. Việc đấu tranh giành chính quyền, gìn giữ và củng cố chính quyền ấy là điều quan
trọng có ý nghĩa cốt tử nhất. Người tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập: "Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy" [19, tr. 4].
Nói về vấn đề quyền lực trong chế độ mới, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng
định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,bao nhiêu quyền hạn đều
của dân... chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra" [20, tr. 698].
Tất cả quyền lực trong nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân".
"Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [21, tr. 515]. Như vậy,
theo Hồ Chí Minh, quyền lực trong nhà nước không phải là quyền lực của cá nhân hay
của bộ máy, mà là của toàn thể nhân dân. Cơ quan nhà nước các cấp chỉ là người chấp
hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính quyền nhà
nước do nhân dân bầu ra, vì vậy phải do nhân dân kiểm soát. Cũng như Lênin, chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ
thì nhân dân mới làm chủ được quyền lực của mình.
Thắng lợi vĩ đại năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
mở ra một trang sử mới cho dân tộc Lào, lập nên chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân
"Nhà nước của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước dân chủ nhân dân. Mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân các bộ tộc" [46,
tr. 4].
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào hiện nay, quyền lực
của nhân dân đã từng bước được xác lập trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực chính trị trước hết là:Quyền có
được một nhà nước thật sự của dân. Nhà nước đó do nhân dân bầu ra bằng phổ thông đầu
phiếu. Nhà nước đó phải thật sự là công cụ để thực thi những quyền chính đáng của nhân
dân. Nhà nước đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện của nhân
dân. Nhân dân có quyền tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm với một bộ phận cơ quan nhà
nước, với các cán bộ, công chức nhà nước làm lợi hoặc làm hại tới lợi ích chính đáng của
nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: "Dân là chủ thì Chính phủ là đày
tớ... nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" [20, tr. 60].
Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là việc mở rộng phạm
vi của người dân tham gia vào công việc nhà nước. Nhân dân có quyền được thảo luận
mọi vấn đề lớn nhỏ có liên quan trực tiếp tới lợi ích chính đáng của mình. Với ý nghĩa
đó, quyền của người dân không chỉ được thực hiện qua các thiết chế đại diện, nó còn
được thực hiện thông qua thiết chế dân chủ trực tiếp, mà xu hướng chung dân chủ trực
tiếp sẽ ngày càng tăng. Chế độ nhất nguyên chính trị, bảo đảm giữ vững định hướng
XHCN, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, bảo đảm cho mọi người dân
quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật. Đó cũng là biểu
hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị.
Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là quyền giám sát các
hoạt động của nhà nước và hệ thống chính trị. Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực
chính trị cũng đòi hỏi mọi đại biểu của dân phải được nhân dân bầu ra thật sự dân chủ
mọi công dân không phân biệt thành phần giai cấp, giới tính, nghề nghiệp lĩnh vực hoạt
động hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật.
Việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân đòi hỏi phải bảo đảm lợi ích và
quyền lực nhân dân trong lĩnh vực kinh tế và lấy đó làm cơ sở. Mục tiêu, thực chất của
quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển các lợi ích
mà đảm bảo và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Do
vậy, giành giữ chính quyền để có thể thực thi được quyền lực chính trị bao giờ cũng là
mục tiêu trực tiếp, trọng yếu của giai cấp, lực lượng xã hội thống trị về kinh tế. Hơn thế
nữa giai cấp, lực lượng xã hội đó lại thường là lực lượng có đủ điều kiện để dành, giữ và
chi phối quyền lực chính trị. Giai cấp nào thống trị về kinh tế sớm muộn sẽ thống trị về
chính trị và nếu một giai cấp, lực lượng xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà
không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể
duy trì được quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị của nhân dân còn thể hiện trên lĩnh vực xã hội. Bảo đảm
quyền công dân, quyền con người, quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân,
khắc phục dần sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng của đất nước, từng
bước giải phóng con người khỏi những quan hệ xã hội phi nhân tính - đó là những biểu
hiện chủ yếu của quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực xã hội.
Quyền lực chính trị của nhân dân còn bao hàm quyền lực của nhân dân trên lĩnh
vực tinh thần. Việc thực hiện quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực này đòi hỏi giữ vững
định hướng XHCN, bảo đảm phát huy mọi năng lực sáng tạo tinh thần của quần chúng.
Tùy theo những bước tiến đạt được trong quá trình đổi mới, nội dung và mức độ quyền
lực chính trị của nhân dân cũng không ngừng mở rộng và phát huy.
Trong chế độ dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào quyền
lực nhà nước do khối đại đoàn kết toàn dân quyết định mà nòng cốt là khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nội dung quyền lực
chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay rất phong phú và có thể xét trên các quyền
cơ bản như sau:
+ Quyền tổ chức quyền lực nhà nước. Thông qua ý chí chung của nhân dân, lập
ra Hiến pháp và bầu ra Quốc hội. Hiến pháp quy định những nguyên tắc cơ bản, kết cấu
tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của quyền lực nhà nước và từng cơ quan quyền lực nhà
nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
theo Hiến pháp quy định, Quốc hội thành lập Chính phủ và các cơ quan Tư pháp. Toàn
bộ việc tổ chức quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương và từ cơ sở đều được
quy định bởi pháp luật.
+ Quyền lãnh đạo quyền lực nhà nước. Nhân dân tổ chức ra quyền lực nhà nước
nên phải thực hiện sự lãnh đạo đối với quyền lực đó. Để sự lãnh đạo tập trung và thống
nhất, nhân dân tổ chức ra một đội tiên phong, tổ chức đó là Đảng nhân dân cách mạng Lào.
Điều 3, Hiến pháp nước CHDCND Lào (1991) đã quy định: "Quyền làm chủ đất nước của
nhân dân các bộ tộc được thực hiện và bảo đảm bằng hoạt động của hệ thống chính trị do
Đảng nhân dân cách mạng Lào làm hạt nhân lãnh đạo" [46, tr. 1]. Nhưng để đảm bảo sự
lãnh đạo đó luôn đúng ý nguyện của mình, nhân dân không chỉ tham gia vào quá trình
hình thành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương mà còn phải thực hiện quyền giám
sát đối với Đảng và Nhà nước.
+ Quyền giám sát quyền lực nhà nước. Để đảm bảo cho hoạt động của nhà nước
luôn xuất phát từ dân và vì lợi ích của dân, nhân dân các bộ tộc phải thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát, kiểm soát cơ quan nhà nước sử dụng quyền do mình ủy thác và kịp
thời điều chỉnh, uốn nắn khi phát hiện có những biểu hiện lệch lạc. Việc làm này thông
qua các tổ chức đại diện và những đại biểu do chính nhân dân bầu ra, qua các tổ chức
chính trị - xã hội của từng bộ phận nhân dân và những quyền làm chủ trực tiếp của từng
công dân; đồng thời thông qua sự tác động của các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội và các
phương tiện thông tin đại chúng buộc nhà nước phải luôn phục tùng chủ quyền tối
thượng của nhân dân các bộ tộc.
+ Quyền chấp hành nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực của nhân dân đã trao
cho nên mỗi người dân đều có quyền tuân thủ quyền lực nhà nước mà không ai có quyền cản
trở. Hơn nữa, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước còn chính là quyền lợi của mỗi người dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh (người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương) đã dạy rằng: Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân.
+ Quyền thực hiện quyền công dân. Là công dân của nhà nước, nhân dân có
quyền được đề cử, bầu cử người thay mặt mình và quyền được ứng cử, được bầu cử hay
bổ nhiệm vào các chức vụ của cơ quan nhà nước quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do lập hội, họp hội... quyền chất vấn cán bộ, công chức nhà nước và
quyền được nhà nước đáp ứng những điều kiện vật chất và tinh thần đảm bảo cho yêu cầu
tồn tại, phát triển của công dân.
+ Quyền được hưởng thụ quyền con người. Là con người, mỗi người dân đều có
những quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước phải tôn trọng, công nhận quyền tự tổ chức cuộc sống, tự
lựa chọn những giá trị, nghề nghiệp, công việc, nơi ở và làm việc, tự do thể xác và tinh
thần của mọi công dân. Nhà nước có nghĩa vụ không thể thiếu là bảo vệ danh dự và phẩm
giá, lợi ích và sự nghiệp, tính mạng và tài sản của mỗi con người, đồng thời còn phục vụ
các phúc lợi xã hội và dịch vụ công ích... Vì cuộc sống của mỗi người và sự phát triển
của con người.
1.2. Đặc điểm tổ chức của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
1.2.1. Đặc điểm
Xuất phát từ điều kiện lịch sử tự nhiên - xã hội đặc thù của đất nước Lào luôn
phải đấu tranh chống kẻ thù, thiên tai, dịch họa nên cộng đồng dân tộc Lào phải gắn bó
với nhau trong lao động và chiến đấu để dựng nước và giữ nước. Suốt chiều dài lịch sử
hàng ngàn năm của dân tộc đã dạy cho mỗi người trong cộng đồng Lào ý thức được rằng
"Hôm Kăn hau dù, Tẹch mu hau tai" (Chia rẽ thì chết, đoàn kết thì sống). Đồng chí Khăm
Tay Sỉ Phăn Đon chủ tịch Đảng NDCM Lào nhấn mạnh:
Nhìn lại rất rõ lịch sử phát triển đất nước ta, khi nào tinh thần yêu
nước được phát huy cao độ, sự đoàn kết trong nội bộ được thắt chặt thì lúc đó
đất nước ta thịnh vượng, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược
lại, nếu tinh thần yêu nước không được nâng cao, mất sự đoàn kết trong nội bộ
nhân dân thì lúc đó đất nước ta bị tàn phá chà đạp, nhân dân ta bị áp bức bóc
lột và nghèo khổ [51, tr. 52].
Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (3/2/1930), do nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Lào năm 1934 "Xứ ủy Ai Lào" của Đảng cộng sản Đông Dương được
thành lập trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Lào. Đảng đã nhìn thấy sự cần thiết
tập hợp mọi lực lượng yêu nước đoàn kết xung quanh Đảng chống thực dân xâm lược.
Các giai cấp, các tầng lớp ở Lào đều bị thực dân xâm lược áp bức bóc lột, đều có nguyện
vọng thiết tha chung là giành độc lập cho dân tộc, giải phóng khỏi thân phận bị áp bức
bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ rõ:
Cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa và nửa thuộc địa là cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đi đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một
Mặt trận dân tộc rộng rãi đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được
giải phóng khỏi ách thuộc địa. Do đó, dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lao" (tiền thân
của Đảng DNCM Lào) đã thành lập "Mặt trận Ai Lao đồng minh" năm 1941, một tổ
chức cách mạng tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân yêu nước để đấu
tranh giành độc lập, tự do cho đất nước Lào. Đây là tổ chức Mặt trận đầu tiên, là một
sáng tạo to lớn của cách mạng Lào lúc đó.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận không ngừng được củng cố và mở
rộng: Từ tổ chức Mặt trận đầu tiên là Mặt trận Ai Lào đồng Minh (1941) đến Mặt trận
Nèo Lào-ít-xa-la (1950-1956), Mặt trận Nèo Lào -Hắc xạt (Lào yêu nước) (1956-1979)
và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (1979 đến nay).
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Hệ
thống tổ chức của Mặt trận được tổ chức theo 4 cấp hành chính:
+ Cấp Trung ương
+ Cấp tỉnh, thành phố, đặc khu
+ Cấp huyện
+ Cấp cơ sở (làng, bản...)
ở mỗi cấp hành chính có ủy ban Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là cơ quan chấp
hành của Mặt trận cùng cấp, do Đại hội đại biểu Mặt trận cấp đó hiệp thương cử ra, có
trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận. Mặt trận không có hội viên, chỉ có thành
viên nên hoạt động của Mặt trận thực chất là hoạt động của từng thành viên là chủ yếu.
Tính chất này chỉ riêng Mặt trận mới có, các đoàn thể khác không có. ủy ban Mặt trận
các cấp và các tổ chức thành viên tập thể, cá nhân hiệp thương thống nhất chương trình
hành động chung rồi các thành viên tiến hành vận động hội viên, đoàn viên của mình
thực hiện.
Mặt trận là một liên minh chính trị, là khối đại đoàn kết dân tộc. Trong các thời
kỳ khác nhau chức năng nhiệm vụ của Mặt trận có những thay đổi phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ như sau:
- Thời kỳ chống thực dân cũ (1945-1954) Mặt trận Neo Lào - ít-xa- la có nhiệm
vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để trở thành một lực lượng to lớn, đoàn kết đặc biệt với
quân đội và nhân dân Việt Nam, đoàn kết ba nước Đông Dương, làm tròn sứ mệnh lịch
sử vẻ vang là giải phóng ách thống trị của thực dân kiểu cũ giành lấy độc lập tự do cho đất
nước năm 1954.
- Thời kỳ chống thực dân kiểu mới Mặt trận Lào Hắc xạt (Lào yêu nước) có
nhiệm vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để đánh thắng đế quốc kiểu mới, lúc này Mặt trận
có vai trò vừa là Quốc hội vừa là Chính phủ kháng chiến hoạt động trên ba mặt: chính trị,
quốc phòng và ngoại giao, thực hiện khẩu hiệu là: hòa bình, độc lập, tự do và thịnh
vượng.
Mặt trận Lào Hắc xạt đã làm tròn sự nghiệp quang vinh của mình là đánh đuổi
thực dân mới, lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ, chế độ phong kiến, thiết lập chế độ mới, chế độ
dân chủ nhân dân năm 1975. Khi có Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ) thì chức năng,
nhiệm vụ của Mặt trận có sự thay đổi mà nhiệm vụ chính là tập hợp đại đoàn kết toàn
dân, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng.
- Xem thêm -