Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ...

Tài liệu VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

.DOCX
57
1891
146

Mô tả:

KHOA KINH TẾ ĐỀ TÀI SỐ 13: VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1 2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu.....................................................................................2 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu......................................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................2 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................................3 1.1. Các khái niệm liên quan.......................................................................................3 1.2. Vốn nhân lực trong các mô hình tăng trưởng......................................................7 CHƯƠNG II: CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG VỐN NHÂN LỰC................................................................................10 2.1. Tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực...........................................................10 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.........................................11 CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ.............................................................................................................15 CHƯƠNG IV: THỰC TRẠNG VỐN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY......25 4.1. Tổng quát về nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay................................................25 4.2. Thực trạng chất lượng vốn nhân lực Việt Nam.....................................................26 4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực Việt Nam :........................................34 CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP.................................................................43 5.1. Giải pháp chung.....................................................................................................43 5.2. Giải pháp đối với Việt Nam...................................................................................48 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................53 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trước đây, người ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất được xác định bằng số lượng lao động của mỗi quốc gia. Nhưng khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận là một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ có tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì cũng là lúc nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động là vốn nhân lực, đó là lao động có kỹ năng sản xuất, có sáng kiến trong công việc,…Vì vậy một trong những yêu cầu để hòa nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới là phải có được nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng những yêu cầu của trình độ phát triển của khu vực, thế giới. Trên thực tế tất cả nguồn lực đều quan trọng đối với một quốc gia, trong đó vốn con người tuy không phải vạn năng nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ thúc đẩy tiến bộ công nghệ mà còn là nhân tố quyết định bản chất của tiến bộ công nghệ trong từng thời kì. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu gần đây đều cho thấy, số người trong độ tuổi lao động tăng lên không làm GDP tăng lên mà còn kéo tốc độ tăng trưởng GDP xuống. Điều đó cho thấy yếu tố tuổi thọ và yếu tố giáo dục có tác động thuận chiều lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, tuy nhiên vốn nhân lực này lại có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng còn thấp, thiếu sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Qua những thực trạng trên, có thể nói rằng nhìn chung, người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, sáng tạo và có khả năng tiếp cận tri thức, nhưng đa số đều dựa trên lý thuyết ít tiếp cận với thực tế, mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức thấp, đặc biệt là trẻ em. Như vậy, nguyên nhân của việc nền kinh tế Việt chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường Thế giới phải chăng là do năng lực cạnh tranh còn quá yếu kém, hay đằng sau nó là cả một vấn đề lớn về vốn nhân lực. Vì vậy, với mong muốn hiểu rõ được vấn đề nghiêm trọng còn tồn đọng này, bài nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu về tình hình, nguyên nhân, cũng như những bài học kinh nghiệm từ những nước trên thế giới, từ đó đưa ra những kiến nghị khách quan hơn đối với thực trạng về vốn nhân lực trong nước. 1 2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nghiên cứu sự tác động cũng như là mức độ tác động của yếu tố vốn nhân lực lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam, bên cạnh đó nghiên cứu cũng mong muốn tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc chưa phát triển và sử dụng hiệu quả vốn nhân lực trong nước. Từ đó đề xuất những kiến nghị đối với vấn đề cấp bách này, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu như hiện nay. Để thực hiện mục tiêu trên, bài nghiên cứu sẽ trả lời những câu hỏi sau:  Vốn nhân lực là gì? Vai trò quan trọng như thế nào đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam?  Những yếu tố nào tác động đến vốn nhân lực trong nước?  Thực trạng vốn nhân lực hiện nay của Việt Nam ra sao?  Nguyên nhân nào làm cho nước ta có số lượng lớn về lao động, nhưng có chất lượng thấp về lao động?  Tại sao ngày nay, các nước cần chú trọng nhiều hơn đến vốn nhân lực thay vì số lượng lao động như trước đây  Giải pháp hiệu quả nào là cần thiết đối với vấn đề này? Và kiến nghị nào dành cho Việt Nam? 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là kinh tế tư nhân, người lao động trong khu vực quốc gia Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận dựa trên các lý thuyết về vốn nhân lực, kết hợp kiến thức của giảng viên qua các bài giảng của các môn học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu cùng với kiến thức từ sách báo, giáo trình, các website chuyên ngành, các luận văn tốt nghiệp, các đề tài nghiên cứu khoa học của các năm, nguồn số liệu đã có từ những nghiên cứu, báo cáo, bài báo,… được đăng tải trên Internet, các phương tiện đại chúng khác, trên các website các công ty nghiên cứu như Vinaresearch, Moore, Nielsen,… nhằm phân tích, tổng hợp những nội dung phù hợp với bài nghiên cứu. 2 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Các khái niệm liên quan 1.1.1. Vốn nhân lực Trước kia, các nhà kinh tế thường quan tâm đến ba yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất: đất đai, nhân công và vốn. Vào những năm 1960, người ta bắt đầu quan tâm hơn đến trình độ giáo dục của công nhân. Thuật ngữ “vốn nhân lực” xuất hiện từ đó. Cụm từ “Vốn nhân lực” hay vốn con người được sử dụng khi bàn đến sự đầu tư của con người vào chăm sóc sức khỏe, học tập, đào tạo và phát triển con người toàn diện. Khoa học về vốn nhân lực có thể truy ngược từ thế kỷ XVIII khi Adam Smith viết tác phẩm “Sự thịnh vượng của nước nhà” (The wealth of the Nation - 1776). Theo đó, ông cho rằng: “Sự tích lũy những tài năng trong quá trình học tập, nghiên cứu hoặc học việc thường đòi hỏi chi phí. Đó là tư bản cố định đã kết tinh trong con người. Những tài năng đó tạo thành một phần tài sản của anh ta và của xã hội”. Vốn nhân lực là tập hợp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và các phẩm chất tốt đẹp mà con người tích lũy được trong bản thân mình. Nguồn hình thành vốn nhân lực chính là con người. Trong từ điển kinh tế vốn (Capital) được định nghĩa là giá trị của tư bản hay hàng hoá đầu tư được sử dụng vào kinh doanh mang lại lợi ích. Theo nghĩa này vốn là vốn hữu hình. Nhưng vốn nhân lực hay vốn con người theo Mincer Jacob (1974) cũng giống như vốn hữu hình, muốn có thì con người phải đầu tư để tích luỹ thông qua giáo dục rèn luyện trong lao động và thuộc về mỗi người, và nó đem lại cho người sở hữu nó khoản thu nhập. Theo Nguyễn Văn Ngọc (2006) thì vốn con người – là khái niệm để chỉ toàn bộ hiểu biết của con người về phương thức tiến hành các hoạt động kinh tế xã hội. Như vậy về mặt nội dung thì không có gì khác nhau vì những hiểu biết và kinh nghiệm đề được hình thành và tích luỹ trong quá trình học tập và lao động. Giữa hai loại vốn này có một điểm chung nhất đó là chúng tăng lên nhờ hoạt động đầu tư của chủ thể và theo thời gian đều bị hao mòn. Hoạt động đầu tư làm tăng vốn hữu hình nhờ mua sắm trang bị thêm máy móc nhà xưởng… còn hoạt động đầu tư vào vốn con người nhờ đầu tư học hành. Sự hao mòn của chúng ở đây cùng là hao mòn vô hình dưới ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ làm tư bản hữu hình lạc hậu và mất giá, còn những kiến thức tích luỹ 3 được cũng bị lạc hậu trong quá trình đó nếu không được cập nhật thường xuyên thông qua quá trình đào tạo lại hay tiếp tục tự học tập để bổ sung hoàn thiện. Chúng cũng có những điểm khác nhau nhất định. Thứ nhất, vốn con người là vốn vô hình gắn với người sở hữu nó, và chỉ được sử dụng khi người chủ của nó tham gia vào quá trình sản xuất. Loại vốn này không thể mang cho vay hay thế chấp như vốn hữu hình. Thứ hai, Vốn này gắn với người sở hữu không chia sẻ và đầu tư dàn trải tránh rủi ro. Thứ ba, Vốn con người dễ dịch chuyển hơn và động hơn. Vốn con người cấu thành từ ba nhân tố chính (1) năng lực ban đầu, nhân tố này gắn liền với yếu tố năng khiếu và bẩm sinh ở mỗi người, (2) những năng lực và kiến thức chuyên môn được hình thành và tích luỹ thông qua quá trình đào tạo chính quy, (3) các kỹ năng, khả năng chuyên môn, những kinh nghiệm tích luỹ từ quá trình sống và làm việc. Năng lực ban đầu nhận được từ cha mẹ và các điều kiện của gia đình và xã hội khi khi chăm lo cho bà mẹ mang thai và sinh nở. Khi đi học để có năng lực thì người ta phải bỏ ra chi phí học hành và cuối cùng những trải nghiệm trong cuộc sống làm việc nhiều trường hợp người ta phải trả giá rất cao. Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng “tất cả các hành vi của con người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho chính các cá nhân hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh. Các dạng biểu hiện khác đều bị cho là không thuộc phạm vi hoặc sự biến dạng của lý thuyết này” (Fitzimons, 1999). Nội dung chính của lý thuyết cho rằng các cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhằm tích luỹ những kỹ năng và kiến thức (một phần của vốn nhân lực), những cái có thể mang lại lợi ích lâu dài sau đó. Sự đầu tư này cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng lý thuyết này mang đậm quan điểm tư bản vì nó đặt trọng tâm lên những lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân. Becker (1964) tìm ra nhiều cách thức khác nhau để đầu tư cho vốn nhân lực, nhưng chủ yếu vẫn thông qua giáo dục đào tạo. Ông cũng đưa ra bằng chứng về mối tương quan giữa trình độ học vấn và thu nhập: học vấn càng cao, thu nhập càng tăng. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ tương đối vì định lượng trình độ học vấn của một người không chỉ đơn giản là xem bao nhiêu bằng cấp mà người đó có được như đã đề cập ở phần trên. Nhưng làm thế nào (đầu tư vào) vốn nhân lực có thể tạo ra sự thịnh vượng cho một quốc gia? Thứ nhất, giáo dục mang lại cho mỗi cá nhân ở một trình độ nhất định việc làm và thu nhập (lợi ích cá nhân). Người có học vấn cao có cơ hội tìm được việc làm tốt 4 hơn và ít có nguy cơ thất nghiệp. Nghiên cứu của Krueger và Lindahl (1999) cho thấy nếu trình độ học vấn cao hơn thì thu nhập trung bình một năm tăng từ 5 - 15% (OECD, 2001). Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vào năm 2011 định nghĩa rằng nguồn vốn nhân lực là “kiến thức, kỹ năng, năng lực và những thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân, góp phần tạo nên sự thịnh vượng kinh tế, xã hội và của bản thân người ấy”. Xem xét kỹ hơn chúng ta thấy, về mặt cá nhân, vốn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. Về mặt xã hội, vốn nhân lực bao gồm số lượng – tiềm năng lao động xã hội ( thể hiện thông qua số người lao động) và chất lượng – tính năng động xã hội của nguồn nhân lực, đó là khả năng sáng tạo, khả năng thích ứng, năng lực, phẩm chất v.v… của nguồn nhân lực. Như vậy vốn nhân lực là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích luỹ trong mỗi con người nhờ quá trình học tập, rèn luyện và lao động được thể hiện trong quá trình sử dụng trong sản xuất. Vốn nhân lực cũng hao mòn và phải tốn chi phí đề đầu tư hình thành và là nguồn vốn quan trọng nhất để phát triển của mỗi doanh nghiệp và quốc gia. 1.1.2. i. Tăng trưởng và phát triển kinh tế Tăng trưởng kinh tế Theo Wikipedia, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào hai quá trình: sự tích luỹ tài sản (như vốn, lao động, và đất đai) và đầu tư những tài sản này một cách có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn có thể hiểu, tăng trưởng kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng. 5 Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn thuần về mặt số lượng; đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, mặc dù nó cũng giúp cho xã hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của công dân, của xã hội. ii. Phát triển kinh tế Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. (Wikipedia) Nội dung chủ yếu của phát triển kinh tế:  Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dài hạn, Đây là điều kiện tiên quyết để tạo ra những tiến bộ về kinh tế- xã hội, nhất là ở các nước đang phát triển thu nhập thấp.  Thứ hai, cơ cấu kinh tế- xã hội thay đổi theo hướng tiến bộ. Xu hướng tiến bộ của quá trình thay đổi này ở những nước đang phát triển, đang hoặc chưa trải qua quá trình công nghiệp hoá thể hiện ở quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và đô thị hoá; đó không đơn thuần là sự gia tăng về quy mô, mà còn bao hàm việc mở rộng chủng loại và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra; hoạt động của nền kinh tế ngày càng gia tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc đạt được những tiến bộ xã hội một cách sâu rộng.  Thứ ba, những tiến bộ kinh tế- xã hội chủ yếu phải xuất phát từ động lực nội tại. Đến lượt mình kết quả của những tiến bộ kinh tế đạt được lại làm gia tăng không ngừng năng lực nội sinh của nền kinh tế (thể hiện ở những tiến bộ về công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nguồn vốn trong nước…).  Thứ tư, đạt được sự cải thiện sâu rộng chất lượng cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội như là hàng đầu và là kết quả của sự phát triển. Đương nhiên một kết quả như thế không chỉ là sự ra tăng thu nhập bình quân đầu ngươi, một số bình quân có thể che lấp đằng sau nó sự phân phối bất bình đẳng, nạn đói nghèo, thất nghiệp và những thụ hưởng khác về giáo dục, y tế, văn hoá… 1.1.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. ở những nước đang phát triển, đặc biệt là những nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, 6 nếu không đạt được mức tăng trưởng tương đối cao và liên tục trong nhiều năm, thì khó có điều kiện kinh tế để cải thiện mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những phương thức khác nhau và do đó có thể dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc đẩy cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Nếu phương thức tăng trương kinh tế chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này, mà không hoặc đem lại lợi ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng như vậy, rốt cục, cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không những không thúc đẩy được phát triển, mà bản thân nó cũng khó có thể tồn tại được lâu dài. 1.2. Vốn nhân lực trong các mô hình tăng trưởng Từ lâu các nhà kinh tế đã nhận thấy rằng vốn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và giáo dục cũng chính là cách thức cơ bản để tích lũy vốn nhân lực. Vào những năm của thập niêm 1950, mô hình tăng trưởng Solow – Swan đã coi lao động là một nhân tố sản xuất quan trọng và bổ sung tiến bộ công nghệ là biến số quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tiến bộ công nghệ được đưa vào mô hình bởi vì yếu tố này được cho là giải thích được tại sao một nền kinh tế có thể sản xuất nhiều sản lượng đầu ra hơn với một số lượng đầu vào cho trước. Một số lượng nhất định lao động có thể sản xuất nhiều sản phẩm hơn nếu họ có kiến thức tốt hơn về công nghệ và được trang bị thiết bị máy móc công nghệ hiện đại hơn. Tuy vậy, mô hình này không giải thích được cách thức tiến bộ công nghệ xảy ra như thế nào một cách nội sinh. Đã có nhiều cố gắng nhằm điều chỉnh mô hình Swan-Solow, trong đó có Schultz (1961) đã nỗ lực đưa vốn con người vào mô hình với lập luận rằng gia tăng vốn con người có thể làm tăng năng suất và từ đó dẫn tới gia tăng thu nhập. Nhìn chung, vốn con người được tích lũy trên cơ sở năm yếu tố cấu thành: tình trạng sức khỏe, đào tạo tại chỗ, giáo dục chính quy, các chương trình đào tạo đối với người lớn và sự di chuyển trong quá trình tìm kiếm các cơ hội việc làm tốt hơn, 7 trong đó giáo dục chính quy được coi là nhân tố quan trọng nhất giúp gia tăng vốn con người. Sau đó vào những năm 1960, Nelson và Phelps đã đưa khái niệm lao động hiệu quả, theo đó trình độ giáo dục của người lao động được gán một trọng số và thông qua khái niệm này , kênh tác động của giáo dục đối với kinh tế được xác định chính xác hơn. Trong thời gian này vai trò của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế đã trở nên phổ biến trong giới kinh tế học, vì người ta tin rằng vốn con người góp phần đưa ra một cái nhìn thấu đáo hơn về những khác biệt trong tăng trưởng kinh tế. Kể từ những năm 1970, nghiên cứu về vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng được phát triển chủ yếu là theo hướng nghiên cứu định lượng. Vào những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng nội sinh do Romer đề xuất đã vượt qua được những hạn chế trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển Swan – Solow. Khung lý thuyết của mô hình này đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu và phát triển nguồn vốn con người, trong đó có bao hàm giáo dục với tư cách là các cơ chế tích lũy kiến thức về công nghệ. Mặc dù tầm quan trọng của vốn con người được nhìn nhận, nhưng vấn đề làm thế nào để đưa vốn con người vào làm mô hình tăng trưởng thì vẫn chưa rõ ràng, do cách xác định về vốn con người thường trùng lặp với những định nghĩa về tiến bộ công nghệ. Khó khăn này xuất phát chủ yếu từ các vấn đề có liên quan đến cách thức vốn con người tác động đến tăng trưởng kinh tế. Việc tích lũy vốn con người có thể tạo ra hiệu suất kinh tế theo quy mô thông qua việc gia tăng hiệu suất và năng suất đầu vào là lao động và vốn vật chất. Vốn con người cũng góp phần thúc đẩy tiến bộ công nghệ, vì tiến bộ công nghiện có thể được đo lường bằng số lượng các thiết kế mới và điều này về cơ bản là kết quả của tích lũy kiến thức trong lĩnh vực giáo dục. Việc ước lượng đóng góp của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế cũng phụ thuộc vào vấn đề xác định và lựa chọn mô hình. Các hàm sản xuất dùng để ước lượng thường xác định thu nhập là một hàm của vốn, lao động hiệu quả (số lượng lao động được gán trọng số theo trình độ giáo dục của người lao động), tiến bộ công nghệ và hệ số co giãn của thu nhâp đối với vốn. Giả định rằng có được số liệu về thu nhập, vốn, lao động và giáo dục, khi đó đóng góp của từng nhân tố tới tăng trưởng có thể được xác định. Tuy nhiên do khó khăn trong việc xác định biến đại diện phù hợp cho tổng năng suất nhân tố (TFP), các hệ số hồi quy thường được xác định từ việc hồi quy thu nhập theo các biến số 8 vốn vật chất, giáo dục và lao động. Khi đó, các sai số quan sát được của mô hình , không chỉ bao gồm TFP mà còn gồm cả nhiễu trắng, các nhân tố bên ngoài khác được giải thích trong mô hình, như tác động của thể chế chính trị, quản trị và các điều kiện về địa lý. Do đó, những yếu tố không đo lường này có thể làm cho tầm quan trọng của tiến bộ công nghệ được đánh giá quá cao, trong khi đó lại đánh giá không đúng mức tầm quan trọng của các nhân tố khác bao gồm vốn con người. 9 CHƯƠNG II: CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG VỐN NHÂN LỰC 2.1. Tiêu chí đánh giá chất lượng vốn nhân lực Chất lượng vốn nhân lực là mức độ mà một tập hợp các đặc tính của vốn nhân lực tạo cho vốn nhân lực khả năng thoả mãn những nhu cầu được nêu ra hoặc tiềm ẩn. Căn cứ vào 4 đặc tính thể hiện chất lượng vốn nhân lực và các đặc điểm của vốn nhân lực trong ngành kinh tế, căn cứ vào các mô hình vốn nhân lực và khái niệm chất lượng vốn nhân lực được phát triển ở trên, luận án tiến sĩ Hoàng Xuân Hiệp đề xuất 7 tiêu chí mới để đánh giá chất lượng vốn nhân lực, đó là các tiêu chí: 1. 2. 3. 4. 5. 6. Đầu tư tài chính cho giáo dục Số năm đi học, số năm kinh nghiệm Thu nhập bình quân Tốc độ tăng thu nhập Năng suất lao động Tỷ lệ biến động lao động. Ngoài ra, có thể nói vốn nhân lực có nguồn cung cấp trực tiếp là từ nguồn nhân lực của một quốc gia nên các tiêu chí để đánh giá ngay chất lượng của nguồn nhân lực cũng rất cần được chú trọng trong tiến trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đó, các tiêu chí để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực sẽ là trọng tâm thông qua đó đánh giá tổng quát về vốn nhân lực. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực gồm:  Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực Sức khỏe của nguồn nhân lực là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người. Để phản ánh điều đó có nhiều chỉ tiêu biểu hiên như: Tiêu chuẩn đo lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa, thần kinh, tâm thần, tai, mũi, họng…Bên cạnh đó việc đánh giá trạng thái sức khỏe còn thể hiện thông qua các chi tiêu: tỷ lệ sinh, chết, biến động tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính…  Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực 10 Trình độ văn hóa là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông không chỉ về lĩnh vực tự nhiên mà còn bao gồm cả lĩnh vực xã hội. Ở một mức độ cho phép nhất định nào đó thì trình độ văn hoá của dân cư thể hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực được thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ: - Số lượng và tỷ lệ biết chữ - Số lượng và tỷ người qua các cấp học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, cao đẳng, đại hoc, trên đại học,… Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực cũng như trình độ phát triển của kinh tế xã hội  Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Trình độ chuyên môn kỹ thuật thể hiện sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn, nghề nghiệp nào đó. Đó cũng là trình độ được đào tạo ở các trường chuyên nghiệp, chính quy. Các chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật như: - Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo - Cơ cấu lao động được đào tạo: + Cấp đào tạo + Công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn + Trình độ đào tạo ( cơ cấu bậc thợ..) Ngoài ra còn có thể xem xét chất lượng nguồn nhân lực thông qua chỉ tiêu biểu hiện năng lực phẩm chất của người lao động 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực Dựa trên các nghiên cứu đặc thù về chất lượng vốn nhân lực, nghiên cứu xác định rõ 5 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vốn nhân lực trong tiến trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia là 11 Một là, Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội là tấm gương phản chiếu chính xác, trung thực mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là sự phản ánh, tích hợp của mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố tạo nên thuộc tính bên trong quy định chất lượng nguồn nhân lực, phản ánh trình độ văn minh của một quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội tạo động lực, nền tảng quan trọng để nâng cao mọi mặt đời sống dân cư của một quốc gia. Kinh tế tăng trưởng và phát triển tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khoản ngân sách Nhà nước nói chung và nguồn kinh tế dư thừa trong gia đình nói riêng không ngừng tăng lên, con người có điều kiện để đầu tư, tái tạo lại sức lao động thông qua vai trò giáo dục. Ngược lại, khi giáo dục và đào tạo phát triển, hệ quả tất yếu kéo theo là sự gia tăng hàm lượng trí tuệ được mã hóa nhiều hơn ở người lao động, ở nguồn nhân lực, tức là chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và nâng cao. Đến lượt mình, nguồn nhân lực có chất lượng trở thành động lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hai là, Giáo dục và đào tạo, Tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của liên hợp quốc (UNESCO) đã khẳng định:Giáo dục là của cải nội sinh. Kết quả của giáo dục là nguồn sức mạnh nội lực của chính bản thân mỗi cá nhân nhưng hiệu ứng và tính lan tảo do kết quả ấy mang lại thì lại có tầm vóc toàn xã hội, tạo ra phúc lợi cho toàn xã hội. Điều này, càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay khi mà khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp, tức là khoa học công nghệ trở thành một nguồn vốn tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất vật chất và là một trong những thành tố quan trọng làm gia tăng giá trị của sản phẩm, giảm nhẹ sức lao động của con người nhưng mang lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Trí tuệ và năng lực sáng tạo là yếu tố quyết định trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đảm nhận trọng trách lớn lao này chính là giáo dục và đào tạo. Do đó, đầu tư cho giáo dục luôn được Đảng ta coi là “quốc sách hàng đầu” và đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư cho tái sản xuất con người một cách an toàn và mang lại không chỉ hiệu quả kinh tế mà còn cả hiệu ứng lan tỏa, hiệu quả xã hội cao nhất. 12 Sự phát triển của hệ thống giáo dục ở mỗi quốc gia có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ các quá trình kinh tế - xã hội của chính mỗi quốc gia và ngược lại, sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó diễn ra chậm chạp, kém thích ứng thì chính quốc gia ấy sẽ gặp bất lợi trong quá trình phát triển. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là hệ thống đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao càng kém hoàn thiện, kém hiệu quả bao nhiêu thì chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo sẽ yếu kém bấy nhiêu. Thực tế, đã chứng minh, các quốc gia công nghiệp phát triển luôn quan tâm thỏa đáng đến công tác giáo dục và đào tạo, ngân sách chi cho đầu tư giáo dục luôn ở mức cao trong tổng chi ngân sách nhà nước nhằm giải phóng tối đa sức sản xuất, nâng cao trình độ dân trí và đội ngũ cán các nhà khoa học tạo động lực cho việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, đưa các phát minh, sáng chế từ ý tưởng trên bàn giấy, trong phòn thí nghiệm đến thực tiễn quá trình lao động sản xuất một cách nhanh nhất. Ba là, dân số. Phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng không tách rời vấn đề dân số mà có liên quan mật thiết với vấn đề này. Dân số là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng lao động phụ thuộc chặt chẽ vào tốc độ gia tăng dân số, quy mô dân số, chất lượng dân cư,..Song tốc độ và quy mô gia tăng dân số, đặc biệt là tốc độ gia tăng dân số phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế, môi trường sống (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội), trình độ dân trí, khả năng nhận thức của các thành viên trong xã hội, chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách an sinh xã hội, pháp luật, phong tục, tập quán, tâm lý, sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là trong lĩnh vực y học,..của mỗi quốc gia. Bốn là, trình độ khoa học công nghệ. Quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo kiểu rút ngắn như nước ta hiện nay thì điều quan trọng là phải “đi tắt, đón đầu”, tận dụng tối đa những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học, công nghệ mang lại. Để tận dụng triệt để lợi thế, giảm thiểu tối đa những điều bất lợi thì khoa học công nghệ được xem là một giải pháp hữu dụng nhất. Bởi, hiện nay chúng ta không chỉ mở rộng quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo chiều 13 rộng mà quan trọng và giành lợi thế hiện nay là phải nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Năm là, Hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Ngoài các nhân tố nêu trên, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta còn cần đến hệ thống các chính sách vĩ mô của Nhà nước như: Chính sách y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách sử dụng, phân bổ và thu hút nhân tài, chính sách văn hóa - xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách tiền lương,..đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Chúng ta biết rằng, nếu trình độ y tế cao, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao thể trạng và chất lượng nguồn nhân lực. Không thể có một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, tâm hồn trong sáng, tinh thần thoải mái, phát triển hài hòa trên nền tảng một nền y tế yếu kém, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách văn hóa - xã hội, đời sống văn hóa tinh thần không được quan tâm, đầu tư thỏa đáng. Mặt khác, việc sử dụng, phân bổ, trọng dụng và thu hút nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý dựa trên cơ sở năng lực là động lực để người lao động phấn đấu, cống hiến và lên trong quá trình lao động. Khi mà cơ hội thăng tiến rộng mở trên tiêu chí phẩm chất đạo đức và tài năng thực sự của bản thân người lao động là nền móng bền vững để người lao động phát huy tối đa sự sáng tạo trong công việc, là bệ phóng để họ khẳng định tài năng và chuyên tâm lao động, sản xuất cống hiến cho xã hội. Bên cạnh đó, chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội và các chính sách an sinh xã hội phù hợp sẽ là động lực thôi thúc tinh thần sáng tạo, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, hay say lao động sản xuất của nguồn nhân lực. Nghiên cứu sẽ tiến hành phân tích vai trò của các yếu tố sau trong chương tiếp theo. 14 CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con người. Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt, đối với nước có nền kinh tế đang phát triển, dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác nó, đặc biệt là về chất lượng sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển. Vốn con người (Human capital) được xác định là tài sản của mỗi quốc gia. Ngày nay nguồn vốn này giữ vai trò rất lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia và là nguồn lực quyết định tới tính bền vững sự tăng trưởng kinh tế. Vốn con người là vốn vô hình gắn với con người và thể hiện qua kết quả và hiệu quả làm việc trong quá trình sản xuất. Vốn con người hình thành và tích luỹ nhờ sức khỏe, và quan trọng hơn hết chính là giáo dục đào tạo và từng trải trong cuộc sống lao động. OECD (2001) định nghĩa nguồn vốn nhân lực là “kiến thức, kỹ năng, năng lực và những thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân, góp phần tạo nên sự thịnh vượng kinh tế, xã hội và của bản thân người ấy” Theo đó, định nghĩa này bao hàm sức khoẻ của con người vì nếu không có nó thì các cá nhân không thể sống viên mãn để cống hiến với những phẩm chất mà họ có. Sức khỏe là quý giá nhất đối với con người, do vậy để huy động nguồn lực làm các công tác xã hội nhằm đem lại sự phát triển kinh tế cũng như xã hội đều cần những con người có sức khỏe. Học tập, làm việc đều cần có sức khỏe. Vì thế sức khỏe là điều kiện tối cần thiết để có thể làm các công việc đóng góp vào sự phát triển của đất nước cũng như nâng tầm vóc con người, tầm vóc dân tộc. Những ảnh hưởng của sức khỏe vào hoạt động kinh tế thường được thảo luận ở cấp vi mô và vĩ mô trong các tài liệu. Sức khoẻ tốt là một điều kiện cần thiết để đi học, sinh viên khỏe mạnh, trái ngược với các đối tượng có sức khỏe yếu hơn có chức năng nhận thức thấp hơn, và do đó nhận được một nền giáo dục tốt hơn cho một mức độ nhất định đi học, đảm bảo tăng thu nhập trên một thời gian dài. Sức khỏe tốt tăng cường năng suất thông qua 15 những tác động lan tỏa về khả năng thể chất và tinh thần của họ. Tất cả những điều khác là như nhau, nó được giả định rằng người lao động khỏe mạnh làm việc chăm chỉ hơn và lâu hơn và lý do rõ ràng hơn những người kém năng khiếu với sức khỏe tốt. Sức khỏe tốt cũng có thể giảm thiểu tỷ lệ đói nghèo thông qua lao động cao hơn tham gia và giảm chi phí dịch vụ y tế, do đó giải phóng thu nhập cho việc tăng cường cải thiện phúc lợi xã hội. Hơn nữa xã hội cũng sẽ ít tốn kém hơn để chi trả chi phí cho những người này. Tuy nhiên tuổi thọ có tác động tức thời lên tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy, việc nâng cao tuổi thọ sẽ trực tiếp tác động ngay lên tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên tuổi thọ có tác động ngược chiều lên tăng trưởng GDP cho thấy nếu việc phát triển kinh tế không tương xứng với lượng lao động thì tuổi thọ nâng cao cũng sẽ là một sức ép lên nền kinh tế khi mà tỷ lệ người phụ thuộc cũng từ đó mà tăng cao. Khoẻ là một chuyện nhưng ở giai đoạn công nghiệp hoá, với dây chuyền sản xuất hiện đại, nhân công cần có kiến thức để hiểu việc mình đang làm, để có thể vận hành máy móc, hoặc để khắc phục sự cố nơi công xưởng. Thậm chí trong tương lai, khi tất đều được thay thế bằng robot thì người ta vẫn cần những cái đầu vĩ đại để tạo ra những con robot tốt hơn nhằm tăng gia sản xuất. Theo kết quả của một cuộc điều tra thu được cho thấy một trong những tiêu chí đánh giá đến chất lượng vốn nhân lực là trình độ văn hóa và kiến thức cơ bản. Con người nếu chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học, tức là có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên tòa sen, không làm điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì giúp ích cho đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ. Sự yếu kém về trí tuệ sẽ là lực cản dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người. Năng lực trí tuệ của con người hiện nay biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được những kỹ thuật – công nghệ hiện đại và khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo và chuyên môn nghề nghiệp. Nhưng để phát triển trình độ văn hóa, tay nghề, trình độ kỹ thuật, cách đơn giản 16 nhất là thông qua giáo dục, giáo dục mang lại cho mỗi cá nhân ở một trình độ nhất định việc làm và thu nhập. Người có học vấn cao có cơ hội tìm việc làm tốt hơn và ít gặp nguy cơ thất nghiệp. Từ đó sẽ kéo theo sự phát triển của đất nước. Các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế từ lâu đã nhận thấy rằng vốn con người đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và giáo dục chính là cách thức cơ bản để tích lũy vốn con người. Pigou đã dành cả cuộc đời nghiên cứu về vốn nhân lực và tìm hiểu vấn đề: có hay không một mối quan hệ có ý nghĩa giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế và các nền kinh tế có nên đầu tư vào giáo dục hay không? Khi cuộc cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi mà nền kinh tế thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ càng được thừa nhận vai trò trung tâm trong quá trình phát triến. Vai trò của người lao động được. Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu vào trực tiếp của quá trình sản xuất, nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa học - kĩ thuật thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao hơn. Người lao động cần được trang bị kỹ năng lao động, sự hiểu biết, trình độ về khoa học công nghệ,… đó là điều kiện thiết yếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển công nghệ tiên tiến. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quá trình kinh tế – xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa con người với công nghệ tiên tiến sẽ là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ bản và bền vững của sự tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu có về vật chất, suy cho cùng, không ngoài mục đích đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sống của bản thân con người. Vậy con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế. Đầu tư cho phát triển nguồn lực hay chính là đầu tư cho giáo dục con 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan