Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vai trò của viện kiểm sát đối với việc bảo vệ quyền của bị can trong kiểm sát đi...

Tài liệu Vai trò của viện kiểm sát đối với việc bảo vệ quyền của bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn viện kiểm sát nhận dân huyện tứ kỳ, tỉnh hải dương​

.PDF
105
24
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T §èI VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CñA BÞ CAN TRONG KIÓM S¸T §IÒU TRA Vô ¸N H×NH Sù, Tõ THùC TIÔN VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N HUYÖN Tø Kú, TØNH H¶I D¦¥NG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T §èI VíI VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CñA BÞ CAN TRONG KIÓM S¸T §IÒU TRA Vô ¸N H×NH Sù, Tõ THùC TIÔN VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N HUYÖN Tø Kú, TØNH H¶I D¦¥NG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380101.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Nguyễn Thị Thanh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: BẢO VỆ QUYỀN CỦA BỊ CAN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 8 1.1. Pháp luật tố tụng Việt Nam quy định quyền kiểm sát điều tra hình sự của Viện kiểm sát................................................................... 8 1.1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ........... 8 1.1.2. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ................................................................................................. 16 1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................ 22 1.2.1. Các quyền của bị can trong giai đoạn điều tra .................................... 22 1.2.2. Các chủ thể bảo vệ quyền bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................................................................. 26 1.2.3. Các quy định về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................................... 29 Chương 2: THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ....................... 40 2.1. Huyện Tứ Kỳ và cơ cấu của Viện kiểm sát Tứ Kỳ ........................ 40 2.2. Hoạt động bảo vệ quyền của bị can trong gia đoạn điều tra vụ án hình sự ........................................................................................... 41 2.2.1. Thực trạng bảo vệ quyền con người của bị can, trong giai đoạn kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ năm 2015 - 2019 .................... 41 2.2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của BLTTHS về bảo vệ quyền của bị can, bị cáo trong một số trường hợp cụ thể ....................................... 43 2.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền con người chưa được bảo vệ tốt nhất trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............... 53 2.3. Những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự ...................... 66 2.3.1. Những yêu cầu về cải cách tư pháp và quan điểm đảm bảo quyền của bị can trong giai đoạn điều tra tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay ................................................................................... 66 2.3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng đảm bảo quyền của bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự .................................................. 74 2.3.3. Những đề xuất, kiến nghị khác ........................................................... 81 KẾT LUẬN .................................................................................................... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CAND: Công an nhân dân CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CQĐT: Cơ quan điều tra CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV: Điều tra viên HĐND: Hội đồng nhân dân KSV: Kiểm sát viên LS: Luật sư NBC: Người bào chữa NTGTT: Người tham gia tố tụng NTHTT: Người tiến hành tố tụng TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân nhân XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Tình hình bắt tạm giữ 50 Bảng 2.2 Bị can bị khởi tố và bắt tạm giam 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo vệ quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà nước là những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2030” khẳng định: Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đánh dấu có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [4]. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người [21]. Hoạt động Tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan rất chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động Tố tụng hình sự là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất. Vì vậy là nơi 1 quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo, bị hại và người làm chứng có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo vệ quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể bị can, bị cáo, bị hại và người làm chứng trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo vệ quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt các chủ thể là bị can, bị cáo, bị hại và người làm chứng ... trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định của tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do hay một số biện pháp liên quan, ảnh hưởng đến quyền con người. Nếu giai đoạn điều tra thực hiện đúng pháp luật, sẽ bảo vệ được quyền con người, còn nếu giai đoạn này 2 có bất kỳ sai lầm nào thì nhiều hay ít sẽ dẫn tới hệ quả tiêu cực xâm phạm đến quyền con người. Thực tiễn những năm qua ở Việt Nam cho thấy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cơ bản đã bảo vệ quyền con người; tuy vậy, còn xảy ra hành vi xâm phạm đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với công dân... Thực tiễn này đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự gồm có như: Sách “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và Tố tụng hình sự ở Việt Nam”, Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004; Sách “Bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội”, Phạm Hồng Hải, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004; Sách “Bảo vệ An ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”, Lê Cảm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007; Sách “Quyền con người trong quản lý tư pháp”, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người và hội luật sư quốc tế, Nxb Công an nhân dân, 2009. Cùng với đó là các luận án như: Luận án Tiến sỹ luật học: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự", Hoàng Thị Sơn, trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Luận án tiến sĩ luật học “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Nguyễn Huy Hoàng, 2005; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự Việt Nam", Nguyễn Quang Hiền, Viện 3 Nhà nước và pháp luật – Viện khoa học xã hội Việt Nam, 2008; Luận án tiến sĩ luật học "Thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam", Nguyễn Đức Phúc, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong Tố tụng hình sự Việt Nam", Lê Nguyên Thanh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam", Lại Văn Trình, 2011; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tố tụng hình sự ở Việt Nam", Lê Minh Thắng, Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - so sánh giữa luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ", Lương Thị Mỹ Quỳnh, 2011; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay", Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam", Trần Hưng Bình, Viện Khoa học xã hội, 2013. Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự như: Đề tài khoa học cấp đại học Quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS,TSKH. Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013; Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác 4 giả Hoàng Thị Sơn, bảo vệ tại đại học Luật Hà Nội, 2003; Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, bảo vệ tại đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2011. Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực quyền của bị can trong giai đoạn điều tra, nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con người, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể về quyền con người, về tổ chức và hoạt động của các bộ máy Nhà nước, về việc xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền con người nói chung. Trong đó, chỉ có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về quyền con người trong hoạt động tư pháp. Những nghiên cứu về quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta hiện nay chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và trực tiếp về cả lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của bị can, người bị tạm giữ, tạm giam và bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự; - Phân tích các quy định của ngành luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền của bị can, người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của bất cập trong thực tiễn thi hành tại Công an tỉnh Hải Dương. 5 - Tham khảo kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; - Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nhằm nâng cao việc bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận quyền của bị can và bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn như sau: - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta; - Phạm vi không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực tiễn bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại cơ quan công an tỉnh Hải Dương - Phạm vi thời gian: tình hình và số liệu thống kê liên quan đến quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở tỉnh Hải Dương từ năm 2015 năm 2019. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về 6 bảo vệ quyền con người. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự, tố tụng hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, khảo sát, thực tiễn... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta hiện nay; do đó kết quả rút ra qua nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn; cụ thể là: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền của bị can trong trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Đồng thời luận văn cùng góp phần nâng cao kiến thức và hiểu biết về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và các công cụ pháp lý để bảo vệ quyền của họ; góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử với bị can, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 02 chương: Chương 1: Bảo vệ quyền của bị can của Viện Kiểm sát trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền của bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ. 7 Chương 1 BẢO VỆ QUYỀN CỦA BỊ CAN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Pháp luật tố tụng Việt Nam quy định quyền kiểm sát điều tra hình sự của Viện kiểm sát 1.1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra 1.1.1.1. Khái niệm, các thuộc tính của quyền con người Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cáo nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản họ là con người. Do đó, các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp tầng lớp, tổ chức cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ quyền người bẩm sinh. Thừa nhận điều đó, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em” [16, Điều 1]. Văn phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) đã định nghĩa quyền con người như sau: “Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động ho c sự b m c mà làm t n hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơobản của con người”. Như vậy, quyền con người chỉ hiện hữu trên thực tế nếu nó được đảm bảo bằng pháp luật. Pháp luật đảm bảo quyền con người cần thể hiện những thuộc tính cơ bản của quyền con người như: - Tính phổ quát (universal): Tính phổ quát của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con người là bẩm sinh, vốn có của con người được áp dụng bình đẳng cho tất cả con người trên trái đất, không có sự phân biệt đối xử vì 8 bất cứ lý do gì, chẳng hạn về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Điều đó cũng có ý nghĩa quyền con người cần được tôn trọng, bảo vệ và thực thi ở các quốc gia, với các chế độ chính trị khác nhau, dù đơn đảng hay đa đảng, dù nhất nguyên hay đa nguyên là như nhau. (Ví dụ: Các quốc gia trên thế giới đều phải thực thi nghiêm túc quyền không bị tra tấn). Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành viên của nhân loại để được công nhận có quyền con người, song mức độ hưởng thụ quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa... mà người đó đang sinh sống. - Tính không thể bị tước bỏ (inalienable): Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. Trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người, chẳng hạn như khi một người phạm tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật (bị tạm giữ, tạm giam, bị giam thi hành án). Ở trường hợp khác không quy định trước như trong trường hợp khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc gia và đã chính thức công bố, nhà nước có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền con người như ban bố tình trạng khẩn cấp, thiết quân luật (hạn chế quyền tự do đi lại, quyền biểu tình). Tuy nhiên các biện pháp này phải mang tính chất ngoại lệ và tạm thời. - Tính không thể phân chia (indivisible): Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, các quyền dân sự - chính trị luôn được các nước phương Tây đề cao và coi trọng trong khi khối các nước xã hội chủ nghĩa, các quyền Kinh tế - văn 9 hóa - xã hội lại được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Tính không thể phân chia của quyền con người thể hiện ở chỗ các quyền con người có tầm quan trọng như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào để tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định dựa trên yêu cầu thực tế của việc bảo vệ các quyền đó. Ví dụ, trong hoàn cảnh thiên tai lũ lụt, quyền được ưu tiên là quyền cung cấp lương thực, thực phẩm. - Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của các quyền thể hiện ở chỗ việc bảo vệ các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo vệ một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo vệ các quyền khác. Theo lĩnh vực của đời sống thì quyền con người được phân thành hai nhóm chính: - Nh m các quyền dân sự, chính trị: Bao gồm các quyền và tự do cá nhân, tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do đi lại, quyền hội họp, quyền tự do tôn giáo, quyền được xét xử công bằng. - Nh m các quyền về kinh tế, xã hội và văn h a: Nhóm các quyền này hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Các quyền này bao gồm: quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục, quyền lao động, quyền học tập, các quyền về văn hoá, sáng tạo và hưởng thụ các thành tựu của khoa học kỹ thuật 10 … Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là: Nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải kiềm chế không can thiệp không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người. Đây được gọi là nghĩa vụ thụ động bởi lẽ nó không đòi hỏi nhà nước phải chủ động đưa ra các biện pháp hay sự hỗ trợ để các công dân có thể hưởng thụ quyền. Nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Nghĩa vụ này đòi hỏi cáconhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba. Đây được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền của bên thứ ba, nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm như xây dựng phápoluật, tổ chức các cơ quan hành pháp, tư pháp. o Nghĩa vụ thực hiện (obligationoto fulfil): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các quyền con người. Đây cũng là nghĩa vụ chủ động, yêu cầu nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo vệ mọi công dân có thể hưởng thụ đến mức cao nhất các quyền con người như xây dựng chương trình phổ cập giáo dục, chương trình y tế, chương trình phát triển kinh tế. Nghĩa vụ này liên quan mật thiết các quyền kinh tế xã hội, văn hóa. Nhưng cũng có liên quan đến các quyền dân sự, chính trị như tổ chức các điểm bầu cử để thực hiện quyền bầu cử, xây dựng các nhà tạm giữ, trại tạm giam để đảm bảo việc không ngược đãi, tra tấn người bị tạm giữ, tạm giam, tù nhân. Để thực hiện các nghĩa vụ về nhân quyền, pháp luật là một công cụ hữu hiệu và chủ yếu của nhà nước. Là một phạm trù đa diện, xong quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người là bẩm sinh, vốn có song việc thực hiện các quyền 11 vẫn cần có nhà nước và pháp luật. Chỉ khi được ghi nhận bằng pháp luật, các nghĩa vụ của nhà nước sẽ trở thành quy tắc xử sự chung và được bảo vệ bằng cưỡng chế thi hành. Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cùng với quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt không thể thay thế trong việc bảo vệ quyền con người. Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Thông qua việc được pháp luật ghi nhận, quyền con người sẽ được tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy. Quyền con người được pháp luật xác lập sẽ không thể bị tước bỏ, hạn chế một cách tuỳ tiện vì được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con người, đều phải được xử lý nghiêm minh. Đồng thời, việc ghi nhận quyền con người trong pháp luật (đặc biệt trong Hiến pháp) cũng là cơ sở để xây dựng hệ thống hành pháp, tư pháp xoay quanh hạt nhân bảo vệ quyền con người. Bảo đảm quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì ngoài việc pháp điển hóa, đưa những nội dung bảo vệ quyền con người vào hệ thống pháp luật thì yếu tố rất quan trọng là phải có và phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý cho thực hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật. 12 Pháp luật TTHS có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các quy định pháp luật bảo vệ quyền con người, thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền con người thông qua việc “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”, hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Những định hướng trên được quán triệt và thể hiện ở tất cả các quy định của Bộ luật TTHS, tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người, điều chỉnh hoạt động của các CQTHTT, NTHTT, trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án, tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người. Quyền con người được quy định trong pháp luật TTHS bởi các lý do sau: Thứ nhất: Pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực TTHS; Thứ hai: Pháp luật TTHS quy định, định hướng, điều chỉnh, chi phối trách nhiệm, hoạt động của CQTHTT, NTHTT trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trong khi tiến hành tố tụng. Hoạt động, hành vi tố tụng của các CQTHTT, NTHTT là những hoạt động dễ xâm phạm đến quyền con người nhất bởi các chủ thể này đại diện cho Nhà nước, được Nhà nước trao quyền, trao biện pháp và sức mạnh cưỡng chế. Do đặc thù của hoạt động này, Nhà nước phải quy định cơ chế đảm bảo tính độc lập, tự chủ của CQTHTT, NTHTT. Các chủ thể này cũng luôn phải duy trì, thể hiện tính độc lập, chủ động khi tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng, trong đó có việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế hình sự, trực tiếp tác động, hạn chế, tước đoạt một hoặc một số quyền con người. Nói cách khác, CQTHTT, NTHTT 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan