Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị đối với việc hình thành thế...

Tài liệu Vai trò của việc giảng dạy các môn lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên cao đẳng sư phạm nam định

.PDF
84
23
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LONG Vai trß cña viÖc gi¶ng d¹y c¸c m«n lý luËn chÝnh trÞ ®èi víi viÖc h×nh thµnh thÕ giíi quan khoa häc cho sinh viªn cao ®¼ng s- ph¹m nam ®Þnh Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60 22 80 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG MINH ĐỨC HÀ NỘI – 2010 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[7, tr.126]. Đến Đại hội X Đảng ta đã khẳng định: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [11, tr.70]. Trên tinh thần đó cách mạng của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt là sứ mệnh của thế hệ trẻ. Đại hội X Đảng ta còn chỉ rõ:"Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam" [11, tr.106]. Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, công tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất là việc giáo dục thế giới quan khoa học đối với thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng nhất là sinh viên sư phạm – những thầy giáo, cô giáo tương lai - những người lao động có trình độ cao, đây là nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Vì vậy, sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ thế giới quan khoa học, những kiến thức về mục tiêu, con đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên sư phạm hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, Trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới; trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, đối tượng chúng hướng tới là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong xã hội. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên còn tình trạng suy thoái đạo đức, sống thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Đó là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của giáo dục, như Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (Khóa IX) đã chỉ ra:"Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo dục toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở bậc đại học, cao đẳng" [9, tr.40-41]. Tình hình giáo dục thế giới quan khoa học trong trường CĐSP Nam Định không nằm ngoài cái chung đó. Bên cạnh đó việc tích hợp ba môn (triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) thành một môn (những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin) đã có những khó khăn nhất định cho người dạy và người học (giảng viên trước đây thường chỉ dạy một môn giờ phải dạy tất cả, chương trình thì mới, nên đòi hỏi phải có một phông kiến thức rộng, phải truyền thụ hết nội dung chương trình mà thời gian thì rút ngắn lại. Đối với sinh viên, đòi hỏi có những vấn đề phải tự nghiên cứu, mà có những vấn đề mới rất khó). Vì những lẽ trên đây, tôi chọn đề tài: "Vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định” 2. Tình hình nghiên cứu Công tác nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học ở các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho nên trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều bài viết xung quanh vấn đề này ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau. Ở nước ngoài có một số công trình tiêu biểu như: - Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác Lênin". Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3. - V.I.L Vaxilenco, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa". Bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975. Ở trong nước có một số công trình đáng chú ý như: - Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử". tạp chí thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8. - Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác Lênin ở các trường đại học hiện nay. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7 – 2000. - Hồ Tấn Phong: "Nên giảng dạy các môn lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin như thế nào", Tạp chí cộng sản, tháng 9 năm 1994. - Lương Minh Cừ:"Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay". Tạp chí giáo dục số 60 tháng 6 năm 2003. - Lương Gia Ban: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận". Tạp trí triết học, tháng 1 năm 2004. - Lê Bình:"Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị" Lý luận chính trị số 3 – 2004. - Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta ", Tạp chí cộng sản, 1986, số 6. - Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết học 1988, số 3. - Trần Trọng Tân: "Góp phần đổi mới công tác lý luận cơ bản", NXB CTQG, HN, 1995. - Hoàng Thúc Lân, Giảng dạy triết học Mác – Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học. Luận văn thạc sĩ triết học, 2003. - Phạm Đình Đạt, "Vai trò lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, 1993. - Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. - Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002. Tất cả các công trình trên đã có đóng góp to lớn trong việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp nó còn có những khoảng trống cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt vấn đề vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay chưa được nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói chung, sinh viên nói riêng, vai trò của của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị với việc hình thành thế giới quan khoa học; chỉ ra thực trạng và quy trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị cho sinh viên CĐSP Nam Định, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ: + Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng; luận giải tầm quan trọng của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định. + Làm rõ thực trạng và quy trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học của sinh viên CĐSP Nam Định. + Đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của việc gỉang dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị (môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin) đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên ở trường CĐSP Nam Định hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Các quan điểm của Đảng ta về giáo dục – đào tạo và giáo dục lý luận Mác – Lênin cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay. + Luận văn tham khảo, kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đã được công bố. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic, khái quát hóa – trừu tượng hóa… đồng thời kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh… 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn nêu lên tầm quan trọng của giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc giáo dục thế giới quan khoa học, thực trạng và một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác lý luận chính trị và giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương 6 tiết. Chương 1: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên Chương 2: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định - thực trạng và những vấn đề đặt ra Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định Chƣơng 1 GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO SINH VIÊN 1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói chung và sinh viên CĐSP nói riêng 1.1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con người 1.1.1.1 Thế giới quan khoa học Thế giới quan xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời nguyên thuỷ và cho tới nay nó có nhiều định nghĩa khác nhau. Song có thể nói, thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí của con người trong thế giới ấy. Trong thế giới quan, những yếu tố cảm xúc và trí tuệ, niềm tin và tri thức hoà quyện vào nhau. Rõ ràng, thế giới quan không tự nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Nó luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển cùng quá trình phát triển của thực tiễn xã hội. Do đó, Thế giới quan có những đặc điểm cơ bản sau: (1) Thế giới quan phát triển cùng với sự phát triển của con người và xã hội thông qua hoạt động của mình. (2) Thế giới quan luôn có mối quan hệ con người với thế giới. Sự hiểu biết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ định hướng và chỉ đạo hoạt động của con người phù hợp với hiện thực luôn luôn vận động và phát triển nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu và lợi ích của con người cũng như của xã hội. (3) Thế giới quan là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh hiện thực thông qua nhận thức, nhu cầu, lợi ích của cá nhân, của những tập đoàn người hay của toàn xã hội. (4) Thế giới quan phụ thuộc vào trình độ nhận thức, nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi nhóm người, mỗi tập đoàn người và của toàn xã hội. Do đó, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp có thể tồn tại nhiều thế giới quan khác nhau. Thế giới quan có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi người, mỗi giai cấp, cộng đồng người và của cả loài người. Nó giúp con người định hướng đúng trong cuộc sống, xác lập được nhân sinh quan đúng đắn, tích cực. Trên cơ sở đó, con người xác định đúng thái độ, cách thức hoạt động và cách sống của riêng mình. Khi xác định đúng được mục tiêu, lý tưởng, hoài bão, ước mơ con người mới phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng, hoài bão, ước mơ đó. Thế giới quan còn giúp con người định hướng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đối với nhận thức, thế giới quan giúp con người xác định xem con người có khả năng nhận thức thế giới hay không. Trên cơ sở đó, con người mới tin vào sức mạnh nhận thức thế giới của mình hay không, mới có các giải pháp để nhận thức thế giới hiệu quả nhất. Đối với hoạt động thực tiễn thế giới quan giúp con người tự giác, chủ động xác định tính hướng đích trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, tránh được mò mẫm, tự phát, chệch hướng, vô định. Thế giới quan giúp con người xác định đúng mối quan hệ của bản thân với người khác trong xã hội. Trên cơ sở đó giúp con người điều chỉnh những quan hệ qua lại giữa người với nhau và hành vi của bản thân sao cho phù hợp với mục tiêu chung của xã hội và phù hợp quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Thế giới quan là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, niềm tin, lý trí và tình cảm. Tri thức là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn của con người, là sự phản ánh của thế giới khách quan của con người. Tri thức có nhiều loại khác nhau, trong đó có tri thức về tự nhiên, về xã hội và về con người. Sự hình thành và phát triển tri thức là một quá trình, thông qua toàn bộ hoạt động sống của con người. Tri thức có thể được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa trở thành thế giới quan. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khoa học khi nó chuyển thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng cho hoạt động của con người. Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người. Niềm tin có thể chia làm hai loại: (1) niềm tin mù quáng. (2) niềm tin khoa học. Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị lực phi thường, có thể vượt qua những giây phút hiểm nguy, giám hy sinh tính mạng vì mục tiêu lý tưởng mà mình đã theo đuổi. Thế giới quan thể hiện trí tuệ của con người, thể hiện trình độ tương đối cao của lý trí, bởi vì lý trí dựa trên cơ sở hiểu biết của con người với tư cách là một chỉnh thể và sự thống nhất những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ trong hoạt động của con người. Lý trí của con người là sự thống nhất chặt chẽ giữa niềm tin và tri thức. Lý trí không tách rời tình cảm mà gắn bó khăng khít, mật thiết tình cảm. Tình cảm là hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ của con người về thế giới và quan hệ của con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về những tác động của thế giới đối với bản thân. Vì vậy, tình cảm góp phần củng cố lý trí, làm cho lý trí có thêm sức mạnh. Như vậy, từng yếu tố đơn lẻ trên không phải là thế giới quan. Thế giới quan cũng không phải là số cộng giản đơn của các yếu tố đó. Trong thế giới quan có sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa tri thức, niềm tin, lý trí và tình cảm, là sự thể hiện toàn bộ sự hiểu biết và kinh nghiệm sống, hoạt động của con người. Thế giới quan sử dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận của mình được gọi là thế giới quan Mácxit hay thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Thế giới quan đó còn được gọi là thế giới quan khoa học, bởi vì nó phản ánh đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người dựa trên cơ sở của các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thế giới quan cũng phát triển và đã được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó rõ rệt nhất đã trải qua ba hình thức sau: Một là, thế giới quan huyền thoại. Xuất hiện trong buổi bình minh của lịch sử loài người. Đó là sự cảm nhận thế giới rất đặc trưng của người nguyên thuỷ. Nó phản ánh những quan niệm của người nguyên thuỷ về thế giới. Mỗi dân tộc có những huyền thoại để giải thích về nguồn gốc dân tộc mình; nguồn gốc của những hiện tượng tự nhiên như trái đất, bầu trời, sấm, sét, mây mưa, nhật thực, nguyệt thực... Chẳng hạn như thần thoại Hy Lạp; huyền thoại về Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Lạc Long Quân, Âu Cơ của Việt Nam... Trong thế giới quan huyền thoại, các yếu tố thực và ảo (tưởng tượng), cảm xúc và trí tuệ, lý trí và niềm tin, cái người và cái thần hoà quyện vào nhau, chưa phân biệt rõ. Hai là, thế giới quan tôn giáo. Đó là hình thức phản ánh thế giới khách quan một cách hư ảo, là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Trong thế giới quan tôn giáo, niền tin tôn giáo đóng vai trò chi phối đối với lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần lấn át cái người. Mặc dù vậy, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh khát vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bất công, đau khổ, muốn vươn tới thế giới hạnh phúc, ấm no. Đồng thời, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh trình độ phát triển thế giới quan nhất định của con người. Ba là, thế giới quan triết học. Đó là hình thức phản ánh thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Nếu thế giới quan huyền thoại, yếu tố biểu tượng cảm tính giữ vai trò chi phối; trong thế giới quan tôn giáo yếu tố niềm tin giữ vai trò chủ đạo, thì trong thế quan triết học, yếu tố tư duy lý tính đóng vai trò chủ đạo. Thế giới quan triết học đã chứng minh những quan niệm của mình bằng những lập luận logic, bằng tư duy logic. Vấn đề cơ bản của thế giới quan khoa học cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học. Theo Ph.Ăngghen "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ tư duy với tồn tại". [18, tr.403]. Trên cơ sở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân biệt các hình thức thế giới quan triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn: Mặt thức nhất: Giữa tư duy và tồn tại, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thức hai: Tư duy của con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Trả lời cho hai câu hỏi này sẽ quyết định tới việc hình thành thế giới quan triết học cũng như các học thuyết về nhận thức khác nhau. Giải quyết mặt thức nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân định các trường phái triết học. Có hai trường phái lớn. Những ai cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những ai cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm. Thế giới quan triết học cũng phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy, trong xã hội có giai cấp, thế giới quan triết học cũng mang tính giai cấp. Triết học được coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi lẽ, thông qua thế giới quan triết học mà những quan niệm về kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức... được thể hiện. Hơn nữa, triết học còn đóng vai trò định hướng cho sự củng cố, phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, cộng đồng trong lịch sử. Như chúng ta đã rõ, thế giới quan triết học duy vật đã trải qua ba loại hình lịch sử phát triển của mình: Một là, thế giới quan triết học thô sơ, mộc mạc thời kỳ cổ đại. Nó thể hiện những quan điểm duy vật mộc mạc, chất phát, giản đơn về thế giới. Những quan niệm này chưa được khái quát, thể hiện thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng về cơ bản là đúng vì nó lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế. Hai là, thế giới quan triết học duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Do đó, đặc trưng của thế giới quan triết học này là có quan niệm duy vật siêu hình, máy móc về thế giới. Theo thế quan duy vật siêu hình này, mọi bộ phận, mọi yếu tố, mọi quá trình trong thế giới (cả tự nhiên và xã hội) không có mối liên hệ tác động lẫn nhau, nếu có chỉ là ngẫu nhiên. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời kỳ phục hưng. Ba là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của thế giới quan duy vật, khoa học. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng sau đó được V.I.Lênin phát triển. Do tiếp thu được toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, lại được hậu thuẫn bởi những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, nên thế giới quan triết học duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của thế giới quan triết học duy vật thô sơ, mộc mạc; thế giới quan triết học duy vật siêu hình. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng (gọi tắt là thế giới quan khoa học) không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực. 1.1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay Sinh viên CĐSP Nam Định là con em của mọi tầng lớp nhân dân sống ở tỉnh Nam Định về học tập ở trên địa bàn thành phố Nam Định, do đó điều kiện kinh tế xã hội của thế giới cũng như của trong nước cùng những điều kiện đặc thù của tỉnh Nam Định đều tác động đến việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên. * Sự tác động của những điều kiện trong nước Trước hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, qua hơn hai mươi năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng về kinh tế và xã hội: "Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao... Văn hóa và xã hội có những tiến bộ trên nhiều mặt... Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới" [11, tr.14]. Những thành tựu này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, và nó là tiền đề trực tiếp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trạng thái chậm phát triển so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đời sống của một bộ phận nhân dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân căn bản là chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở nước ta đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và tác động đến cả quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên hiện nay. Phần lớn sinh viên Nam Định là con em của nhân dân ở khắp các vùng quê. Vì vậy, họ luôn luôn được kế thừa cả những yếu tố tích cực và hạn chế của người nông dân Việt Nam. Những yếu tố tích cực ví dụ như lòng yêu nước, tính cần cù chịu khó, dũng cảm, luôn được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Bên cạnh đó, những hạn chế của người nông dân như: đầu óc tư hữu, nếp nghĩ và tư duy thiển cận, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm ăn tủn mủn, tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục thế giới quan khoa học cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng. Thực tiễn xã hội loài người đã chứng minh con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh, nhưng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã viết:"Con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp nhất định" [19,tr.21]. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì tất cả những ưu và nhược điểm của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động tích cực là chủ yếu, song sự tác động tiêu cực cũng không nhỏ. Sự tác động tích cực được thể hiện như: góp phần phá vỡ tình trạng chia cắt, cục bộ, manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp gây ra. Đồng thời, khắc phục được tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác động quan trọng tới sự phát triển năng lực tư duy biện chứng của mỗi người đặc biệt là sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng. Bởi tư duy kinh nghiệm, siêu hình đã trở thành lực cản rất lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới của sinh viên. Cơ chế thị trường có những đòi hỏi khắt khe về thị trường lao động, về nguồn lực đó là những con người phải có trình độ học vấn cao, có năng lực chuyên môn vững chắc, năng động sáng tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống. Những đòi hỏi khắt khe của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến sinh viên, đòi hỏi sinh viên khắc phục được tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lười học tập, lười nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, sinh viên ngày nay đặc biệt là sinh viên sư phạm năng động hơn, thông minh hơn, dám tự khẳng định mình, dám đương đầu với những khó khăn bước đầu trên con đường lập nghiệp, thôi thúc sinh viên không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu những tri thức chuyên môn ngành nghề, mà còn ham muốn được học tập nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế của đất nước đã có những bước chuyển lớn. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa có những bước tiến bộ rõ rệt. Những thành tựu đó đã bước đầu tạo ra niềm tin của nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, sinh viên đã có niềm tin CNXH, họ gắn bó với lý tưởng cách mạng XHCN. Đa số sinh viên ngày nay nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều kiện để khắc phục những nhận thức lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin khi họ bị tác động của mặt trái cơ chế thị trường và sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới đã tạo điều kiện cho nhân dân trong đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế thừa những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học, kỹ thuật và văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng tích cực tới việc tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung. Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung là: (1) Trong cơ chế thị trường, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho nhiều người và cả sinh viên hiện nay nẩy sinh tư tưởng và lối sống thực dụng, sống vì tiền. Vì tiền và đề cao nhu cầu vật chất quá mức nên có người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cương, nhằm đạt được lợi ích cá nhân. (2) Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ đã xuất hiện một số biểu hiện không lành mạnh như mê tín dị đoan phát triển, thị hiếu bắt chước không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát triển; cũng như một số hoạt động về đời sống tâm linh, tôn giáo được đề cao quá mức ở một bộ phận nhân dân. Những hiện tượng tiêu cực đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên nói chung. Như vậy là từ điều kiện kinh tế - xã hội đến văn hóa đã và đang tác động cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực đối với quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay. * Sự tác động của điều kiện quốc tế Đứng trước tình hình thế giới đang có những biến đổi to lớn. Sự biến đổi đó đang tác động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Sự tác động đó có những mặt tích cực và cả những mặt hạn chế. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định "Những nét mới trong tình hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta, trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội và thách thức lớn" [7, tr.14]. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là do công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức. Nền văn minh của loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vì vậy, những nước phát triển hiện nay trên thế giới là những nước tư bản đã có một tiềm lực mạnh để tiếp tục phát triển kinh tế tri thức... Kinh tế tri thức đã và đang tạo ra tốc độ phát triển "chóng mặt"... Do đó, đời sống của người lao động được cải thiện. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản cũng phát triển gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh lớn về chính sách xã hội. Do đó, nhờ hệ thống thông tin mà mỗi chúng ta đều biết được đời sống vật chất và tinh thần của người lao động được cải thiện, những chính sách như trợ cấp thất nghiệp, công nhân được mua cổ phiếu, cổ phần... đã tạo ra một vỏ bọc, để mỗi người có thể hiểu rằng CNTB ngày nay dường như nhân đạo hơn, dường như những thay đổi về chính sách xã hội đã điều chỉnh được mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Vì vậy, chính hiện tượng này, nhân dân chúng ta, đặc biệt là sinh viên sư phạm hiện nay nếu không được trang bị thế giới quan khoa học, không được giáo dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách khoa học sẽ dễ dàng hiểu rằng chế độ TBCN là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử loài người, rằng CNXH đã thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó, chúng ta phải nhận thấy trong kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế. Mà toàn cầu hóa kinh tế từ thực tiễn ngày nay nhiều nhà khoa học về kinh tế và xã hội đã khái quát hóa và đưa ra nhận định giống nhau đó là:"Toàn cầu hóa có tác động tích cực, tiêu cực, sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong mỗi quốc gia và trên thế giới". Trong Đại hội lần thứ 14 hiệp hội các hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội châu Á tổ chức tại Việt Nam, đồng chí Phạm Đức Thành - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã khẳng định:"Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh" [35, tr.140]. Tất cả những tác động tích cực của toàn cầu hóa đó chính là tạo cơ hội lớn cho từng quốc gia thu hút các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, tiếp thu kinh nghiệm, tạo cơ hội mở rộng thị trường. Toàn cầu hóa còn góp phần làm cho sự tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hiện đại hóa của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, mặc dù chúng ta chưa chịu tác động trực tiếp của toàn cầu hóa như nhiều nước trên thế giới, nhưng chính đường lối mở cửa hội nhập của nước ta được thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hóa nên mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa cũng tác động đến Việt Nam. Đặc biệt là tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa - xã hội ở nước ta. Sự tác động đó có cả mặt tích cực và tiêu cực diễn ra vô cùng phức tạp. Bởi vì ngày nay nước ta đang trong nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Đó là một nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, do đó làm cho tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đối với nước ta còn nguy hại hơn nhiều. Chúng ta vốn đang sống trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mọi giá trị truyền thống được bảo tồn, giữ gìn nay bước vào kinh tế thị trường trong xu thế toàn cầu hóa, mọi giá trị và các tiêu chuẩn văn hóa đang đứng trước nguy cơ bị đồng nhất với văn hóa đại chúng, thế hệ trẻ Việt Nam dễ bị chuyển từ cực nọ sang cực kia, dễ rơi vào tâm lý sùng ngoại, chạy theo thị hiếu văn hóa kiểu phương Tây. Đây là những giá trị xa lạ với dân tộc ta, coi nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống. Họ dễ bị rơi vào những quan niệm sống tự do cá nhân, cực đoan, thái độ vô trách nhiệm với gia đình và xã hội, dễ bị nhũng nhiễu bởi hành vi bạo lực, dâm ô, trụy lạc, mê tín dị đoan lôi cuốn và những mặt tiêu cực trên không thể không tác động đến sinh viên CĐSP Nam Định. Như vậy, nó sẽ gây cản trở không nhỏ đến mục tiêu giáo dục - đào tạo ở tỉnh Nam Định, như Bác chỉ ra "giáo dục ra những con người vừa hồng, vừa chuyên" đó là những con người có phẩm chất đạo đức chính trị và lối sống tiến bộ, đó là những con người biết sống mình vì mọi người, đó là những con người gắn bó thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là những con người có trình độ chuyên môn tốt và có năng lực thực hành thành thạo công việc của mình. Cùng với điều kiện kinh tế - xã hội trên thế giới thì tình hình chính trị trên thế giới cũng tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học. Sự tác động trực tiếp đáng kể nhất đó chính là sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự phá hoại của kẻ thù đối với CNXH thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình". Các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô trước đây đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự. Họ đã từng là chỗ dựa vững chắc cho phong trào hòa bình và cách mạng trên thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do họ duy trì quá lâu những khuyết điểm của mô hình CNXH cũ, đó là sự chậm trễ trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là do sai lầm về đường lối lãnh đạo. Vì vậy, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, cả về kinh tế, chính trị, xã hội và kết cục là hệ thống XHCN đã tan rã. Từ đó, phong trào cách mạng của các nước XHCN lâm vào thoái trào. Cục diện thế giới có sự thay đổi mà thế mạnh nghiêng về CNĐQ. Tình hình này đã làm cho các nước XHCN còn lại và các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới đã và đang đứng trước nhiều khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong thực tiễn cách mạng hiện nay, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân tộc và tiến bộ xã hội vẫn tồn tại, lý tưởng XHCN vẫn không mất đi, CNĐQ vẫn không thực hiện được âm mưu tiêu diệt hết các lực lượng XHCN. Nhưng dù sao, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã và đang có những tác động tới phong trào XHCN và phong trào công nhân ở các nước tư bản. Đối với nước ta, sự tác động đó diễn ra trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, lý luận... Đặc biệt là thế hệ trẻ trước những thay đổi lớn lao của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới cũng như trong nước họ dễ bị dao động về thế giới quan, bởi vì thế giới quan của họ đang trong quá trình hình thành và phát triển. Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, CNĐQ và các thế lực phản động quốc tế đã ra sức tấn công vào chế độ XHCN nhằm xóa bỏ những nước XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một mục tiêu quan trọng của chúng để phá hoại, từ đó đi đến thực hiện xóa bỏ hoàn toàn CNXH trên phạm vi thế giới. Các thế lực thù địch đã đẩy mạnh chống phá thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ. Kẻ thù đã chống phá chúng ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với những âm mưu thủ đoạn ngày càng thâm độc, xảo quyệt. Đây là một cuộc chiến không có biên giới, không có vũ khí song hậu quả lại vô cùng nặng nề. Bởi lẽ, chúng tập trung chống phá ta về nền tảng tư tưởng và ý thức hệ, nhằm chuyển hóa tư tưởng và ý thức hệ của nhân dân Việt Nam mà đầu tiên là cán bộ, đảng viên, thanh niên, sinh viên. Đặc biệt là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng, chúng tìm mọi cách truyền bá văn hóa độc hại, gieo rắc lối sống tư sản, xa hoa, trụy lạc hòng làm xói mòn bản sắc văn hóa Việt Nam, dưới những hình thức và phương pháp tinh vi xảo quyệt. Như vậy, có thể khẳng định rằng, sự biến động lớn của tình hình kinh tế - xã hội và chính trị đang diễn ra trên thế giới đã và đang tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng, đặc biệt là sự tác động tiêu cực, nó chính là lực cản lớn nhất trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lối sống cho sinh viên hiện nay trong đó có việc giáo dục thế giới quan khoa học. * Cùng với sự tác động của điều kiện trong nước và quốc tế, sinh viên CĐSP Nam Định đã và đang chịu tác động trực tiếp của những điều kiện đặc thù của Nam Định. Nam định là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ ven biển, tiếp giáp với ba tỉnh, thành phố: Thái Bình ở phía bắc, Ninh Bình ở phía nam, Hà Nam ở phía tây bắc, biển vịnh Bắc Bộ ở phía đông, diện tích tự nhiên 1 637,4 km2, dân số khoảng 2 triệu người. Nam Định có 9 huyện, 1 thành phố thuộc tỉnh, 229 đơn vị hành chính cơ sở, trong đó: 195 xã, 20 phường, 14 thị trấn Nam Định là một tỉnh có nền văn hiến lâu dài nổi tiếng là đất học, các huyện duyên hải như: Hải Hậu, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng là những bãi bồi được thành lập sau còn các huyện khác và thành phố Nam Định đều có bề dày lịch sử rất phong phú. Cùng với kinh thành Thăng Long nơi đây còn được mở trường thi. Đây cũng là nơi khởi nghiệp của dòng họ Trần, dòng họ đã làm nên một triều đại rực rỡ trong lịch sử đấu trang dựng nước và giữ nước của dân tộc với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Đây cũng là nơi có nhiều danh nhân được sinh ra và lớn lên là quê hương của những vị trạng nổi tiếng như Lương Thế Vinh, Nguyễn Hiền, Đào Sư Tích... Tại Nam Định hàng năm có một số lễ hội lớn, như hội chợ Viềng ngày 8 tháng 1 âm lịch, lễ hội đề Trần tháng 8 âm lịch, lễ hội phủ Giầy tháng 3 âm lịch (tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ) thu hút đông đảo nhân dân từ nhiều miền đất nước đến tham quan. Ngoài ra, Nam Định còn có hai bãi tắm Quất Lâm và Thịnh Long, có khu bảo tồn thiên nhiên Vườn quốc gia Xuân Thuỷ - khu rừng ngập mặn, nơi di trú của nhiều loài chim quý trong sách đỏ, đây là những địa điểm du lịch mang lại lợi thế cho địa phương. Nhưng đây cũng là nơi dễ gây mất ổn định về trật tự an ninh và các tệ nạn xã hội (như mại dâm, ma tuý) đòi hỏi phải được sự quan tâm của các cấp chính quyền. Nắm bắt kịp thời tình hình, tỉnh Nam Định đã có sự điều chỉnh thích hợp để tiếp tục thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch (khu du lịch, điểm du lịch). Nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch, bảo đảm an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, nhất là các khu du lịch: Văn hoá Trần, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh, phủ Giày, vườn quốc gia Xuân Thuỷ, Quất Lâm, Thịnh Long. Phối hợp với các hiệp hội du lịch, các doanh nghiệp du lịch để kết nối các điểm du lịch của tỉnh vào các tour du lịch trong nước và quốc tế. Tăng cường hợp tác, xúc tiến quảng bá du lịch. Ngành giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định cũng có vị trí cao trong giáo dục đào tạo của cả nước, Nam Định hiện có 4 trường đại học, 5 trường cao đẳng và một số trường trung cấp dạy nghề, là nơi đào tạo nguồn nhân lực phong phú cho địa phương và cả nước. Tỉnh Nam Định ở vị trí đồng bằng nam sông Hồng, nơi ngã ba giao thông thuận tiện với Ninh Bình, Hà Nội, Thái Bình, Hải Phòng. Đường giao thông trong tỉnh có cả đường bộ, đường thuỷ, đường biển và đường sắt. Hiện nay khoảng 74% dân số Nam Định sinh sống bằng làm nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), là tỉnh có bình quân thu nhập đầu người trong năm thấp so với trung bình chung cả nước. Tuy nhiên, hiện nay ở Nam Định nghề phụ cũng rất phát triển. Các nghề tiểu thủ công nghiệp như mây tre đan xuất khẩu, thêu, gò hàn; làng nghề đúc đồng ở Ý Yên, trạm khắc gỗ La Xuyên, Vùng trồng hoa cây cảnh ở Nam Điền nổi tiếng trong cả nước không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động trên địa bàn. Ngoài ra các khu công nghiệp của Nam Định cũng thu hút nhiều nhà đầu tư, tạo việc làm cho nhân dân địa phương. Nam Định không phải là tỉnh miền núi song dân số trong tỉnh vẫn đa dân tộc (Kinh, Mường, Hoa). Nhiều địa phương trong tỉnh có tỷ lệ dân số theo đạo Thiên chúa cao (như huyện Hải Hậu, huyện Xuân Trường, huyện Giao Thuỷ, huyện Nghĩa Hưng, huyện Trực Ninh, huyện Nam trực... trong đó huyện Hải Hậu có khoảng 40% dân số theo đạo). Một số người lợi dụng phật giáo, giả là sư sãi đi lừa đảo tiền của nhân dân; hiện tượng đi tìm mộ của các nhà ngoại cảm trên địa bàn tỉnh; hiện tượng một số cán bộ cơ sở theo Thiên chúa giáo lợi dụng, lôi kéo giáo dân cản trở, chống lại chính quyền, các chính sách của nhà nước... Đặc biệt, hiện nay một số vấn đề mà người dân đang quan tâm và đặt ra câu hỏi liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vì sao tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với Nam Định còn chậm chạp, còn là khoảng cách xa so với các tỉnh cùng thời điểm chia tách hay so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng. Điều này có ảnh hưởng nhất định trong việc giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên. Số sinh viên theo đạo Thiên chúa ở trường CĐSP Nam Định chiếm một tỷ lệ tương đối cao khoảng 12% (xem phụ lục 1). Chịu ảnh hưởng bởi những biến động to lớn của thời đại và đất nước, Phật giáo tỉnh Nam Định ngày nay đang có xu hướng hồi sinh trở lại với những diễn biến phức tạp. Số lượng tăng ni, phật tử, chùa chiền, lễ hội ngày càng tăng. Cùng với nó là sự tăng lên của số lượng người đi chùa, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên và trí thức. Cụ thể là: Bảng 1.1 Tần suất đi lễ chùa (chùa Cả - Nam Định)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan