Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước...

Tài liệu Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước

.PDF
106
472
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NGỌC LIÊN VAI TRß CñA TßA ¸N TRONG KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NGỌC LIÊN VAI TRß CñA TßA ¸N TRONG KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Tạ Thị Ngọc Liên MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC ....................................................................................... 5 1.1. Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nƣớc..................................... 5 1.2. Các phƣơng thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc ............................ 8 1.2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài ........................................ 9 1.2.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong ...................................... 19 1.2.3. Tòa án – cửa ải cuối cùng để phòng chống sự tùy tiện của quyền lực nhà nước ....................................................................................... 32 Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 35 Chƣơng 2: NỘI DUNG CỦA PHƢƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC BẰNG TÒA ÁN ............................... 36 2.1. Bản tính độc lập – cơ sở để tòa án thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực nhà nƣớc .................................................................. 36 2.2. Hoạt động xét xử của tòa án đối với hành vi tùy tiện của các quan chức và cơ quan nhà nƣớc ..................................................... 39 2.2.1. Bảo hiến – chức năng của tòa án nhằm bảo vệ Hiến pháp ................ 39 2.2.2. Tài phán hành chính – biện pháp kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các cơ quan hành chính và cán bộ, công chức, viên chức.................. 48 2.3. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm – phƣơng thức tòa án tự kiểm soát chính mình ....................................................................... 51 Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 55 Chƣơng 3: TÒA ÁN VIỆT NAM TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TÒA ÁN TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC Ở NƢỚC TA ..................................... 56 3.1. Đánh giá hiệu quả của Tòa án Việt Nam trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nƣớc......................................................... 56 3.1.1. Thẩm quyền hạn chế của Tòa án trong hoạt động bảo hiến............... 56 3.1.2. Sự mờ nhạt trong hoạt động của Tòa án hành chính.............................. 60 3.1.3. Bất cập trong thẩm quyền và thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.......... 65 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống Tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nƣớc ở nƣớc ta ........................ 68 3.2.1. Làm rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp, nhằm tạo ra những cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của Tòa án ................................ 68 3.2.2. Cải cách bộ máy tòa án theo hướng trọng tâm là đảm bảo sự độc lập của tòa án trong hoạt động xét xử ................................................ 79 Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 95 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự TTHC : Tố tụng hành chính TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi chính quyền mới được thành lập, vấn đề được đặt ra là phải kiểm soát quyền lực của chính quyền sao cho nó không xâm phạm đến dân chúng, đồng thời để đảm bảo cho quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Đó chính là một nhu cầu tất yếu khách quan. Quyền lực nhà nước được chế ngự sẽ đảm bảo cho hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Xuất phát từ nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước đòi hỏi phải có những cơ chế kiềm chế chính thức giữ cho các cơ quan công quyền và các quan chức phải có trách nhiệm về hoạt động của họ. Trong nhà nước hiện đại và dân chủ cần phải kể đến vai trò của tòa án với vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, được ví như bức tường che chắn những xâm phạm tới Hiến pháp và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Ở Việt Nam, trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành đã ghi nhận những căn cứ pháp lý cho cơ chế giám sát của Tòa án đối với các cơ quan nhà nước, nhưng chưa thể hiện đầy đủ cơ chế kiểm soát quyền lực bằng cơ quan tư pháp theo đúng nghĩa của nó. Đặc biệt, ở nước ta Tòa án chưa được thực hiện chức năng tài phán Hiến pháp. Bên cạnh đó, thẩm quyền giải thích Hiến pháp vẫn thuộc về UBTVQH chứ không thuộc về Tòa án, hoạt động của Tòa án hành chính chưa hiệu quả, không đáp ứng được kì vọng của người dân trong giải quyết các tranh chấp hành chính. Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: “Vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực Nhà nước” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án ở nước ta, góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. 1 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đã được giới khoa học pháp lý tại Việt Nam nghiên cứu, trong đó có nhiều công trình, bài báo của các nhà nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài, trong đó đáng chú ý là một số giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo về kiểm soát quyền lực nhà nước như: “Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước” của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, NXB Tư pháp năm 2010; “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, nhũng vấn đề lý luận và thực tiễn” của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Hồng Đức, năm 2012; “Tài phán Hiến pháp – Một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam” do PGS.TS. Nguyễn Như Phát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 2011; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Như Phát, PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương (chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 2010; “Bảo hiế+n ở Việt Nam” của Th.s Bùi Ngọc Sơn, NXB Tư pháp, năm 2006. Bên cạnh các công trình khoa học được xuất bản dưới dạng sách tham khảo, còn có một số luận văn như: “Nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay” – luận văn thạc sĩ luật học của Trần Phụng Vương; “Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong thể chế nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” – luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Tám; “Chiến lược cải cách tư pháp với mục tiêu bảo vệ công lý ở Việt Nam” – luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thế Anh. Qua nghiên cứu các công trình đã công bố, tác giả nhận thấy các kết kết quả nghiên cứu rất công phu, có giá trị khoa học cao và là tiền đề quan trọng để tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta còn chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu. Về vấn đề 2 đánh giá hoạt động kiểm soát quyền lực của tòa án vẫn còn một số vấn đề chưa được nghiên cứu rõ như: đánh giá hoạt động của tòa án Việt Nam với tư cách là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Tòa án Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước… chưa được đề cập cụ thể. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích luận văn: + Làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vai trò của tòa án trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. + Đánh giá thực trạng của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của hệ thống TAND ở Việt Nam. + Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam * Nhiệm vụ của luận văn: Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những nhiệm vụ sau đây: + Lý giải tại sao quyền lực nhà nước phải bị hạn chế và bị kiểm soát bằng nhiều phương thức khác nhau, nêu lên các phương thức hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong đó làm nổi bật vai trò của tòa án, cách thức tòa án kiểm soát quyền lực nhà nước. + Từ những tiền đề lý luận trên, luận văn đánh giá hoạt động của hệ thống TAND trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, những hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam làm giảm hiệu quả của tòa án khi thực hiện vai trò này. + Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống TAND trong hoạt động chế ngự quyền lực nhà nước ở nước ta. 3 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật và thực tiễn về hoạt động kiểm soát quyền lực của TAND ở nước ta hiện nay. Qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của tòa án trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của TAND trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập tại các trường đại học, cao đẳng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận của kiểm soát quyền lực nhà nước. Chương 2. Nội dung của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước bằng Tòa án. Chương 3. Tòa án Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tòa án trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta. 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 1.1. Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nƣớc Khi nói đến nhà nước, chúng ta không thể tách rời vấn đề quyền lực của nhà nước. Phân tích bản chất của nhà nước, Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng: “Nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội”[5, tr.260]. Nhà nước được sinh ra do chính nhu cầu của con người, đại diện cho quyền lực công cộng xuất phát từ nhân dân. Tuy nhiên, nhà nước từ khi mới ra đời đã bị chi phối bởi giai cấp thống trị, và giai cấp này đã sử dụng nhà nước vừa thực hiện chức năng công quyền vừa làm lợi riêng cho chính mình. Để bảo vệ đặc quyền của mình, giai cấp thống trị đã thiết lập nên một bộ máy cưỡng chế bao gồm cảnh sát, quân đội, nhà tù… và bắt buộc công dân phải đóng các loại thuế để nuôi dưỡng bộ máy mà về thực chất phục vụ giai cấp thống trị, duy trì sự thống trị giai cấp và đàn áp chính những người nuôi dưỡng nó. Như vậy, khi nhà nước ra đời, quyền lực công cộng của toàn xã hội đã dần dần bị biến đổi, bị tha hóa và trở thành quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhân dân – chủ thể của quyền lực công đã không còn kiểm soát được chính nó và dần dần trở thành đối tượng bị bóc lột, bị đàn áp. Bên cạnh đó, một trong những đặc trưng cơ bản của quyền lực nhà nước, đó chính là tính độc quyền sử dụng sức mạnh vũ lực. Ngoài nhà nước, không một chủ thể nào được công khai trong việc sử dụng sức mạnh cưỡng chế. Không chỉ có vậy, quyền lực nhà nước lại dựa trên nguồn của cải vật chất và bộ máy cưỡng chế phục vụ nên nó trở nên nguy hiểm với lợi ích hợp pháp của dân chúng. Đó là lý do vì sao mà Thomas Jefferson (1743 – 1826), một trong những nhà soạn thảo ra Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ nói: “Nhân dân có hai kẻ địch là tội ác và chính quyền” [13]. Vì vậy, để đảm bảo nhân dân là chủ 5 thể của quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước cần phải được chế ngự nhằm loại trừ một nghịch lý là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng lại đe dọa chính nhân dân. Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nước? Bản thân quyền lực vốn không tốt, không xấu. Bởi vì, nó chỉ là công cụ, là phương tiện để quản lý xã hội. Công cụ này được sử dụng như thế nào sẽ phụ thuộc vào những người nắm trong tay quyền lực đó. Nếu như quyền lực nhà nước được thực hiện bởi những người có đức hạnh, tài năng và với mục đích vì nhân dân thì sự chế ngự quyền lực nhà nước là vô nghĩa. Madison - một trong những nhà khai sáng nên nước Mỹ đã nhận định: Chính phủ là gì nếu không phải là cái đã phản chiếu rõ ràng nhất bản tính loài người? Nếu con người là thần thánh thì loài người cần phải có Chính phủ để làm gì? Và nếu con người được thần thánh cai trị thì Chính phủ của loài người cũng chẳng cần phải có những khoản tiên liệu để Chính phủ kiểm soát dân chúng và Chính phủ tự mình kiểm soát lấy mình [12, tr.115]. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, chủ thể của quyền lực nhà nước là cá nhân, cho nên nhà nước phản ánh bản tính của con người. Con người ai cũng có cái tốt, cái xấu, không cá nhân nào là không có nhược điểm. Trong đó có những tính xấu như lười nhác, tham lam, tùy tiện và đặc biệt là đam mê quyền lực. Bởi vì, quyền lực là cái phục vụ cho con người, giúp họ thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Khi nắm trong tay quyền lực, con người sẽ dễ dàng có được những thứ mà họ muốn như của cải, danh vọng, sự tôn vinh của xã hội. Tuy nhiên, khi tập trung quá nhiều quyền lực vào một người hay một nhóm người sẽ dẫn đến một hệ quả xấu, đó chính là sự tha hóa quyền lực, mà biểu hiện trước tiên của nó là sự lạm dụng quyền lực. Trong cuốn “Thăng trầm quyền lực”, Alvin Toffler cho rằng: “Khi nói 6 đến quyền lực, trong tâm thức chúng ta không khỏi có ấn tượng xấu, vì nhân loại có khuynh hướng lạm dụng quyền lực” [2, tr.137]. Khuynh hướng lạm dụng quyền lực là khuynh hướng có tính phổ biến trong đời sống xã hội, và cũng là khuynh hướng mang tính lịch sử, vì nó tồn tại và đồng hành với lịch sử nhân loại. Thông thường, sự lạm dụng quyền lực thường không diễn ra khi người lãnh đạo mới nắm giữ quyền lực, mà diễn ra sau một khoảng thời gian quản lý nào đó. Điều đó có nghĩa là, lúc đầu cá nhân đó sẽ sử dụng quyền lực đúng với giới hạn mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên, khi vị trí quyền lực của mình được củng cố và khẳng định thì sự lạm dụng quyền lực mới bắt đầu. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, các triều đại phong kiến thường bắt đầu bằng các vị vua anh minh, chăm lo đời sống nhân dân và suy tàn bởi vì con cháu kế tiếp của họ trở nên lạm dụng quyền lực, thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng một cuộc sống xa hoa, xa rời trách nhiệm của mình đối với nhân dân. Nguyên nhân của sự lạm dụng quyền lực bắt nguồn từ chính bản tính đam mê quyền lực của con người. Khi có quyền lực trong tay, cá nhân dễ dàng sai khiến người khác làm mọi việc nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Họ ham muốn quyền lực chỉ để trán áp người khác và thủ lợi cho bản thân, cho gia đình và cho những kẻ dưới trướng của họ. Sự thực “lòng đam mê quyền lực và lòng đam mê danh vọng là những ước muốn vô hạn định của con người” [16, tr.137]. Chính quyền lực, một thứ tưởng chừng chỉ là công cụ để con người thỏa mãn nhu cầu của mình, lại chính là thứ sai khiến con người thực hiện những hành vi đi ngược lại chuẩn mực xã hội. Lịch sử đã cho thấy sự tàn bạo của chế độ độc tài và quyền lực nhà nước không bị hạn chế. Những bài học đắt giá của nhân loại càng chứng minh cho vấn đề quyền lực nhà nước cần phải được chế ngự, nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, việc thực hiện quyền lực nhà nước phải vì nhân dân. Như đã phân tích ở trên, bản thân sự lạm quyền có mối liên hệ chặt chẽ 7 với sự tùy tiện khi sử dụng quyền lực nhà nước của nhà cầm quyền. Mỗi cá nhân đều có bản tính tùy tiện và không có một sự đảm bảo chắc chắn rằng một cá nhân sẽ luôn luôn kiểm soát được tính tùy tiện của mình. Đặc biệt trong trường hợp có quyền lực trong tay, lý trí của nhà cầm quyền sẽ bị che lấp bởi của cải, dục vọng và lòng tham thì quyết định của họ càng dễ dàng phạm sai lầm. Bởi vậy, một nhà nước mà không có sự rõ ràng với những rào cản trong tổ chức quyền lực thì rất dễ bị thao túng bởi những nhà cầm quyền tùy tiện. Những người đứng đầu nhà nước sẽ có nhiều quyền lực, trong đó được quyền ra lệnh những người khác phải thực hiện theo ý mình. Tuy nhiên, khi quyết định của họ gây ra sai lầm thì họ phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Bởi vậy, con người thường có xu hướng trốn trách trách nhiệm. Sự trốn tránh trách nhiệm của nhà cầm quyền sẽ dẫn đến một chính quyền vô trách nhiệm. Thay vì sửa chữa sai lầm của mình, nhóm cai trị sẽ sử dụng những sử dụng chính quyền lực công cộng để đàn áp những người chống đối. Vì vậy, để tránh lặp lại những chính quyền vô trách nhiệm thì cần phải lập ra những cơ chế hữu hiệu bắt buộc chính quyền phải chịu tránh nhiệm với nhân dân. Một nhà nước có uy tín phải là một nhà nước hoạt động có hiệu quả và trách nhiệm. Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là một quy luật khách quan khi xã hội cần đến nhà nước. Nhân loại với những bài học lịch sử đầy máu và nước mắt, đã cho chúng ta thấy rằng: quyền lực nhà nước phải có giới hạn và phải được kiểm soát chặt chẽ. Quyền lực nhà nước được chế ngự sẽ đảm bảo cho quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân. 1.2. Các phƣơng thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc Các phương thức chế ngự quyền lực nhà nước đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử, từ khi con người ý thức được sức mạnh đáng sợ của quyền lực nhà nước. 8 Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng vĩ đại như Heraclit, Platon, Xixeron… đã đề xuất quan điểm quyền lực nhà nước cần phải được giới hạn bằng pháp luật. Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, còn công dân được phép làm những gì mà pháp luật không cấm. Các phương thức này được hoàn thiện hơn trong cách mạng tư sản với nội dung là chống lại sự chuyên quyền của chế độ phong kiến và bảo vệ nhân quyền. Trong xã hội hiện đại, sự hiện diện của các quy định về kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của nhà nước trong Hiến pháp và các đạo luật là dấu hiệu của dân chủ và tiến bộ xã hội. Xuất phát từ những nguyên nhân dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhà nước, các nhà tư tưởng chính trị, pháp lý đã đề xuất những biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước. Về cơ bản, các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước có thể được phân định thành: kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài. Việc thường xuyên kiểm tra, chế ước quyền lực nhà nước bằng việc kết hợp các biện pháp khác nhau sẽ ngăn chặn và đẩy lùi căn bệnh của con người khi nắm trong tay quyền lực. 1.2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài Kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bao gồm những biện pháp tác động từ bên ngoài, xuất phát từ phía nhân dân và các thiết chế xã hội, chủ yếu bao gồm các biện pháp sau: sự ghi nhận và tạo ra các cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân; sự giám sát của nhân dân thông qua hoạt động minh bạch của các cơ quan nhà nước và quyền được tiếp cận thông tin của dân chúng; và kiểm soát bằng tự do ngôn luận, tự do báo chí. 1.2.1.1. Sự ghi nhận và tạo ra các cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân – ranh giới phòng chống sự tùy tiện của các cơ quan công quyền Khi nghĩ tới các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước, chúng ta thường hướng đến các chủ thể có quyền lực. Tuy nhiên, hạn chế quyền lực nhà nước không chỉ là ràng buộc nhà nước bằng pháp luật mà cần vạch ra những 9 “vùng cấm” đối với công quyền. Vùng cấm ở đây chính là những quyền con người và quyền cơ bản của công dân mà nhà nước không thể vi phạm và đồng thời phải có trách nhiệm bảo vệ. Hay nói cách khác, việc quy định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp cũng như những đảm bảo pháp lý quan trọng để quyền con người, quyền công dân được thực thi trong thực tế là một trong những biện pháp chế ngự quyền lực nhà nước. Quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [11, tr.38]. Gắn liền với khái niệm quyền con người là khái niệm quyền công dân. Quyền công dân về bản chất là những quyền tự nhiên của con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Theo học thuyết về quyền tự nhiên, quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có và không thể bị tước bỏ của mọi cá nhân. Do đó, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người. Đồng thời, theo John Lock, một nhà triết học người Anh, đã khẳng định “Các chính phủ chỉ có thể chính danh hay hợp pháp khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền bẩm sinh, vốn có của nhân dân…”[11, tr.40]. Điều đó có nghĩa là, nghĩa vụ của các nhà nước phải làm là tôn trọng quyền con người, đồng thời có những biện pháp để thực hiện, thúc đẩy quyền con người trong thực tế. Nghĩa vụ tôn trọng đòi hỏi các nhà nước phải biết kiềm chế, không can thiệp vào sự thụ hưởng của các cá nhân. Đó chính là biện pháp nhằm hạn chế sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước, phòng tránh sự vi phạm các quyền cơ bản của công dân. Để đảm bảo cho quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và thực hiện thì dân quyền phải được quy định trong văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao nhất là Hiến pháp. Nhìn chung, trên thế giới, các quyền con người, quyền công dân được quy định theo ba cách cơ bản: 10 Cách thứ nhất, quyền con người, quyền công dân được quy định thành các điều, các chương trong Hiến pháp. Đây là cách thức quy định phổ biến, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Ví dụ: ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân quy định tại chương 2, Hiến pháp năm 2013. Cách thứ hai, quyền con người, quyền công dân được quy định trong một văn bản riêng, được thừa nhận là một nội dung của Hiến pháp. Ví dụ: bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp được thừa nhận là một bộ phận của Hiến pháp năm 1958. Cách thứ ba, quy định trong một văn bản riêng và được xác định là những điều bổ sung cho Hiến pháp. Ví dụ: Hiến pháp Mỹ bao gồm 7 điều gốc và 27 Tu chính án bổ sung sau này, trong đó có 10 Tu chính án được gọi là Bộ luật về quyền của nước Mỹ. Mặc dù được quy định theo cách này hay cách khác, nhưng các Hiến pháp đều quy định những quyền thiết yếu nhất của con người. Việc quy định nhân quyền phải đảm bảo vừa bao quát hết được các quyền con người hiện tại và sau này, lại vừa cụ thể để dễ dàng cho việc ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền từ mọi chủ thể trong xã hội. Bên cạnh đó, cần có những thiết chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người. Sự ngăn ngừa phải được thực hiện ngay từ trước nhằm ngăn chặn những vi phạm đến quyền con người, quyền công dân từ phía chủ thể là nhà nước; hoặc khi các quyền con người bị xâm phạm thì cần phải có những biện pháp trừng phạt chủ thể vi phạm, khôi phục lại những quyền đó. Là cơ quan thực hiện quyền lực tư pháp, tòa án có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Luật Nhân quyền quốc tế đòi hỏi sự hiện diện của tòa án trong việc bảo vệ quyền con người được hiệu quả. Cụ thể, theo điều 8 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) được Liên hợp quốc quy định: 11 “Mọi người đều có quyền được các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được Hiến pháp hay luật pháp quy định” [32, tr.219]. Các tòa án quốc gia được ví như một trong những nguồn lực sẵn có để bảo vệ các quyền con người mà không cần sự can thiệp của các cơ chế bảo vệ mang tính khu vực và quốc tế. Nhưng quan trọng hơn và quyền năng rộng hơn chính là cơ chế bảo hiến. Việc đảm bảo thực thi các quyền hiến định trong thực tiễn là cơ sở nền tảng và thiết yếu cho việc bảo vệ nhân quyền. Liên quan đến cơ chế bảo vệ nhân quyền, Hiến pháp của một số quốc gia quy định về một cơ quan nhân quyền quốc gia với vị thế độc lập với chức năng chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Lý do cho việc thành lập cho loại cơ quan này xuất phát từ đặc điểm nhà nước vừa là chủ thể có nghĩa vụ chính trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền; vừa là thủ phạm chính của các vi phạm nhân quyền. Vì thế cần một cơ quan đóng vai trò tư vấn để góp ý và trợ giúp các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền. Trên thế giới, các cơ quan này được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu là: Cơ quan thanh tra quốc hội (Ombudsman); Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Comission); Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể (Specialized Institutions). Về cơ bản, các cơ quan này đều tuân thủ những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhân quyền quốc gia (Các nguyên tắc Paris). Nguyên tắc độc lập được coi là một trong những nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động của các cơ quan nhân quyền. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của cơ quan này, đó là: mặc dù được nhà nước lập ra, nhưng không phải là cơ quan nhà nước, nó là cơ quan đứng giữa xã hội dân sự và nhà nước. Mức độ độc lập của cơ quan này được đảm bảo bằng các yếu tố 12 liên quan đến trụ sở, nguồn tài trợ và quan trọng nhất là việc thành lập, cơ cấu tổ chức và chức năng được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Địa vị pháp lý ở tầm hiến định là đảm bảo pháp lý cao nhất của tính độc lập. Sự hiến định chức năng, thẩm quyền và tổ chức của cơ quan này sẽ tạo cho cơ quan nhân quyền năng lực pháp lý cao trong việc thực hiện chức năng của mình. Tóm lại, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân là mục đích cũng là nhiệm vụ của bất cứ nhà nước nào. Không thể có sự hạn chế quyền lực chuyên chế mà không có sự bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Bởi vì, xét đến cùng, mục đích của hạn chế quyền lực nhà nước là thực hiện dân chủ, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. 1.2.1.2. Sự giám sát của nhân dân thông qua hoạt động minh bạch của các cơ quan nhà nước và quyền được tiếp cận thông tin của dân chúng Điều cốt lõi của bất cứ nền dân chủ nào là việc đảm bảo sự tham gia tích cực của công dân vào các quyết định của chính quyền. Muốn làm được như vậy thì chính quyền phải hoạt động công khai để nhân dân có nhiều khả năng giám sát chính quyền. Công khai hoạt động của nhà nước sẽ tạo ra sức ép để bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả hơn. Lịch sử cho thấy chính quyền ở bất cứ thời nào cũng có khuynh hướng là muốn cai trị và không muốn người dân có thể tham gia vào mọi hoạt động của chính quyền. Đây là bản năng của con người và cũng là bản năng của chính quyền. Sự chuyên quyền, độc đoán sẽ xảy ra nếu mọi thông tin về hoạt động của chính quyền được che dấu trong bóng tối. Không chỉ có vậy, việc nhà nước “bảo mật” những thông tin quản lý sẽ là cánh cửa rộng mở cho tham ô, bất công và bất bình. Tham nhũng gia tăng ở những nơi bí mật, tránh nơi công cộng, vì vậy có thể nhận thấy những gì không công khai sẽ là mầm mống 13 của tham nhũng. “Bản năng” giữ rịt thông tin thường mọc rễ trong những môi trường bảo mật, cho phép các quan chức trở nên bất khả xâm phạm, chẳng phải giải trình với ai. Chính những nền văn hóa bảo mật đó là chậm bước mở cửa của xã hội, làm ngăn cản sự phát triển của xã hội [18, tr.18]. Xuất phát từ những đặc điểm trên, việc công khai và minh bạch hóa hoạt động của chính quyền là biện pháp để chế ngự được khuynh hướng muốn bưng bít thông tin của chính quyền. Công khai tức là mọi hoạt động của nhà nước phải được công bố hoặc truyền tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và mọi người dân có thể được tiếp cận dễ dàng. Còn sự minh bạch nghĩa là mọi việc phải diễn ra giản đơn và có thể dự đoán trước được. Sự minh bạch trong hoạt động của chính phủ luôn là trọng tâm của nguyên tắc minh bạch của nhà nước. Với đội ngũ nhân viên đông đảo, trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý xã hội, hoạt động của chính phủ cần được thực hiện dưới sự giám sát của người dân. Sự công khai hoạt động của chính phủ cho phép công dân có quyền chất vấn và ngăn chặn những hành động của chính quyền mà họ không đồng tình. Sự phản đối từ phía người dân đối với các hoạt động của chính quyền buộc các quan chức luôn phải hành động một cách cẩn trọng và trách nhiệm. Do đó, sự cởi mở và minh bạch trong hoạt động của chính phủ là một trong những nhân tố góp phần kiểm soát hữu hiệu đối với sự lạm dụng quyền lực được nhân dân ủy thác. Những nhà nước dân chủ trên thế giới đều có những nguyên tắc đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động của chính phủ, mà tiêu biểu là nước Mỹ. Kể từ khi lập quốc, hệ thống luật lệ tại Hoa Kì đã tạo điều kiện dễ dàng cho công dân được tham dự một số cuộc họp quan trọng của các quan chức chính phủ, có quyền yêu cầu và được nhận các tài liệu của chính phủ và đóng góp vào các quyết định và quá trình hoạch định luật lệ của chính phủ. Đạo luật 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan