ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH BÌNH
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
Hµ Néi – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các ví dụ sử dụng trong luận văn đảm báo tính trung
thực, chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc
Gia Hà Nội.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Thanh Bình
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT ................................6
1.1.
Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật .................................6
1.1.1. Khái niệm giải thích pháp luật .........................................................................6
1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật .........................................................................7
1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật.....................................................................8
1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật ...........................................................................11
1.1.5. Phạm vi giải thích pháp luật ...........................................................................14
1.2.
Vị trí, vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật .................................19
1.2.1. Vị trí của Tòa án trong Bộ máy Nhà nước .....................................................19
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật. Mục đích, ý nghĩa GTPL
do Tòa án thực hiện ........................................................................................28
1.3.
Giải thích pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới.................................32
1.3.1. Giải thích pháp luật ở Trung Quốc ................................................................32
1.3.2. Giải thích pháp luật ở Hàn Quốc....................................................................36
1.3.3. Giải thích pháp luật ở Hoa Kỳ .......................................................................39
Kết luận Chương 1...................................................................................................44
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ QUAN ĐIỂM,
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI
THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM..........................................................45
2.1.
Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam .............................................45
2.1.1. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp ....................................45
2.1.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp .................................52
2.1.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án Việt Nam ....................................57
2.2.
Quan điểm về đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật ở Việt Nam hiện nay .............................................................................90
2.2.1. Thực hiện giải thích pháp luật của Tòa án nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam .............90
2.2.2. Giải thích pháp luật của Tòa án nhằm thực hiện vai trò của tòa án trong
việc bảo vệ công lý, quyền, lợi ích của con người .........................................97
2.2.3. Giải thích pháp luật của Tòa án phải gắn với đặc điểm chính trị, xã hội
của đất nước và phải có lộ trình hợp lý, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm
GTPL trên thế giới .......................................................................................100
2.3.
Một số giải pháp đảm bảo vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật ở Việt Nam hiện nay ...........................................................................102
2.3.1. Cần trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án...........................................102
2.3.2. Phát triển án lệ, đăng tải công khai các bản án, quyết định của Tòa án .............108
2.3.3. Nâng cao trình độ, năng lực và đạo đức của Thẩm phán .............................110
2.3.4. Xây dựng, ban hành Luật về giải thích pháp luật.............................................112
2.3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giải thích pháp luật .....................................114
2.3.6. Nâng cao chất lượng lập pháp ......................................................................115
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ
BHVBQPPL:
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
BLDS:
Bộ luật dân sự
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTDS:
Bộ luật Tố tụng Dân sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
ĐƯQT:
Điều ước quốc tế
GTPL:
Giải thích pháp luật
HĐLĐ:
Hợp đồng lao động
NLĐ:
Người lao động
NSDLĐ:
Người sử dụng lao động
QH:
Quốc Hội
TANDTC:
Tòa án Nhân dân Tối cao
UBTVQH:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VBQPPL:
Văn bản quy phạm pháp luật
VKSNDTC:
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1. Lý luận về giải thích pháp luật là một bộ phận quan trọng của khoa học pháp
lý, được tổng kết từ thực tiễn giải thích pháp luật ở nhiều nước, có tính phổ biến, có giá
trị hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động giải thích pháp luật ở mỗi quốc gia. Việc giải thích
pháp luật có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể giải thích pháp luật.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, chủ thể về giải thích pháp luật chưa được quan tâm đúng mức,
chưa có điều kiện chính thức để nhận quyền giải thích pháp luật.
2. Hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
thực hiện theo quyền hạn, thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu. Pháp luật Việt Nam
không trao quyền giải thích pháp cho Tòa án nhưng để thực hiện chức năng xét xử
của mình, Tòa án nhân dân Tối cao đã tham gia vào hoạt động giải thích pháp luật
một cách có hiệu quả. Trong những năm qua, Tòa án có vị trí, vai trò nhất định
trong hoạt động giải thích pháp luật.
3. Nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền và Cải
cách tư pháp theo những yêu cầu và mục tiêu chiến lược đã được hoạch định. Trao
quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là một trong những biện pháp bảo đảm cho sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
4. Hiện nay, việc trao quyền giải thích pháp luật cho Tòa án đang có nhiều
tranh cãi cả về mặt thực tiễn và lý luận
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp
luật” ở Việt Nam hiện nay là một đề tài nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số đề tài, công trình nghiên cứu giải thích
pháp luật, giải thích hiến pháp với mục đích, góc độ phạm vi tiếp cận khác nhau
trong đó ít nhiều đề cập đến vấn đề học viên đang nghiên cứu.
Tìm hiểu lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy, hoạt động giải thích pháp luật
đã được ghi nhận từ rất sớm, từ năm 1959. Tòa án thường xuyên giải thích pháp luật
thông qua hoạt động của mình song không được thừa nhận chính thức. Nhưng cho
đến nay, với nhiều lý do, tình hình triển khai hoạt động này của chủ thể được trao
quyền trên thực tế là còn rất hạn chế. Mới một lần duy nhất UBTVQH (sau đây viết
1
tắt là UBTVQH) thực hiện thẩm quyền này. Vì vậy, về mặt nghiên cứu, chưa có bất
cứ một luận văn, luận án nào đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Có một số bài viết, bài
báo, công trình nghiên cứu, đề tài khoa học có đề cập. Nhưng số lượng không nhiều
và phạm vi đề cập thì còn rất hạn chế. Có thể kể đến một số bài viết, bài báo, công
trình nghiên cứu hay đề tài khoa học liên quan đến hoạt động giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh sau đây:
Một số bài viết
Luận án tiến sĩ Luật học “Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của
Phạm Thị Duyên Thảo năm 2012; “Thẩm quyền của UBTVQH về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh”, “Về quyền lập pháp của Quốc hội” của TS. Hoàng Văn Tú,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2000 và số 11/2002; “Bàn về UBTVQH”, “Sự
chuyển biến chức năng của Nghị viện”, “Sự hạn chế của quyền lực Nhà nước”, “thể
chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Khoa
học/ Kinh tế – Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003 và số 2/2005; “Giải
thích luật ở các nước theo hệ thống thông luật” Nguyễn Thuý Hà, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 5 T6/2001; “Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến ở các nước”
Nguyễn Đức Lam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2001...;
* Một số cuốn sách
“Hiến pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn” – Nxb ĐHQG Hà Nội 2011;
Chủ biên: PGS, TS Nguyễn Đăng Dung, PGS, TS Phạm Hồng Thái, PGS-TS Phạm
Công Giao; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, PGS, TS Nguyễn Đăng
Dung (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2004; “Cơ chế bảo hiến”, Đặng Văn
Chiến (Chủ biên), Phó trưởng Ban công tác lập pháp. Nxb Tư pháp, Hà Nội năm
2005; “Quy trình, thủ tục trong hoạt động của Quốc hội”, Ban Công tác lập pháp, Hà
nội 2005; “Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền”, Ths Bùi Ngọc
Sơn, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2005...; “Quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước và
yêu cầu về kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực”, GS Đào Trí Úc
* Đề tài khoa học
Đề tài khoa học cấp bộ của Văn phòng Quốc hội: “Đổi mới và hoàn thiện quy
trình lập pháp của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của UBTVQH” (mã số: 99 - 98 169 năm 2001) do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm; Đề tài khoa học “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH”, Mã
2
số: 94-98-106/ĐT của Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội, do TS. Nguyễn Văn
Thuận, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội làm Chủ nhiệm.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những kết quả của các bài viết, bài báo, công
trình nghiên cứu và đề tài khoa học trên, Luận văn là công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật
về vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Luận văn có mục đích tổng quát là nghiên cứu các nội dung, tình hình thực
tiễn của tòa án trong hoạt động giải thích pháp luật; đề xuất các giải pháp hoàn thiện
để cho hoạt động này đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao, góp phần tăng cường
pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
Với mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Xây dựng và làm rõ các khái niệm và nội dung có liên quan; tìm hiểu nội
dung các quy định của pháp luật, cách thức tiến hành ở một số nước trên thế giới để
tìm ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, xây dựng cơ sở lý luận của
hoạt động giải thích pháp luật
- Đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý và tình hình thực hiện hoạt động giải thích
pháp luật ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử để tìm ra những tồn tại và nguyên
nhân; xây dựng cơ sở thực tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện
hoạt động giải thích pháp luật của tòa án ở nước ta hiện nay, phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
Là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
nên Luận văn tập trung vào các vấn đề sau:
- Lý luận về giải thích pháp luật pháp luật
- Hoạt động giải thích pháp luật của chủ thể là cơ quan lập pháp, hành pháp
và Tòa án
- Giải pháp đảm bảo vai trò giải thích pháp luật của Tòa án ở Việt Nam
3
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương
pháp luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các nguyên tắc của lý
luận về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật
trong thời kỳ đổi mới. Do đó, phương pháp nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp, phân tích các thông tin, tư liệu
liên quan đến nội dung nghiên cứu;
- Sử dụng phương so sánh, đối chiếu để so sánh, đối chiếu các quy định của
pháp luật với thực tiễn hoạt động, các quy định của pháp luật nước ngoài với pháp
luật Việt Nam;
- Sử dụng phương pháp thống kê và điều tra xã hội học và khảo sát thực tiễn
để hình thành các quan điểm và số liệu cụ thể trong nội dung luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Một là: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên xây dựng cơ sở lý luận một
cách toàn diện về hoạt động giải thích pháp luật. Lần đầu tiên hệ thống các khái niệm
và nội dung có liên quan đến hoạt động giải thích pháp luật và làm rõ về nội hàm và
bản chất một cách đầy đủ và có hệ thống;
- Hai là, Luận văn đã thể hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về
cơ sở pháp lý cũng như tình hình thực hiện hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án
qua các giai đoạn lịch sử. Từ đó, thấy được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân
làm cho hoạt động này chưa thật sự được phát huy;
- Ba là, dựa vào những luận chứng, luận cứ và kinh nghiệm đã được rút ra trong
quá trình phân tích, Luận văn đã đề xuất những giải pháp toàn diện, cụ thể và có tính khả
thi, phù hợp với điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội Việt Nam, góp phần tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực
tiễn của hoạt động giải thích pháp luật của tòa án và có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy; đồng thời, là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và
giám sát việc thi hành pháp luật.
4
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật và vai trò của
Tòa án trong giải thích pháp luật
Chương 2: Thực trạng giải thích pháp luật và Quan điểm, giải pháp đảm bảo
vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
5
Chương 1
SỞ LÝ LUẬN CỦA GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
1.1 . Những vấn đề lý luận cơ bản về giải thích pháp luật
1.1.1 . Khái niệm giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật được tiếp cận từ nhiều phương diện, tuy có sự thống
nhất song cũng bao hàm cả sự khác biệt nhất định ở các quốc gia trên thế giới. Mỗi
quốc gia đều có sự tiếp cận giải thích pháp luật nhất định, có nhiều định nghĩa về
giải thích pháp luật.
Theo quan điểm của các nhà khoa học Nga, giải thích pháp luật bao gồm hai
phương diện của giải thích pháp luật, hai bộ phận hợp thành: làm sáng rõ ý nghĩa,
lời văn của các quy định pháp luật và giải thích pháp luật. Làm sáng rõ ý nghĩa, lời
văn của các quy định pháp luật có mục đích xác lập ý nghĩa của quy định pháp luật,
còn giải thích pháp luật lại có mục đích cụ thể hơn là giải thích rõ ý nghĩa của các
thuật ngữ, quy định đó tác động đến những đối tượng nào, mối tương quan giữa các
quy định đó với những quy định ráp ranh…
Các nhà nghiên cứu pháp lý ở Việt Nam đã đưa ra những định nghĩa khác
nhau về giải thích pháp luật. Có những định nghĩa tập trung xác định phạm vi, khu
vực của giải thích pháp luật là tại nơi diễn ra hoạt động áp dụng pháp luật; có định
nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ ngữ nghĩa của thuật ngữ giải thích,
có phần nhấn mạnh đến hoạt động giải thích pháp luật không chính thức; có định
nghĩa tiếp cận giải thích pháp luật dưới góc độ chung, chú trọng nhiều đến tính phổ
quát, tính logic học của giải thích pháp luật, bao gồm các hoạt động giải thích pháp
luật chính thức và không chính thức.
Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì giải thích pháp luật cũng phải bao
hàm các vấn đề sau:
Tính thẩm quyền của hoạt động giải thích pháp luật. Tính thẩm quyền là một
đặc điểm tất yếu của hoạt động giải thích pháp luật bởi vì nó đem đến cho hoạt động
giải thích pháp luật tính chính thức và giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên dù họ
có những giải thích khác nhau về cùng một quy phạm;
Tính chất, phạm vi của giải thích pháp luật là một hoạt động độc lập, khác
6
biệt với hoạt động xây dựng pháp luật. Giải thích pháp luật là xác định những quy
tắc xử sự, là đọc nghĩa của những quy phạm pháp luật đó;
Đối tượng trực tiếp của giải thích pháp luật là quy phạm pháp luật hay một
quy tắc xử sự nào đó. Đối tượng của giải thích pháp luật cũng có thể là tập quán
pháp, tiền lệ pháp và cả chính sách pháp luật. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu của giải
thích pháp luật vẫn là pháp luật thành văn mà hình thức phổ biến và cơ bản nhất là
các văn bản quy phạm pháp luật;
Mục đích của giải thích pháp luật. Mục đích cao nhất và mang tính quyết
định nhất của giải thích pháp luật là xác định đúng quy tắc xử sự mà nhà lập pháp
đã thể hiện trong các quy định của pháp luật để giúp cho việc nhận thức, thực hiện
pháp luật đúng đắn và thống nhất.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về giải thích pháp luật như sau: Giải thích
pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về tư tưởng, tinh thần, ý nghĩa và nội dung,
mục đích của các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc nhận thức và thực hiện
đúng, thống nhất pháp luật.
Làm sáng tỏ quy định pháp luật được coi là bước trước của giải thích pháp
luật. Trước khi giải thích pháp luật nhà giải thích phải làm sáng rõ ý nghĩa, nội
dung. Trong quá trình giải thích pháp luật, các nhà giải thích pháp luật không được
đặt thêm mới hay bổ sung các quy định pháp luật mà công việc của họ là giải thích
ý nghĩa, nội dung của quy phạm pháp luật để hiểu, áp dụng cho đúng đắn, thống
nhất chúng trong cuộc sống.
1.1.2. Hình thức Giải thích pháp luật
Có nhiều hình thức giải thích pháp luật dựa vào các tiêu chí khác nhau khi
phân loại.
Nếu căn cứ vào tiêu chí chủ thể giải thích pháp luật thì có giải thích pháp luật
của Quốc hội, của cơ quan hành pháp, tòa án, của cơ quan và của các tổ chức, cá
nhân khác.
Căn cứ theo tiêu chí đối tượng của hoạt động giải thích, giải thích pháp luật có
hai hình thức giải thích các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng pháp
luật, tập quán pháp luật, giải thích Hiến pháp, giải thích Luật, giải thích Pháp lênh…
Căn cứ vào giá trị pháp lý, có thể chia thành hai hình thức giải thích pháp
luật chính thức và giải thích pháp luật không chính thức.
7
Giải thích không chính thức không mang tính bắt buộc thực hiện đối với các
chủ thể liên quan mà nó chỉ có giá trị tham khảo. Chủ thể của loại giải thích này bao
gồm tất cả các chủ thể pháp luật như các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học.v.v.
Sản phẩm của loại giải thích này là các ấn phẩm bình luận khoa học về các bộ luật
hay các văn bản pháp luật.
Chủ thể của giải thích pháp luật không chính thức trong đó có các nhà khoa
học pháp lý, các luật gia, các Thẩm phán giàu kinh nghiệm có tác động quan trọng
tới ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, và thông qua đó, tới hoạt động thực
tiễn và áp dụng pháp luật.
Chủ thể giải thích pháp luật chính thức là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo luật định, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục pháp luật nhất định.
Giải thích chính thức có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bằng
nhà nước. Sản phẩm của giải thích pháp luật chính thức là các văn bản giải thích
pháp luật. Trong giải thích pháp luật chính thức được chia thành hai loại: giải thích
chính thức mang tính quy phạm và giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể
(hay giải thích tình huống).
Giải thích chính thức mang tính quy phạm là giải thích pháp luật mà trong đó
nội dung giải thích được thể hiện dưới dạng một văn bản quy phạm pháp luật, được
thực hiện bởi cơ quan quyền lực nhà nước theo một trình tự độc lập trên cơ sở khái
quát từ thực tế của hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Văn bản thể hiện nội
dung giải thích có giá trị chính thức, bắt buộc đối với mọi cơ quan quyền lực nhà
nước lập pháp, hành pháp, tư pháp…
Giải thích tình huống là hoạt động giải thích gắn liền với việc giải quyết một
vụ việc cụ thể; nội dung giải thích không mang tính quy phạm, chí có giá trị pháp lý
đối với các chủ thể trong vụ việc được giải quyết mà không có giá trị đối với các
chủ thể ở các vụ việc pháp lý khác; hoạt động này thường được tiến hành bới Tòa
án và các cơ quan có thẩm quyền khác tiến hành khi giải quyết một tranh chấp hoặc
xét xử một vụ án cụ thể.
1.1.3. Phương pháp giải thích pháp luật
Phương pháp GTPL có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của việc
giải thích pháp luật. Thông thường, để làm sáng tỏ một nội dung, tư tưởng và ý
nghĩa của các quy định pháp luật, các phương pháp giải thích pháp luật thường
được sử dụng bao gồm:
8
1.1.3.1. Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm
Đây là phương pháp phổ biến, chủ yếu nhất và không thể thiếu được khi tiến
hành hoạt động giải thích pháp luật. Với phương pháp này để làm sáng tỏ nội dung,
tư tưởng của quy phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng từ, từng câu và xác
định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng trong lời văn của quy phạm đó. Phương pháp
này đặc biệt quan trọng và cần thiết khi tiến hành giải thích những văn bản pháp
luật mà trong đó có nhiều câu chữ, ngôn từ chuyên môn được sử dụng lần đầu, còn
mới lạ và không dễ nhận thức đối với những người không phải là luật gia hay nhà
chuyên môn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng pháp luật, ngôn ngữ, văn phạm không
phải bao giờ cũng thể hiện được đầy đủ, chính xác, rõ ràng ý chí của Nhà nước dẫn
đến các chủ thể thực hiện pháp luật có thể hiểu nhầm, hiểu sai, hiểu không đầy đủ…ý
chí của nhà nước. Ngôn ngữ không phải bao giờ cũng chuyển tải một cách chính xác,
đầy đủ ý chí đích thực của Nhà nước nên chỉ sử dụng phương pháp giải thích ngôn
ngữ, văn phạm để giải thích pháp luật là chưa đủ. Do vậy, nếu lời văn của quy phạm
hay văn bản quy phạm không thể hiện được ý chí của Nhà nước mà chủ thể ban hành
pháp luật cần thể hiện thì cần có sự giải thích trước bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ngay sau khi văn bản được ban hành. Trong trường hợp các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền không giải thích trước chỉ đến khi thực hiện mới có xung đột về nhận
thức và thực hiện các quy định pháp luật thì phải căn cứ vào lời văn đã được thể hiện
trong văn bản để giải thích nếu nội dung quy định pháp luật cần được giải thích có
liên quan đến lợi ích và quyền tự do dân chủ của nhân dân.
1.1.3.2. Phương pháp giải thích logic
Phương pháp giải thích logic là thông qua những phán đoán, suy luận, những
quy luật của tư duy logic để làm sáng rõ nội dung quy phạm pháp luật. Bằng suy
đoán logic có thể cho phép người nhận thức đạt tới chân lý trong quá trình phân tích
nội dung quy phạm pháp luật. Với tư duy logic còn giúp cho người soạn thảo các
văn bản pháp luật tạo ra những điều luật vừa khái quát, rõ ràng, chính xác lại vừa dễ
hiểu. Phương pháp này thường được sử dụng kết hợp với phương pháp giải thích
ngôn ngữ và phương pháp giải thích hệ thống trong trường hợp lời văn của quy
phạm hay văn bản pháp luật không trực tiếp thể hiện rõ ý chí của Nhà nước. Ở Việt
Nam do tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao nên phương pháp này
9
thương chỉ được sử dụng để giải thích từng văn bản riêng biệt, ít được sử dụng để
giải thích cho cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
1.1.3.3. Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử
Là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư tưởng của quy phạm thông qua việc
nghiên cứu các điều kiện, hoàn cảnh chính trị - lịch sử đã dẫn đến việc ban hành
quy phạm hoặc văn bản quy phạm pháp luật đó và nhiệm vụ chính trị mà nhà nước
mong muốn đạt được khi ban hành quy định hay văn bản pháp luật đó.
Xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ còn rất nhiều những biến đổi quan trọng nên
việc sử dụng phương pháp giải thích chính trị - lịch sử để giải thích các quy định
pháp luật cần được chú ý nhiều hơn trong tương lai.
1.1.3.4. Phương pháp giải thích hệ thống
Sử dụng phương pháp này để làm rõ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật
bằng cách đối chiếu nó với các quy phạm pháp luật khác, xác định vị trí, vai trò của
quy phạm đó trong chế định pháp luật, trong ngành luật hoặc trong toàn bộ hệ thống
pháp luật. Đối với các nhà nước hiên đại thì pháp luật là một hệ thống có cấu trúc rất
chặt chẽ, do vậy có thể sử dụng lý thuyết hệ thống để tìm hiểu nội dung của các quy
định pháp luật. Phương pháp này giúp phát hiện ra những mâu thuẫn, chồng chéo hay
thiếu sót của quy phạm pháp luật hoặc của các bộ phận trong hệ thống pháp luật.
1.1.3.5. Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng và Giải thích pháp
luật theo cách hạn chế
Xét về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn,
không thêm, không bớt. Trên thực tế, cách giải thích này là phổ biến nhất, nội dung
lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu theo đúng từng từ, từng câu mà nó thể
hiện. Tuy nhiên, nếu chỉ giải thích pháp luật theo nghĩa đen thì trên thực tế đôi khi
sẽ gặp một số trường hợp lời giải thích sẽ là vô lý, không thể chấp nhận được. Vì
vậy, có những trường hợp cần phải giải thích theo cách phát triển mở rộng hoặc giải
thích hạn chế khi nhận thấy sự vô lý quá rõ ràng.
Giải thích pháp luật theo cách phát triển mở rộng: có nghĩa là giải thích nội
dung quy định hay văn bản pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ được thể
hiện trong quy định hay văn bản pháp luật, sao cho đúng với nghĩa đích thực mà
người làm luật muốn thể hiện trong quy định hay văn bản pháp luật (nội dung lời
giải thích rộng hơn so với nội dung lời văn của quy định pháp luật mà nó giải thích)
10
Giải thích mở rộng và giải thích hạn chế chỉ là những trường hợp ngoại lệ,
hiếm khi xảy ra, chúng không mâu thuẫn với pháp chế mà ngược lại, chúng là một
trong những điều kiện để tăng cường pháp chế. Bởi vì, khi áp dụng nguyên tắc này
không thể giải thích pháp luật một cách tùy tiện mà nhằm bổ khuyết những thiếu sót
của kỹ thuật lập pháp, làm cho các chủ thể thực hiện pháp luật hiểu đúng, đủ nội
dung thực sự của các quy định pháp luật, ý chí đích thực của Nhà nước được thể
hiện trong đó. Trong trường hợp, lời văn của quy định pháp luật thật sự rộng hơn
hoặc hẹp hơn so với nội dung thật của nó thì mới được giải thích mở rộng hoặc hạn
chế nếu không việc giải thích mở rộng, hạn chế đều là sự vi phạm pháp chế. Trong
nhiều trường hợp, việc giải thích pháp luật mở rộng hoặc hạn chế phụ thuộc vào
điều kiện chính trị - lịch sử của đất nước.
Các phương pháp giải thích pháp luật và các hình thức giải thích pháp luật
luôn có quan hệ mất thiết với nhau, không đươc loại trừ lẫn nhau. Trong quá trình
giải thích pháp luật cần phải sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức giải thích
pháp luật khác nhau để khắc phục, loại trừ sự nhận thức không đúng nội dung, tinh
thần quy định pháp luật.
1.1.4. Chủ thể giải thích pháp luật
Yếu tố có tính quyết định đến nội dung hoạt động giải thích pháp luật là chủ
thể giải thích pháp luật. Trên thế giới có những nước qui định chủ thể có thẩm
quyền giải thích pháp luật là Toà án, có những nước quy định chủ thể có thẩm
quyền giải thích pháp luật là Cơ quan lập pháp và có những nước quy định chủ thể
giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực của nhà nước gồm
Toà án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan hành chính và cả cơ quan lập pháp.
1.1.4.1. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án
Đối với các nước có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước
theo thuyết “Tam quyền phân lập” thì chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật
là Tòa án, điển hình là Anh, Mỹ. Đây là các quốc gia có truyền thống sử dụng án
lệ và tính hàm súc của hiến pháp. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
được tổ chức và hoạt động trong thế kìm chế, đối trọng nhau. Quyền giải thích
pháp luật được trao cho Tòa án là để hạn chế quyền lực Nhà nước và là cơ sở để
tạo nên sự cân bằng và đối trọng về quyền lực đối với hai hệ thống quyền lực lập
pháp và hành pháp.
11
Các thẩm phán ở các quốc gia Anh, Mỹ khi giải thích một vụ việc cụ thể phải
đối mặt với hàng nghìn án lệ và phải có nghĩa vụ phân tích, giải thích án lệ và các
quy định của pháp luật có liên quan, có nghĩa vụ phải xem xét tính hợp hiến của
một văn bản pháp luật khi áp dụng một vụ việc, trường hợp cụ thể.
Thẩm quyền giải thích pháp luật là Tòa án được quy định trong những văn
bản pháp luật quan trọng của quốc gia hoặc được coi như là chủ thể hiển nhiên
trong hoạt động giải thích pháp luật.
Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án thì đối tượng giải thích pháp luật nhìn
chung không bị hạn chế, có thể là bất cứ hình thức pháp luật nào từ hiến pháp, các
đạo luật, các văn bản dưới luật và các hình thức khác của pháp luật. Các quốc gia có
chủ thể giải thích pháp luật đặc biệt coi trọng hình thức giải thích pháp luật mang
tính vụ việc – hình thức đặc thù của giải thích pháp luật.
1.1.4.2. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp
Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp về cơ bản là
được tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “tập quyền”. Các quốc gia có chủ
thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp gồm có các quốc gia theo hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa và một số nước như Canada, Cu Ba, Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên, Việt Nam… Quyền lực tập trung, thống nhất không có hoặc ít có sự kìm chế,
đối trọng. Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan quyền lực cao nhất, do nhân dân bầu ra,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Với các quốc gia có chủ thể giải
thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì tòa án không được thừa nhận và không có
quyền giải thích pháp luật.
Tuy nhiên, từ nhiều năm trở lại đây, các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa truyền thống cũng đã dần trao quyền chính thức giải thích pháp
luật cho Tòa án hoặc đã ủy quyền cho Tòa án thực hiện chức năng này.
Đối tượng giải thích pháp luật của các quốc gia có chủ thể giải thích là các
cơ quan lập pháp chủ yếu là các văn bản pháp luật như Hiến pháp, luật, một số
văn bản pháp luật quan trọng như văn bản pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Nghị định của Chính phủ. Án lệ không được xem là một hình thức hay
nguồn của pháp luật.
Ở các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cơ quan lập pháp thì chủ thể
có quyền yêu cầu giải thích pháp luật cũng hạn chế, không phải bất kỳ cơ quan, tổ
12
chức hoặc cá nhân nào mà thường là các chủ thể có thẩm quyền trình dự án luật mới
có quyền yêu cầu giải thích pháp luật. Quy trình giải thích pháp luật thường được quy
định cụ thể, chi tiết. Các bước của quy trình giải thích pháp luật thường giống như
quy trình pháp luật. Sản phẩm giải thích ít mang tính lý lẽ pháp luật và đôi khi khó
phân tách với nội dung hướng dẫn, bổ sung, quy định chi tiết để thực hiện pháp luật.
Theo xu hướng chung hiện nay, các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là
cơ quan lập pháp có xu hướng mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho tòa án.
Đây là một xu hướng tất yếu của đời sống pháp lý, không riêng ở bất kỳ quốc gia nào.
1.1.4.3. Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật là các cơ quan thuộc cả
ba nhánh quyền lực nhà nước gồm: Tòa án, Chính phủ, Tổng thống, các cơ quan
hành chính và cả cơ quan lập pháp
Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là cả ba cơ quan quyền lực nhà
nước thì họ không tổ chức quyền lực nhà nước theo thuyết “tam quyền phân lập”
cũng không tổ chức nhà nước theo hình thức tập trung quyền lực. Quốc gia có chủ
thể giải thích pháp luật là ba cơ quan quyền lực nhà nước hiện nay không nhiều,
điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc. Các quốc gia có chủ thể giải thích pháp luật là
cả ba cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt nhấn mạnh đến nhiệm vụ của giải thích
pháp luật và vai trò của tòa án trong việc giải thích pháp luật được đề cao.
Chủ thể giải thích pháp luật thuộc cơ quan lập pháp, hành pháp thì hoạt động
giải thích pháp luật thường là kiêm nhiệm, giải thích theo sự ủy quyền của chủ thể
khác, trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Có nhiều chủ thể được trao
quyền giải thích pháp luật. Đối với chủ thể thuộc nhóm cơ quan hành pháp thì giải
thích pháp luật chủ yếu là các sản phẩm pháp luật được ban hành theo thẩm quyền
của họ. Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng ban hành các quy phạm pháp luật,
chưa đựng việc diễn giải các văn bản pháp luật có giá trị cao hơn. Đối với các cơ
quan hành chính thì phương thức giải thích pháp luật có thể mang tính quy chuẩn
thông qua việc ban hành các văn bản chính như các chỉ thị, hướng dẫn, thông báo,
hướng dẫn thi hành hoặc mang tính cụ thể thông qua việc trả lới các câu hỏi cụ thể
về ý nghĩa của luật có thẩm quyền. Chủ thể thuộc cơ quan lập pháp giải thích pháp
luật bằng chính văn bản luật, nó giải thích luật của cấp cao hơn vì chúng cần phải
được đặt trong phạm vi ý nghĩa của luật cấp cao hơn.
Tuy nhiên, các cơ quan giải thích pháp luật song đều được tòa án xem lại cho
13
từng vụ việc cụ thể, nếu các giải thích là đúng thẩm quyền, hợp lý thì sẽ được tòa án
thừa nhận nếu không sẽ bị hủy giá trị. Điều này chứng tỏ tòa án ngày càng có vai trò
quan trọng trong việc giải thích pháp luật.
Không có một khuôn mẫu chung cho các quốc gia về giải thích pháp luật vì
cách thức tổ chức nhà nước, trình độ và kinh nghiệm xây dựng nhà nước, đời sống
và tập quán pháp lý ở mỗi quốc gia đều khác nhau. Mỗi quốc gia đều chủ động tổ
chức hoạt động giải thích pháp luật nhằm đảm bảo tính hữu hiệu và an toàn của hệ
thống pháp luật. Chủ thể giải thích pháp luật là Tòa án, cơ quan lập pháp hay cả ba
cơ quan quyền lực đều có những thế mạnh, ưu nhược điểm riêng nhưng phát triển
theo xu thế chung hiện nay, có tính quy luật thì tòa án ngày càng được chú trọng
hơn trong hoạt động giải thích pháp luật và đang dần là chủ thể chủ yếu của hoạt
động giải thích pháp luật.
1.1.5 . Phạm vi giải thích pháp luật
1.1.5.1. Phạm vi giải thích pháp luật
Bất cứ một hoạt động pháp lý nào cũng phải có một phạm vi nhất định, đặc
biệt đối với hoạt động có tính nhạy cảm cao như giải thích pháp luật. Nhận thức
được phạm vi của hoạt động giải thích pháp luật và điều chỉnh nó theo một chừng
mực nhất định là việc cần thiết.
Phạm vi của giải thích pháp luật là các vấn đề được cho phép thực hiện hoạt
động giải thích pháp luật. Tức là các vấn đề mà nằm trong đó thì được phép giải
thích còn các vấn đề mà không nằm trong đó thì không được phép giải thích. Trong
các vấn đề được hoạt động giải thích pháp luật điều chỉnh thì chủ thể của giải thích
pháp luật được quyết định, được thể hiện. Phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật,
từng chế độ chính trị của từng quốc gia mà các vấn đề được giải thích có những quy
định cụ thể để điều chỉnh. Để phạm vi giải thích pháp luật được hiện hữu thì phái có
các nguyên tắc giải thích, pháp luật về giải thích, đối tượng, thẩm quyền, giải thích,
phương pháp, hình thức giải thích…Và khi có các quy định về giải thích pháp luật
thì để giải thích pháp luật phải thực hiện theo đúng như đã được quy định.
Trước hết, ngôn ngữ chính là một trong những phạm vi của giải thích pháp
luật. Giải thích pháp luật theo truyền thống: “giải thích pháp luật là hoạt động có lý
trí, nó mang đến cho văn bản pháp luật một nghĩa chứa đựng trong ngôn ngữ (cộng
đồng hoặc cá nhân) của văn bản đó” [60, tr.29]. Ngôn ngữ văn bản là điểm đầu và
14
cũng là cái đích để hướng tới của quá trình giải thích pháp luật. Và khi giải thích
người ta cũng có thể đưa đến cho văn bản một nghĩa mở rộng hoặc có thể hạn chế
hơn theo nghĩa mà ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó thể hiện. Theo Aharon.
Barak lập luận
Mỗi một ngữ nghĩa mà người giải thích đưa ra cho một văn bản
pháp luật phải có một vị trí “Asimet” trong ngôn ngữ của văn bản. Nhà
giải thích không phải là một nhà ngôn ngữ, nhưng nhà giải thích có thể
phải đặt mình vào vị trí của nhà ngôn ngữ khi giải thích pháp luật. Một
nhà giải thích không thể đưa ra nghĩa mà một nhà ngôn ngữ không thể
đưa ra nó [60, tr.19]
Và tất nhiên để giải thích thì phải đáp ứng đúng các quy định về giải thích
như các chủ thể có thẩm quyền giải thích, ngôn ngữ của văn bản cần giải thích.
Phạm vi của giải thich pháp luật nằm trong phạm vi của văn bản pháp luật và phạm
vi của văn bản pháp luật nằm trong ngôn ngữ của văn bản pháp luật đó.
Learned Hand đã nói:
Từ ngữ là thất thường, ngôn ngữ không phải là một công cụ rõ
ràng. A.Holmes thì cho rằng: Ngôn ngữ không đảm nhiệm một sự đơn lẻ,
duy nhất một nghĩa trong trạng thái bình thường của tất cả người nghe…
Một từ không là viên pha lê, trong suốt và không thay đổi, nó là làn da
của một tư duy sống động và có thể có màu sắc đa dạng, to lớn và nội
dung theo hoàn cảnh và thời gian trong cái mà nó sử dụng [62].
Theo nhận xét của AHolmes cũng không hoàn toàn chính xác nhưng cũng có
thể thấy ngôn ngữ là một cái vô cùng mềm dẻo, linh hoạt, có thể trở nên mơ hồ, có
thể có một hoặc nhiều nghĩa và có khả năng cần thiết cho các vấn đề có nghĩa khác
nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Chính vì vậy, bản thân ngô ngữ cũng cần phải
có, phải được hiểu trong một phạm vi nhất định. Phạm vi đó để khẳng định một điều
“ngôn ngữ không thể đảm nhiệm bất kỳ một nghĩa nào mà một người giải thích mong
muốn”. “Ngôn ngữ đó chỉ có thể trong phạm vi mà được suy ra từ văn bản, từ cấu
trúc, tổ chức và mối liên hệ giữa các sự cung cấp khác nhau của nó” [88, tr.22].
Văn bản giải thích pháp luật không thể được giải thích theo ngôn ngữ mà
ngời nghe cảm thấy “bất ổn”. Phạm vi giải thích pháp luật được tiếp cận theo hai
cách, đó là giải thích pháp luật truyền thống thông thường và giải thích pháp luật
15
- Xem thêm -