Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở việt nam hiện nay luận văn...

Tài liệu Vai trò của tòa án nhân dân trong cải cách tư pháp ở việt nam hiện nay luận văn ths. luật

.PDF
94
263
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG HẢI YẾN VAI TRß CñA TßA ¸N NH¢N D¢N TRONG C¶I C¸CH T¦ PH¸P ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG HẢI YẾN VAI TRß CñA TßA ¸N NH¢N D¢N TRONG C¶I C¸CH T¦ PH¸P ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LƢƠNG THANH CƢỜNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Dƣơng Hải Yến MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM...................................... 8 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM ........................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm tƣ pháp và cải cách tƣ pháp ................................................. 8 1.1.2. Mục tiêu, quan điểm cải cách tƣ pháp ................................................ 18 1.1.3. Phƣơng hƣớng và nhiệm vụ của cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay ... 19 1.2. TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP ................... 28 1.2.1. Khái quát về tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân ....................... 28 1.2.2. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp ...... 37 Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 44 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ...............45 2.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ............................. 45 2.1.1. Hoạt động xây dựng, trình Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội các dự án theo thẩm quyền ............................................................ 45 2.1.2. Hoạt động xét xử các vụ án, vụ việc theo thẩm quyền ....................... 51 2.1.3. Hoạt động tổng kết công tác xét xử, bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử ......................................................................................... 56 2.1.4. Quản lý đào tạo bồi dƣỡng cán bộ công chức, thẩm phán .................. 57 2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP ............................................... 60 2.2.1. Ƣu điểm ............................................................................................... 60 2.2.2. Hạn chế, bất cập .................................................................................. 61 Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP .............................................. 68 3.1. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................................. 68 3.1.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của tòa án nhân dân ....................... 68 3.1.2. Đổi mới hoạt động của tòa án nhân dân.............................................. 69 3.2. NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN .................. 77 3.3. BẢO ĐẢM CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TẾ ..... 81 Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CCTP: Cải cách tƣ pháp TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Nhà nƣớc ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành Tòa án. Cùng với sự ra đời của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33c thiết lập Toà án quân sự tiền thân của ngành toà án để "xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" [17]. Trải qua các giai đoạn cách mạng, các quy định về ngành Tòa án nhân dân (TAND) đã nhiều lần đƣợc cải cách, sửa đổi, đã dần hoàn thiện và nâng cao vị trí, vai trò của ngành Toà án, góp phần củng cố, từng bƣớc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện quyền tƣ pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nƣớc Việt Nam và đƣợc giao cho TAND. Do vậy, TAND có vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nƣớc. Toà án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tƣ pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [3]. Vai trò của Toà án biểu hiện qua chức năng và thẩm quyền của Toà án đƣợc quy định trong Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014 (TCTAND), Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và các văn bản pháp luật khác. Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Toà án là cơ 1 quan xét xử duy nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm và xuyên suốt quá trình hoạt động của Toà án. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định Tòa án gồm Toà án nhân dân Tối cao (TANDTC), và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Điều 1 Luật TCTAND 2014 quy định Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Chỉ có Toà án mới có quyền nhân danh Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố một ngƣời có tội hay vô tội. Theo quy định tại Điều 2 Luật TCTAND 2014 thì: TAND là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân. Toà án còn là nơi biểu hiện quyền lực nhà nƣớc rõ ràng nhất, mọi phán quyết của Toà án có tính cƣỡng chế nghiêm khắc của Nhà nƣớc. Theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: Các bản án và quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những ngƣời và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Toà án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả nhất, bằng việc đƣa lên phƣơng tiện thông tin đại chúng các phiên toà xét xử, tổ chức xét xử lƣu động ngoài tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, còn có tác dụng tuyên truyền, giới thiệu, giải thích về pháp luật để mọi ngƣời hiểu biết thêm về pháp luật và hƣớng họ tới “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bằng hoạt động của mình, Toà 2 án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. TAND có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thông qua việc xét xử các vụ án theo thẩm quyền. TAND là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử của ngành TAND vẫn còn những mặt hạn chế, bất cập, làm ảnh hƣởng đến vai trò của ngành toà án nhƣ: chất lƣợng xét xử chƣa đáp ứng yêu cầu, tình trạng án bị cải, sửa tuy ít nhƣng không giảm mà có xu hƣớng tăng, vẫn còn án tồn đọng, đặc biệt ở khâu xem xét đơn yêu cầu theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm; việc nâng cao chất lƣợng tranh luận tại phiên tòa chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ ở các cấp tòa án khác nhau; việc tuyển chọn, xây dựng, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ so với yêu cầu vẫn chƣa đáp ứng; đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán còn thiếu và yếu, trình độ chuyên môn không đồng đều; cơ sở vật chất của các tòa án chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức... Mặt khác, vị thế của ngành Tòa án trong bộ máy nhà nƣớc chƣa đƣợc xứng tầm. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tƣ pháp (CCTP) đã xác định vai trò trung tâm của ngành Tòa án trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp nhƣng ở nhiều nơi, nhiều địa phƣơng vai trò của ngành Tòa án vẫn chƣa đƣợc chú trọng đúng mức. Một số lãnh đạo địa phƣơng coi Tòa án nhƣ một sở, một phòng vẫn còn khá phổ biến, dù mức độ biểu hiện khác nhau. Nhiều bản án có hiệu lực pháp luật không đƣợc thực thi, điều trớ trêu là có những vụ án khó khăn, cản trở lại đến từ các cơ quan nhà nƣớc khác. 3 Hệ thống pháp luật chƣa đồng bộ, chƣa hoàn chỉnh cũng gây khó khăn cho các Thẩm phán. Nhiều phán quyết công tâm nhƣng do hệ thống pháp luật quá phức tạp cũng dẫn đến bị hủy sửa. Quy định bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm, trong khi hệ thống Tòa án hoạt động theo địa bàn, không đƣợc độc lập theo hệ thống ngành dọc cũng là những “vòng kim cô” khiến các Thẩm phán khi ngồi trƣớc công đƣờng khó có đƣợc sự chí công, vô tƣ cần phải có. Mức lƣơng theo thang bảng của Nhà nƣớc chung cho các ngành hiện nay vẫn là một thách thức với cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa án. Ở ngành khác nhƣ y tế, giáo dục… có thể có thêm thu nhập từ làm các nguồn khác, nhƣng ngành Tòa án thì không thể có. Do đó, việc nghiên cứu “vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, để tìm kiếm thêm các luận cứ khoa học cho việc nâng cao, bảo đảm vai trò của TAND trong CCTP. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có một số bài viết và công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Đối với các đề tài về cải cách tƣ pháp có đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ trì: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, năm 2004; sách chuyên khảo do GS.TSKH. Đào Trí Úc, PGS.TS Vũ Công Giao chủ biên: “Cải cách tư pháp vì 1 nền tư pháp liêm chính”, năm 2014; sách chuyên khảo do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên: “Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, 2002; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thế Anh: “Chiến lược cải cách tư pháp với mục tiêu bảo vệ công lý ở Việt Nam”, năm 2014; GS.TSKH Lê Văn Cảm với bài viết: “Về quyền tư pháp và các nguyên tắc 4 cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20, 21, 22 năm 2014. Đối với đề tài về Tòa án nhân dân có Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Phụng Vƣơng: “nâng cao vị trí, vai trò của TAND đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay”, năm 2012; bài viết của tác giả Trần Văn Tú về “Các quy định về Tòa án nhân dân trong Hiến pháp (sửa đổi Hiến pháp năm 1992) và hướng hoàn thiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 năm 2014; Th.s Lê Văn Minh có bài: “Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3 năm 2014; tác giả Dƣơng Đại Nghĩa với bài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án nhân dân trong quá trình cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18 năm 2010…… Các công trình trên đã đề cập một phần đến vấn đề này, tuy nhiên nhìn chung chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn thiện vẫn đề: “Vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay”. Đây là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên luận văn sẽ tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học pháp lý có liên quan để phát triển và hoàn chỉnh vấn đề nghiên cứu của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích của luận văn Đƣa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của TAND đáp ứng tốt nhất những nhiệm vụ cải cách tƣ pháp đặt ra. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của TAND trong cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích và đánh giá thực trạng về vai trò của TAND. 5 - Đề xuất những quan điểm và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm nâng cao vai trò của TAND đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài - Đối tượng: trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về vai trò của TAND, các chủ trƣơng chính sách CCTP của Đảng và Nhà nƣớc kể từ khi Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005; qua thực tiễn hoạt động của ngành Tòa án trên phạm vi cả nƣớc. - Phạm vi nghiên cứu: các số liệu từ năm 2005 đến nay; nghiên cứu các nội dung về: CCTP nói chung, vai trò của Tòa án đƣợc quy định theo Hiến pháp và trong công cuộc CCTP hiện nay. Vai trò của TAND các góc độ phi pháp lý (kinh tế, chính trị) không đề cập trực tiếp trong luận văn này. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận Luận văn đƣợc triển khai nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp. Quá trình nghiên cứu cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ: đối với chƣơng 1 sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; đối với chƣơng 2 tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, tổng kết thực tiễn; đối với chƣơng 3 sử dụng phƣơng pháp tổng hợp, đánh giá. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Thông qua việc nghiên cứu đề tài, luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của TAND trong CCTP ở Việt Nam hiện nay. Về thực tiễn, các kết luận của luận văn có giá trị tham khảo cho việc nâng cao vai trò của TAND trong CCTP ở Việt Nam, các tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về Luật. 6 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chƣơng nhƣ sau: Chương 1: Lý luận về vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp. Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân trong cải cách tƣ pháp. 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm tƣ pháp và cải cách tƣ pháp 1.1.1.1. Khái niệm tư pháp và các cơ quan tư pháp Lịch sử khoa học pháp lý chứng minh rằng, có nhiều luật gia, nhà nghiên cứu đã tiếp cận ý nghĩa đích thực của cơ quan tƣ pháp theo nghĩa hẹp. C.L. Montesquieu - ngƣời đƣợc coi là “cha đẻ” của học thuyết “tam quyền phân lập”, trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (1748) chỉ ra rằng: Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Ngƣời ta gọi đây là quyền tƣ pháp. Theo ông, Quyền phán xét không nên giao cho một Viện Nguyên lão thƣờng trực mà phải do những ngƣời trong đoàn thể dân chúng đƣợc cử ra từng thời gian trong một năm, do luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ theo sự cần thiết [11]. Theo Montesquieu thì cơ quan tƣ pháp chính là toà án-cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện nhánh quyền lực tƣ pháp. Nối tiếp những tƣ tƣởng của Mongtesquie, mƣời bốn năm sau, trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau đã viết: Khi ngƣời ta không thể định rõ một tỷ lệ chính xác giữa các bộ phận cấu thành của Nhà nƣớc, hoặc khi mà những nguyên nhân khách quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì ngƣời ta phải đặt một cơ quan đặc biệt, không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận vào 8 đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là cơ quan tƣ pháp (tribunal) [9]. Với quan niệm nhƣ vậy, thì giống nhƣ Montesquieu, Rousseau cũng cho rằng, nói đến cơ quan tƣ pháp phải hiểu đó là Toà án, là hoạt động xét xử. Chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản 1 nhƣ sau: “Quyền lực tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và những toà án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”. Những năm sau này, hầu hết hiến pháp của các nƣớc tƣ bản nhƣ Nhật, Pháp, Đức, Thuỵ Điển,… đều quy định cơ quan thực hành quyền tƣ pháp là Tòa án. Nhƣ vậy, theo quan niệm có tính chung nhất về cơ quan tƣ pháp, từ học thuyết đến quy định pháp luật thành văn của các nƣớc có lịch sử lập hiến lâu năm, đều hiểu Toà án là cơ quan tƣ pháp trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc. Nhƣ vậy có thể nói rằng, trên phƣơng diện lý thuyết cũng nhƣ trong thực tiễn tổ chức hệ thống bộ máy nhà nƣớc ở các quốc gia, ngƣời ta coi tƣ pháp là một trong ba nhánh quyền lực quan trọng của hệ thống quyền lực nhà nƣớc và đồng nhất tƣ pháp với hoạt động xét xử của Tòa án. Lý thuyết và thực tiễn ở các nƣớc có nền pháp lý văn minh cho thấy “Tư pháp” là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của Nhà nƣớc pháp quyền và của nền tƣ pháp dân chủ, bình đẳng và công bằng, bảo vệ hữu hiệu các quyền con ngƣời, quyền công dân. “Tư pháp” chính là biểu tƣợng của lẽ phải, công lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội ở các cấp độ khác nhau từ tranh chấp dân sự đến tranh chấp chính trị. Ở Việt Nam tồn tại khá nhiều cách hiểu khác nhau về tƣ pháp. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên thì thuật 9 ngữ “Tư pháp” đƣợc hiểu là: “Việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân (nói khái quát)” [12]. Theo quan điểm của GS. TS. Nguyễn Đăng Dung, thì “Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật” [7]. Ngoài ra, theo TS. Đinh Văn Ân, TS. Võ Trí Thành quan niệm “Tư pháp” đƣợc hiểu theo ba khía cạnh: Về khía cạnh pháp lý, đƣợc quan niệm nhƣ là một ý tƣởng cao đẹp về một nền công lý, giải quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng; các biểu hiện của một giá trị về lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Về khía cạnh thể chế Nhà nƣớc, tƣ pháp đƣợc sử dụng để chỉ một quyền lực trong ba quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ pháp. Trong việc xác định ba quyền, quyền tƣ pháp đƣợc xem là đồng nghĩa với quyền xét xử, một hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực hiện. Và theo khía cạnh khoa học tổ chức, tƣ pháp đƣợc sử dụng để nói về tổ chức tƣ pháp, một tập hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều chức danh liên hệ đến công tác xét xử [1]. Tóm lại,“Tư pháp” là một hoạt động nhân danh công lý của Tòa án để giải quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng và đƣợc coi là quyền xét xử của Tòa án. Theo đó, tƣ pháp trong nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi Tòa án (với tƣ cách cơ quan thực hiện chức năng xét xử) cần có những phán quyết chính xác, công bằng, một mặt nhằm bảo vệ những giá trị xã hội cao quý nhất của xã hội tránh khỏi sự xâm phạm của các vi phạm pháp luật đi ngƣợc lại lợi ích của xã hội, của nhân dân và Tổ quốc. Giống nhƣ khái niệm “Tư pháp”, ở Việt Nam cũng có các quan niệm 10 khác nhau về cơ quan tƣ pháp tuỳ theo cách tiếp cận của ngƣời nghiên cứu. Quan niệm thứ nhất, liên quan đến việc xem xét cơ quan tƣ pháp theo nghĩa hẹp, có tác giả đã đƣa ra khái niệm về tƣ pháp hình sự nhƣ sau: Tƣ pháp hình sự trong Nhà nƣớc pháp quyền là dạng thực hiện quyền lực nhà nƣớc của hệ thống cơ quan có thẩm quyền nhân danh công lý (cơ quan tài phán – Toà án) để xét xử và đƣa ra phán quyết đối với vụ án hình sự nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con ngƣời và của công dân, cũng nhƣ hoà bình và an ninh của loại, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chống tội phạm, góp phần đƣa các nguyên tắc đƣợc thừa nhận chung của Nhà nƣớc pháp quyền vào đời sống thực tế. Hoặc quyền tƣ pháp là khả năng và năng lực riêng có của các cơ quan Toà án chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nƣớc thực hiện để tác động đến hành vi của con ngƣời, đến các quá trình xã hội [18]. Từ các định nghĩa này có thể thấy, cơ quan tƣ pháp chỉ là Toà án. Quan niệm thứ hai tiếp cận cơ quan tƣ pháp theo nghĩa rộng có tính hệ thống, theo đó “khái niệm tư pháp không chỉ được dùng cho Toà án, mà còn cả các cơ quan nhà nước khác thực hiện chức năng có liên quan đến xét xử. Trước hết đó là Viện kiểm sát, rồi đến các cơ quan điều tra, thi hành án” [8]. Quan niệm thứ hai này phản ánh nhận thức khá phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay [19]. Cũng có thể tiếp cận khái niệm cơ quan tƣ pháp từ Hiến pháp và các đạo luật. Khác với các nƣớc, ở Việt Nam các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 không có quy định cụ thể về cơ quan tƣ pháp. Riêng Hiến pháp năm 1946 có chƣơng VI quy định riêng về cơ quan tƣ pháp bao gồm Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Cũng có ý kiến cho rằng, Hiến pháp năm 1946 là khá điển hình cho việc vận dụng 11 hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền mà một trong những biểu hiện là có chƣơng quy định riêng về cơ quan tƣ pháp và không chịu sự giám sát của Nghị viện. Các Hiến pháp sau này đã có sự thay đổi về cấu trúc, theo đó không còn chƣơng quy định riêng về cơ quan tƣ pháp mà thay vào đó là chƣơng quy định về TAND và Viện kiểm sát nhân dân VKSND. Tuy nhiên, tìm hiểu kỹ về Toà án quy định trong Hiến pháp năm 1946 thì thấy rằng, cơ cấu của Toà án nƣớc ta thời kỳ này có những điểm khá đặc thù, không hoàn toàn giống nhƣ quan niệm về cơ quan tƣ pháp theo nghĩa hẹp ở trên. Theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, Sắc lệnh số 31 ngày 19-3-1947 sửa đổi Sắc lệnh số 131 ngày 20-7-1946 về tổ chức Tƣ pháp công an, Sắc lệnh số 258-SL quy định cách tổ chức Công an quân pháp trong thời kỳ kháng chiến, thì trong cơ cấu tổ chức của Toà án không chỉ có thẩm phán xét xử (thẩm phán ngồi) mà còn có thẩm phán buộc tội (thẩm phán đứng) đƣợc gọi là Chƣởng lý, Biện lý, Phó Biện lý giữ vai trò công tố viên. Trong cơ cấu tổ chức của Tƣ pháp công an có cả Biện lý, Phó Biện lý, Thẩm phán sơ cấp. Biện lý có nhiệm vụ thi hành những bản án có hiệu lực. Trong quân đội, công an quân pháp đƣợc giao thẩm quyền thi hành bản án của Toà án binh. Nhƣ vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên xây dựng nền tƣ pháp non trẻ thì nội hàm khái niệm cơ quan tƣ pháp theo Hiến pháp năm 1946 đã đƣợc thu nhận thêm những thành tố khác nhƣ cơ quan công tố, điều tra, thi hành án. Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật về tƣ pháp, ngày 21-12-1999 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự (mới) thƣờng đƣợc gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999. Trong Bộ luật này có một chƣơng riêng quy định về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Điều 292 quy định khái niệm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nhƣ sau: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành 12 vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [13, Điều 292]. Trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp có nhiều điều luật quy định về các tội phạm cụ thể nhƣ Điều 293 về tội truy cứu trách nhiệm ngƣời không có tội; Điều 295 về tội ra bản án trái pháp luật; Điều 298 về tội dùng nhục hình; Điều 300 về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Điều 305 về tội không thi hành án, Điều 306 về tội cản trở việc thi hành án,… Nhƣ vậy, bằng việc thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất đã gián tiếp công nhận khái niệm cơ quan tƣ pháp theo nghĩa rộng, theo đó cơ quan tƣ pháp bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nƣớc trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm mới của Đảng về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Theo đó điều chỉnh lại nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, khẳng định là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp cùng với việc tăng tính độc lập của Tòa án. Các quy định về TAND đƣợc hiến định tại Chƣơng VIII, Hiến pháp năm 2013 gồm 5 điều (từ Điều 102 đến Điều 106) và trong một số điều khoản khác đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nƣớc. Trƣớc hết, Hiến pháp mới khẳng định Tòa án nhân dân là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [15, Điều 102, Khoản 1]. Quy định này nhằm bảo đảm vị thế và tính độc lập của Tòa án - một yêu cầu không thể thiếu đƣợc trong cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực ở nƣớc ta. Theo các nhà khoa học trong nƣớc, về cơ bản các quan niệm đều thống 13 nhất cho rằng quyền tƣ pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa ngƣời dân hoặc các tổ chức ngƣời dân lập ra (nhƣ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội,...) với nhau nhƣng cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nƣớc với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nƣớc với ngƣời dân và tổ chức do ngƣời dân lập nên. Nhƣ vậy, quyền tƣ pháp không chỉ là quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân, tổ chức không mang quyền lực nhà nƣớc, mà còn bao gồm quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, là một công cụ để kiểm soát việc thực hiện các hành vi thực thi quyền lực nhà nƣớc, trong đó có việc thực thi quyền hành pháp và quyền lập pháp. Nhƣ vậy, Hiến pháp năm 1992 quy định TAND chỉ là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định ngoài chức năng xét xử thì TAND còn thực hiện quyền tƣ pháp. Nội dung mới này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phân định quyền lực nhà nƣớc theo hƣớng TAND là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là định hƣớng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc ta theo kiểu nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang ý nghĩa thực tiễn, đây là cơ sở pháp lý để giao cho TAND có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện nay do các cơ quan hành chính đang thực hiện, ví dụ nhƣ việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đƣa ngƣời vào các trung tâm giáo dƣỡng, cai nghiện,… 1.1.1.2. Tính tất yếu của cải cách tư pháp ở nước ta Với vai trò là một hoạt động nhân danh công lý của Tòa án để giải quyết các tranh chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng – Tƣ pháp là một mảng quyền lực của Nhà nƣớc cần đƣợc hoàn thiện và phát triển. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan