Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Vai trò của thanh tra bộ tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự​...

Tài liệu Vai trò của thanh tra bộ tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự​

.PDF
109
68
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ XUÂN HÒA VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ XUÂN HÒA VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Trân trọng cảm ơn! Người cam đoan Lê Xuân Hòa MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................ 7 1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ....... 7 1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự ............................................................. 7 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự .......................... 10 1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự........................................... 12 1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ........ 17 1.1.5. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................... 18 1.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................. 23 1.1.7. Hình thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ......... 29 Thanh tra Bộ Tƣ pháp và vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 31 1.2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp.................................................................................... 31 1.2.2. Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự .................................................................................... 42 1.2. 1.3. Các điều kiện đảm bảo vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 56 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................. 59 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 59 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.1.4. Về quản lý công tác tổ chức cán bộ ................................................... 60 Về quản lý chuyên môn, nghiệp vụ.................................................... 61 Về khen thưởng và xử lý vi phạm ...................................................... 64 Về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................ 64 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự và những hạn chế, tồn tại ..................................................................... 67 Trong lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ ............................................. 67 Trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ ............................................. 69 Trong lĩnh vực khen thưởng, xử lý vi phạm ...................................... 72 Trong lĩnh vực thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ................... 76 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ...................................... 78 Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật ........................................... 78 Các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy ......................................... 81 Các vấn đề liên quan đến chất lượng công chức ................................ 83 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.4. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. Quan điểm và mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 84 2.4.1. Quan điểm bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................................. 85 2.4.2. Mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ...................................................... 89 2.4. 2.5. 2.5.1. 2.5.2. 2.5.3. 2.5.4. 2.5.5. Giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ........................................ 91 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ........................................................... 91 Kiện toàn tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp ....................... 93 Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tư pháp ....... 94 Đổi mới phương thức hoạt động ........................................................ 95 Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ....................................................................... 95 KẾT LUẬN .................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bàn về ý nghĩa, vị trí, vai trò của công tác thi hành án dân sự, Giáo sư James F Harrigan, chuyên gia tư vấn pháp lý cho cơ quan thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ cho rằng: Việc thi hành các bản án của quốc gia là yếu tố quan trọng nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tất cả các hệ thống pháp luật đều dựa vào các Tòa án để giải thích pháp luật bằng cách áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến cá nhân, tổ chức và nhà nước. Việc thực hiện các quyết định đã xem xét của Tòa án đạt được bằng nỗ lực pháp luật và sự tham gia của các bên tranh chấp chỉ được công nhận trong việc thi hành các bản án của Tòa án được đưa ra để giải quyết các tranh chấp. Việc thi hành đó, tiếp theo quá trình, là một phần không kém quan trọng. Nếu bản án không được thi hành, có nghĩa pháp luật mà bản án căn cứ vào không có ý nghĩa trên thực tế. Vì lý do đó, có một khái niệm riêng giữa hệ thống luật chung và Luật Dân sự khác là bản án phải được coi là chung thẩm, có giá trị ràng buộc, và có thể thi hành ngay sau khi ban hành, và việc thi hành án là quyền ưu tiên cao nhất của một hệ thống pháp luật [32, tr.3]. Việc thi hành án dân sự tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của các cá nhân và tổ chức có liên quan. Trong bối cảnh hội nhập sâu, rộng của nước ta hiện nay, thông qua việc tác động đến quyền, lợi ích của các chủ thể trong xã hội, hoạt động thi hành án dân sự trong một chừng mực nhất định có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và đặc biệt là lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước, pháp luật. Do đó, 1 vấn đề quản lý nhà nước về thi hành án dân sự luôn luôn được Bộ Tư pháp quan tâm, hoàn thiện và nâng cao chất lượng nhằm góp phần trong việc bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của, Nhà nước, công dân và duy trì kỷ cương phép nước. Với tư cách là cơ quan tham mưu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ Tư pháp (Sau đây gọi chung là Thanh tra Bộ) đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự; đảm bảo công tác này luôn theo đúng định hướng. Tuy nhiên, việc quản lý nhà nước trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng số lượng khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này chiếm 90% số lượng đơn, thư Bộ Tư pháp giải quyết hàng năm. Công tác thanh tra trong lĩnh vực này cũng còn hạn chế, ví dụ: Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không tiến hành thanh tra theo kế hoạch đối với lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án dân sự, mà chỉ thực hiện chức năng này thông quá việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra đột xuất trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Thanh tra năm 2010. Như vậy, mặc dù Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước toàn diện trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhưng lại không có chức năng thực hiện công tác thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành án dân sự là một trong những bất cập lớn của việc quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy, từ việc không thực hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành án dân sự dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc phòng ngừa, chấn chỉnh và xử lý đối với những vi phạm của cơ quan thi hành án dân sự và các công chức làm công tác thi hành án dân sự. Để công tác thi hành án dân sự có bước chuyển mình thật sự mạnh mẽ, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự; đặc biệt cần nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ. Về mặt lý luận, dù đã có các nghiên 2 cứu về thi hành án dân sự và về thanh tra, nhưng chưa có công trình nghiên cứu kết hợp cả hai lĩnh vực này. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự”. 2. Tình hình nghiên cứu Thi hành án dân sự là một trong các lĩnh vực nhận được sự quan tâm của các cơ quan và các nhà luật học trong nước thể hiện ở số lượng các công trình nghiên cứu trong khoảng hai mươi năm trở lại đây. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT; Cục Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số: 96-98-027/ĐT; Bộ Tư pháp chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”; tác giả Nguyễn Công Long có công trình: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001); tác giả Lê Kim Dung có công trình: “Civil Execution in Việt Nam; Reality Problems and Suggestion Towrds a WellFunctioning System” (Thi hành án dân sự Việt Nam; thực trạng, vấn đề và những gợi ý hướng tới một hệ thống hoàn thiện), (Luận văn thạc sĩ Luật học, 2002); tác giả Lê Xuân Hồng có công trình: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Trần Anh Tuấn có công trình: “Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002); tác giả Nguyễn Quang Thái có công trình: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt 3 Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003); tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004). Bên cạnh đó, không thể không đề cập tới những bài viết, nghiên cứu trao đổi đã được đăng tải trên các tạp chí có uy tín của ngành tư pháp như Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học, Bản tin Thi hành án dân sự về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. Về cơ bản các Luận văn và bài viết nêu trên đã nêu toàn cảnh công tác thi hành án dân sự, đã nêu lên được những khó khăn, vướng mắc qua đó đã đóng góp một phần không nhỏ về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn, giúp hoạt động thi hành án dân sự dần đi vào nề nếp và tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc. Tuy nhiên, hầu hết các Luận văn nêu trên đều chưa nêu và đánh giá về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, qua đó làm rõ vai trò của Thanh tra Bộ trong lĩnh vực này. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. 4 - Đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ về thi hành án dân sự trên cả hai phương diện: quy định của pháp luật và thực tiễn quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng hiện nay, đưa ra các quan điểm, yêu cầu, giải pháp để bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Các vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự của Thanh tra Bộ. 4.2. Phạm vi Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự tại cơ quan Thanh tra Bộ trong giai đoạn từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực ngày 01/7/2009) đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác để lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới của luận văn Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, làm rõ những mặt được, những mặt còn hạn chế, vướng mắc bất cập trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và nêu các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. 5 Phân tích các yêu cầu, quan điểm và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. 7. Bố cục của luận văn Gồm có phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự 1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự Hiện nay, dựa trên các quan điểm, nhận thức pháp luật khác nhau, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra hai quan niệm cơ bản về hoạt động thi hành án dân sự; cụ thể như sau: Quan niệm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng, vì: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự” [2, tr.43-44]. Quan điểm này thừa nhận “không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng...” nhưng lại cho rằng thi hành án “thực chất là hoạt động tố tụng của tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời” [53, tr.282]. Hoạt động thi hành án dân sự được coi là một giai đoạn tố tụng dân sự, là giai đoạn tiếp theo của hoạt động xét xử để đảm bảo Bản án và Quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đúng pháp luật. Tương tự như các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, hoạt động thi hành án dân sự hướng đến mục tiêu chung là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho nhà nước và nhân dân. Do vậy, tuy được đặt trong hệ thống cơ quan hành chính nhưng xét về bản chất, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. 7 Đối lập với quan điểm thứ nhất, quan niệm thứ hai lại cho rằng, thi hành án là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Theo quan niệm này thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng [2, tr.43-44]. Hay nói cách khác, theo quan điểm thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, có bản chất là hoạt động hành chính tư pháp vì những lý do sau [2, tr.43-44]: - Thứ nhất, tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng về bản chất là việc áp dụng các trình tự, thủ tục luật định để xác minh sự thật của các sự kiện đã diễn ra trên thực tế và giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của các cá nhân, tổ chức khác. Trong khi đó, thi hành án dân sự chỉ đơn thuần là quá trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm thực hiện các Bản án và Quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình thi hành án dân sự tôn trọng sự thỏa thuận, tự nguyện thi hành án của các đương sự. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành chỉ thực hiện quyền lực nhà nước khi các bên đương sự không tự nguyện thi hành. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình tố tụng là quá trình đi tìm sự thật để áp dụng pháp luật; còn thi hành án là quá trình có sự xen kẽ giữa việc chấp hành pháp luật và áp dụng pháp luật. - Thứ hai, trong lĩnh vực thi hành án dân sự có sự xen kẽ giữa các quan hệ mang tính chất tố tụng và quan hệ mang tính hành chính - tư pháp nhưng các quan hệ mang tính chất hành chính - tư pháp chiếm tỷ lệ cao hơn. Ngoài ra, việc tổ chức thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền nhưng ở một số lĩnh vực Nhà nước có thể ban hành các quy định 8 để xã hội hóa hoạt động này. Các hoạt động liên quan đến lĩnh vực thừa phát lại là ví dụ cụ thể cho luận điểm này. Đây cũng chính là một điểm khác biệt cơ bản so với hoạt động tố tụng nói chung bởi hoạt động tố tụng mang tính chất quyền lực nhà nước thuần túy. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Thừa phát lại được làm những công việc sau đây: 1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; 4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án. Trên sự ghi nhận của Quốc hội về kết quả đạt được trong việc thực hiện chế định thừa phát lại tại Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc hội và sự phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp hiện đang xây dựng Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại. Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định về các công việc thừa lại được làm bao gồm: 1. Tống đạt theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự các cấp, đương sự trong vụ việc dân sự, hành chính, cơ quan nhà nước và các tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại; tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 4. 9 Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. - Thứ ba, theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự không chỉ đối với các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân mà còn bao gồm cả Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại. Tóm lại, mỗi quan điểm về thi hành án dân sự nêu trên đều có những cơ sở khoa học và hạt nhân hợp lý riêng. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của mình, tôi cho rằng quan điểm thứ hai là hợp lý hơn cả; thi hành án dân sự không chỉ là hoạt động hành chính hay tư pháp đơn thuần cũng không phải là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Xét về bản chất, thi hành án dân sự nên được coi là hoạt động hành chính - tư pháp. Từ những căn cứ nêu trên, theo quan điểm cá nhân của tác giả: thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm đảm bảo Bản án, Quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền được thực thi trên thực tế. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự - Thứ nhất, trong hoạt động thi hành án dân sự luôn luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc; bao gồm: cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành và các đương sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014, đương sự bao gồm người được thi hành 10 án, người phải thi hành án và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Trong quan hệ này, cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên là những chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, có quyền áp dụng các biện pháp luật định để đảm bảo các Bản án, Quyết định được thực thi trên thực tế một các nghiêm chỉnh nhất nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. - Thứ hai, trong hoạt động thi hành án dân sự, tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp cũng được đề cao và tôn trọng. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Kể từ thời điểm được phân công tổ chức thi hành án, Chấp hành viên có quyền chủ động đối với phần lớn các hoạt động nghiệp vụ của mình trừ một số việc thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự như: ban hành quyết định ủy thác, quyết định trả đơn, đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành án. - Thứ ba, trong một chừng mực nhất định thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên sử dụng quyền lực nhà nước để bảo đảm Bản án, Quyết định của Tòa án và các quyết định dân sự khác theo quy định của pháp luật được thực thi trên thực tế. Do đó, việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm chỉnh các quy định về thi hành án đều dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử phạt bằng chế tài tùy mức độ nghiêm trọng của hành vi. Căn cứ theo quy định của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP, 11 thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được giao cho các chức danh sau: Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Thanh tra viên Thanh tra Bộ và Chánh Thanh tra Bộ với hình phạt chính là cảnh cáo và phạt từ tiền từ 500.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Ngoài ra, người có hành vi vi phạm có thể phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi. Bên cạnh đó, hoạt động thi hành án dân sự cũng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự. - Thứ tư, khác với thi hành án hình sự, trong thi hành án dân sự, phương pháp giáo dục, thuyết phục có ý nghĩa quan trọng và trong nhiều trường hợp mang tính quyết định; đây cũng là phương pháp đặc thù trong lĩnh vực này. Nhà nước cho phép và bảo hộ việc các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc thi hành án nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội hay xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. 1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự Thứ nhất, đảm bảo các Bản án, Quyết định được thi hành trên thực tế. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Tuy nhiên, như đã trình bày, việc thi hành án không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được thực thi trên thực tế mà còn bao gồm các Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự: “Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm: 12 1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật: a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; e) Quyết định của Trọng tài thương mại. 2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Về bản chất, quá trình tác nghiệp của Chấp hành viên thực chất là việc áp dụng các biện pháp thi hành án để đảm bảo nội dung hiến định đồng thời hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền, lợi ích hợp pháp cho các cá nhân và tổ chức khác. Với tính chất đặc thù của một hoạt động liên quan đến quyền con người, quyền sở hữu tài sản, thi hành án dân sự cũng chính là một trong những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến việc xâm phạm quyền con 13 người, quyền công dân. Chính vì thế, Nhà nước cần phải có quy định về cơ chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện nay, việc kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án được giao cho rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án.... Đối với cơ quan Bộ Tư pháp, công tác thanh tra, kiểm tra cũng được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm. Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực thi hành án dân sự được quy định cụ thể sau: + Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp thực hiện việc kiểm tra định kỳ theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất công tác thi hành án dân sự, đồng thời thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. + Thanh tra Bộ là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc thanh tra theo kế hoạch đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Kế hoạch thanh tra được Bộ trưởng phê duyệt trên cơ sở đề xuất của Thanh tra Bộ). Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Thanh tra năm 2010. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn đóng vai trò là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền và tham mưu cho Bộ trưởng trong việc xem xét lại đối với các Quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã có hiệu lực thi hành theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này). 14 Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không còn thực hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch về lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án. Việc thanh tra về nghiệp vụ thi hành án chỉ được thực hiện trong trường hợp thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm hoặc theo yêu cầu của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định. Quyền lợi của người được thi hành án được bảo vệ bằng dưới hai hình thức: do các đương sự tự thỏa thuận thực hiện hoặc được nhà nước bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên, các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự tôn trọng sự tự nguyện và cho phép các đương sự được quyền thỏa thuận trong thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc “Vấn đề dân sự, thương sự cốt ở hai bên”, trong mọi giai đoạn của quá trình thi hành án dân sự, các đương sự đều có quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được quyết định trong các bản án, quyết định. Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận đó. Việc pháp luật tôn trọng sự tự giải quyết giữa các bên có tác dụng làm giảm gánh nặng của cơ quan thi hành án, làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên và phù hợp với truyền thống của người Việt Nam khuyến khích hòa giải ở bất kỳ giai đoạn nào. Mặt khác, trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án hoặc không tôn trọng sự thỏa thuận trước đó, Nhà nước mà đại diện ở đây là cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành sử dụng quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khác với nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam từ ngày 01/7/1993, Tòa án nhân dân không còn được giao nhiệm vụ thi hành án dân sự mà công việc này được chuyển giao từ Toà 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan