Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay các giải pháp chủ yếu để phát huy...

Tài liệu Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

.DOC
17
113
83

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1 NỘI DUNG..........................................................................................................................................2 I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT THUẾ........................................................2 1. Khái niệm pháp luật thuế........................................................................................................2 2. Quan hệ pháp luật thuế...........................................................................................................2 3. Căn cứ xây dựng pháp luật thuế.............................................................................................3 4. Cơ cấu của đạo luật thuế Việt Nam........................................................................................3 II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay....................................................................4 1. Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước...................................................................................5 2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội...........5 3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.............................................................................................................................6 III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY- GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ PHÁP LUẬT THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ................................................................................................................7 1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở nước ta hiện nay............................................................7 2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường......................13 KẾT LUẬN.......................................................................................................................................15 0 LỜI MỞ ĐẦU Nghiên cứu về vai trò của thuế, các chuyên gia về luật thuế nhận định rằng: Pháp luật thuế đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích sản xuất phát triển và là nguồn thu chính cho ngân sách. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng tất yếu, cuốn hút toàn bộ nhân loại vào dòng chảy nó thì chính sách thuế chính là đòn bẩy quan trọng để tăng trưởng nền kinh tế. Quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những thời cơ và thách thức không nhỏ cho các quóc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản tự do hóa thương mại toàn cầu trong đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Đây là vấn đề có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính sách, pháp luật của nhà nước trên mọi lĩnh vực, trong đó là pháp luật thuế. Hiện nay, Việt Nam đã và đang từng bước thực hiện một cách có hiệu quả tiến trình cải cách và hoàn thiện chính sách pháp luật thuế theo hướng: đảm bảo yêu cầu hòa nhập nhưng không hòa tan; vừa bảo vệ nền sản xuất trong nước còn non trẻ lại vừa phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế; vừa phải thay đổi cơ cấu hệ thống pháp luật thuế sao cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nhưng vẫn phải đảm bảo cho nguồn thu cho ngân sách không bị biến động…Tuy nhiên, thực tiễn cũng chứng minh rằng hệ thống pháp luật thuế hiện hành vẫn còn tỏ ra nhiều bất cập, hạn chế so với thông lệ quốc tế.Vì vậy hoàn thiện chính sách thuế thực sự rất cần thiết cho việc phát triển kinh tế thị trường và công cuộc hiện đại hóa đất nước. Với mong muốn góp phần hiểu rõ hơn vai trò và thực trạng của pháp luật thuế để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng hoàn thiện pháp luật thuế, em xin chọn vấn đề “ Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay- các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” làm đề tài nghiên cứu cho bài tập lớn của mình. NỘI DUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT THUẾ 1. Khái niệm pháp luật thuế Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Quan hệ giữa thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Vậy pháp luật thuế là gì? Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu pháp lý nhất định. 1 Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt Nam cho thấy pháp luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, sử dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cái xã hội mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Điều này cũng giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách Nhà nước mặc dù giữa luật thuế và luật ngân sách Nhà nước có mối liên hệ nội tại. Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm: - Luật quản lý thuế 2006; - Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005. - Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008; - Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008; - Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008; - Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2008; - Luật thuế tài nguyên năm 2009; - Luật thuế sư dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 (chưa có hiệu lực). - Các nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. 2. Quan hệ pháp luật thuế Quan hệ thu, nộp thuế thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật đã trở thành quan hệ pháp luật thuế. Quan hệ pháp luật thuế mang một số đặc điểm sau: Thứ nhất, quan hệ pháp luật thuế mang nặng tính quyền uy. Hệ quả của quan hệ pháp luật thuế là sự chuyển giao một khối lượng tài sản ( có thể dưới hình thức giá trị hoặc dưới hình thức hiện vật, tùy thuộc vào từng thời kỳ) từ người nộp thuế cho nhà nước, vì vậy việc nộp thuế không phải là sự lựa chọn của đối tượng nộp thuế mà do yêu cầu của nhà nước. Quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật thuế được bảo đảm thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Thứ hai, quan hệ pháp luật thuế thường quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ. Tuy vậy, cho dù cụ thể đến đâu, các quy định này vẫn chỉ là quy tắc xử sự mà không thể quy định tất cả hoặc dự liệu được tất cả điều kiện mà quan hệ pháp luật thuế sẽ diễn ra. Vì vậy, các xử sự thực tế sẽ làm rõ ràng hơn, chi tiết hơn các quy định pháp luật nhưng không được làm trái pháp luật thuế cụ thể. Thứ ba, một bên tham gia quan hệ pháp luật thuế bao giờ cũng là cơ quan thuế. 3. Căn cứ xây dựng pháp luật thuế Pháp luật thuế phải được xây dựng dựa vào những tiêu chuẩn nhất định và điều chỉnh tổng thể các loại thuế khác nhau nhưng có mối liên hệ với nhau. Việc lựa chọn 2 một hệ thống pháp luật thuế, một đạo luật thuế phải được xem xét trên cơ sở đáp ứng những tiêu chí nhất định. Cụ thể như sau: Thứ nhất, căn cứ khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế: Đảm bảo nguồn vật chất chi tiêu của nhà nước; Điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội. Việc đánh thuế không được khánh kiệt của dân chúng; Yêu cầu phải bao quát hết nguồn thu; Yêu cầu của các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ quốc tế trong từng giai đoạn cụ thể. Thứ hai, căn cứ ban hành về một sắc thuế cụ thể: Việc ban hành một văn bản thuế, ngoài việc tuân thủ những căn cứ của hệ thống pháp luật thuế, cần phải dựa trên những điều kiện cụ thể: Phải đảm bảo tính thống nhất của đạo luật thuế cụ thể trong cơ cấu hệ thống pháp luật thuế; Phải đảm bảo tính ổn định nội tại trong quá trình áp dụng từng luật thuế và ổn định trong tổng thể hệ thống pháp luật thuế; Đảm bảo tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. 4. Cơ cấu của đạo luật thuế Việt Nam Pháp luật thuế Việt Nam được ban hành trên cơ sở yêu cầu thực tiễn và học hỏi, tiếp thu tinh hoa hệ thống luật thuế đã và đang áp dụng ở các quốc gia điển hình. Theo đó, một văn bản thuế pháp luật quy định một loại thuế bao gồm các nội dung chủ yếu: tên của văn bản pháp luật thuế, đối tượng nộp thuế, miễn giảm thuế, đối tượng thu thuế và xử lý vi phạm. Cụ thể như sau: - Tên của luật thuế: Tên của đạo luật thuế thường gắn liền với loại thuế mà luật đó điều chỉnh. Nó khái quát và thể hiện được đặc trưng của loại thuế đó, giúp cho các đối tượng có liên quan có thể phân biệt được dễ dàng đạo luật thuế này với đạo luật thuế khác. - Đối tượng nộp thuế: là các tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của luật thuế. Mỗi loại thuế có thể có đối tượng nộp thuế khác nhau, tùy vào đối tượng tính thuế. - Đối tượng gánh chịu thuế: là các tổ chức, cá nhân thực tế gánh chịu số tiền thuế. Họ có thể chính là đối tượng nộp thuế hoặc không phải là đối tượng nộp thuế, - Đối tượng không thuộc diện gánh chịu thuế: thường được pháp luật quy định rất cụ thể, rõ ràng từng trường hợp. Đối tượng không thuộc diện nộp thuế nhất định là các tổ chức, cá nhân có đủ dấu hiệu của đối tượng nộp loại thuế đó đồng thời có các điều kiện khác đi kèm. - Đối tượng có nghĩa vụ khấu trừ thuế thay hoặc nộp thuế thay: là những tổ chức có đủ điỉu kiện, có nghĩa vụ khấu trừ khoản tiền thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và nộp thay cho họ. -Căn cứ tính thuế: là những số liệu cơ bản để xác định số thuế phải nộp. Căn cứ tính thuế thường được xác định dựa trên đối tượng chịu thuế và mức thuế suất áp dụng cho từng đối tượng chịu thuế. - Kê khai, nộp thuế: Quy định về kê khai, nộp thuế bao gồm những nội dung trình tự đã được tổng kết và có tính phản ánh quy luật của đối tượng nộp thuế từ khâu 3 trước khi tiến hành hoạt động làm phát sinh nghĩa vụ thuế đến khâu phải nộp một khoản tiền thuế kho bạc nhà nước theo thời hạn định trước. -Quy định về miễn thuế, giảm thuế: là những quy định thể hiện sự khuyến khích hoặc giúp đỡ gián tiếp đối với người nộp thuế hoặc đối tượng chịu thuế. -Xử lý vi phạm pháp luật thuế: bao gồm các nội dung mà dựa vào đó, các chủ thể có liên quan có thể hoặc bị áp dụng một hình thức xử lý nhất định: hành chính, hình sự. Thông thường, những hành vi có thể bị xử lý vi phạm thường được liệt kê trong văn bản pháp luật. II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây: 1. Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu 4 chi ngày càng tăng. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước. 2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội. Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu...đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến 5 khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế. 3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng. Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội. Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY- GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ PHÁP LUẬT THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở nước ta hiện nay 6 Ở nước ta, trong thời gian qua, hệ thống pháp luật thuế đã từng bước được đổi mới, hoàn thiện và bước đầu đã đạt được những kết quả rất quan trọng như đảm bảo nguồn thu ổn định và chủ yếu cho ngân sách Nhà nước; đáp ứng được yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế; khuyến khích mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh; tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong và ngoài nước, … và quan trọng nhất là đã hình thành một hệ thống chính sách thuế tương đối, đầy đủ, hợp lý áp dụng thống nhất và bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt nguồn vốn chủ sở hữu. Cụ thể: kết quả thu ngân sách Nhà nước năm 2010 do ngành thuế quản lý ước đạt 400,8 nghìn tỷ đồng, vượt 11% so dự toán pháp lệnh, tăng 21,4% so với năm 2009. Kết quả thu như trên đã góp phần đưa tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 27,9% GDP, trong đó tỷ lệ huy động từ thuế phí đạt 25,2% GDP, cao hơn so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 10 đã đề ra là 2122% GDP. Đây là kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên,thực tế cũng chỉ ra rằng: việc áp dụng thuế ở nước ta hiện nay cũng còn gặp rất nhiều hạn chế và bất cập. Hiện nay, chúng ta chỉ mới chủ yếu tập trung vào việc cải cách, hoàn thiện về mặt chủ trương chính sách thuế mà chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc cải tiến, hoàn thiện các điều kiện cần thiết để đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế, đặc biệt là về công tác quản lý thu thuế; công tác tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ ngành thuế; công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế; ý thức pháp luật trong cộng đồng dân cư; … nên trong thực tế, chính sách thuế hiện hành của chúng ta mặc dù đã tương đối hoàn chỉnh, đầy đủ, nhưng khi triển khai áp dụng trong thực tiễn chưa đạt được những kết quả như mong muốn, có nhiều trường hợp việc áp dụng một số chính sách thuế gặp rất nhiều khó khăn như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao…Những hạn chế này được thể hiện cụ thể như sau: a.Năng lực thuế thấp: Nguồn thu thuế ở nước ta chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu Ngân sách Nhà nước với khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90% trong đó: - Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách Nhà nước. Thế nhưng, khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam đang tham gia. - Thu từ thuế gián thu chiểm tỷ trong lớn trong đóng góp ngân sách Nhà nước, 45% trong giai đoạn 2001 – 2005. Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao gồm thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng, dầu. Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập khẩu giảm theo. 7 - Kinh tế thế giới khủng hoảng và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động mạnh, theo dự kiến thì tăng trưởng kinh tế 2009 chỉ dạt 5-6%, chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 9% sẽ làm cho Ngành thuế quản lý 2009 giảm thu khoảng 5 – 7% so với dự toán được giao. - Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế cũng đã làm cho giảm thu thuế 5 – 6% so với được giao thêm nữa là giá cả của dầu thô dao động trong khoản 70 USD cũng làm giảm thu ngân sách. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, việc thực hiện các giải pháp về thuế làm giảm số thu ngành thuế năm 2009 khoảng 16 – 20% so với dự toàn được giao. b.Thất thu thuế lớn Mặc dù ngành thuế đang ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế chưa thực sự hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không chỉ thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn. Ví dụ như tháng 8-2009, qua phản ánh của báo chí, Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh đã thành lập đoàn kiểm tra thực hiện rà soát trên 2000 các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm. Kết quả, Cục Thuế đã xử lý trên 600 doanh nghiệp, truy thu về cho nhà nước trên 22 tỷ đồng. Trong đó, có không ít các doanh nghiệp “đại gia” có danh tiếng trong nước như công ty TMDV Phong Vũ, Công ty CP Thương mại Nguyễn Kim... Có những doanh nghiệp cũng giao “hóa đơn” cho khách hàng nhưng thực chất chỉ là “giấy chứng nhận giao nhận”, còn hóa đơn thuế VAT thì không thấy đâu. Ông Bùi Xuân Luyện, đại diện ủy ban MTTQ phường 4, quận 5 cho biết: Qua phản ánh của người tiêu dùng và người dân trên địa bàn thì hiện nay số doanh nghiệp vi phạm kiểu như thế này là không đếm xuể. Theo ông, “Việc chỉ xử phạt 4,5 triệu đồng đối với doanh nghiệp vi phạm là quá nhẹ”. Mặt khác, việc các doanh nghiệp vi phạm được là do người tiêu dùng chẳng quan tâm lấy hóa đơn làm gì vì luật vẫn chưa bổ sung quyền lợi cho họ. Do đó nên chăng Bộ Tài chính giao quyền cho doanh nghiệp tự in hóa đơn GTGT, khi đó doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với việc giao hóa đơn cho khách hàng, thay vì lòng vòng qua nhiều khâu, dễ nảy sinh tiêu cực”.1Như vậy, phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng này không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Thanh tra Chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của ngành thuế trong thời gian qua. Thanh tra chính phủ cho biết, sau khi hoàn tất việc thanh tra 1 http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=8017 8 tại Tổng Cục thuế, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế Tp Hồ Chí Minh đã phát hiện nhiều sai phạm với số tiền hơn 11.000 tỷ đồng. Thanh tra Chính phủ cho rằng, việc Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế và một số Cục thuế địa phương ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về thuế đã dẫn đến thất thu thuế và trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Tổng số tiền thuế thất thoát do một số văn bản không đúng quy định của pháp luật được ban hành là hơn 373 tỷ đồng. Trong đó, việc hướng dẫ miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hoạt động dịch vụ cung cấp suất ăn công nghiệp cho doanh nghiệp chế xuất không đúng quy định đã làm thất thu 233,4 tỷ đồng. c .Xác định sai số tiền thuế: Trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý thuế là chủ thể trực tiếp xác định số tiền thuế hoặc kiểm tra việc tự xác định số thuế của chủ thể nộp thuế nhưng đã xác định sai số thuế. Việc xác định sai số thuế thường dẫn đến tranh chấp, khiếu nại do cơ quan thuế đã xác định số tiền thuế phải nộp nhiều hơn thực tế.2 d.Thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn của cấp trên: Một trong những đặc trưng của áp dụng pháp luật chính là đưa những quy định áp dụng chung vào từng trường hợp cụ thể. Tuy những hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã tương đối đầy đủ, nhưng việc vận dụng tại các cơ quan quản lý thuế tại địa phương còn nhiều lúng túng. Nếu chỉ nhìn vào số lượng những thắc mắc của Cục thuế địa phương gửi lên Tổng cụ thuế, sẽ rất dễ dẫn đến quan niệm rằng pháp luật thuế còn rất nhiều bất cập cần khắc phục hoặc nhiều trường hợp còn chưa có quy định. Tuy nhiên, nếu đọc công văn trả lời của Tổng cục thuế thì sẽ thấy ngay rằng đại đa số các trường hợp thắc mắc đều đã được giải thích hết sức rõ ràng qua Thông tư hướng dẫn thi hành. Điều đó chứng tỏ, việc nắm vững và vận dụng pháp luật thuế của các Cục thuế địa phương còn rất nhiều hạn chế.3 e.Chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế: Ưu đãi thuế là những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể nộp thuế trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chia sẻ gánh nặng thuế khi chủ thể nộp thuế gặp những sự cố khách quan bất lợi (thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ…). Chính sách ưu đãi thuế chỉ thực sự có hiệu quả khi việc triển khai thực hiện được nhanh chóng và đúng đối tượng. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức quản lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài những yêu 2 3 2,3,4,5 Trường đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, “ áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội-2009 ( trang 237-249) 9 cầu của pháp luật. Không kể dến mục đích gây khó khăn để thực hiện hành vi tham nhũng, thì những yêu cầu quá mực này đã cản trở chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm giảm hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi thuế.4 f.Còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được giải quyết thỏa đáng. Với thực trang đã phân tích ở trên, thì hiện tượng khiếu nại, tố cáo chắc chắn sẽ xuất hiện. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, việc khiếu nại, tố cáo là quyền của cá nhân, tổ chức và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng nghĩa với việc công chức quản lý thuế hay cơ quan quản lý thuế đã vi phạm pháp luật. Bên cạnh những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo thỏa đáng, đúng pháp luật, cũng vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không được giải quyết đúng thời hạn, dây dưa, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực tiếp theo của cá nhân, tổ chức khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, hiện tượng bao biện, không nhận trách nhiệm và không xử lý đúng pháp luật công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế mắc sai phạm cũng làm cho sự việc càng trở nên phức tạp hơn.5 Vậy nguyên nhân của những thực trạng trên là gì? Theo thầy Trần Vũ HảiGiảng viên bộ môn luật tài chính, Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do: - Ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu kém. Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, và đồng thời để nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà nước thường không cụ thể, nên đối với một số chủ thể nộp thuế, những thiệt hại vật chất cụ thể dường như lớn hơn so với những giá trị vô hình mà nhà nước đem lại. Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp luật. Bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế không phải có được ngay lập tức bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá nhân, tổ chức trong xã hội thật sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa vụ nộp thuế. Ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên thông qua nhiều phương thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu quả. Theo đánh giá của chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến, nhưng công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung, do vậy hiệu quả còn nhiều hạn chế. - Trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế. 4 5 10 Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn bản, số lượng chủ thể nộp thuế ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, những thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức được việc trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không đồng đều. Nhiều địa phương, trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, làm sai hoặc sợ làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc ra quyết định. Bên cạnh đó, chính vì nhận thức không đúng về vai trò của chủ thể nộp thuế, nên một số công chức thuế luôn giữ quan niệm, chủ thể nộp thuế là “những kẻ muốn trốn thuế”, nên nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay, nhưng vẫn cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc, chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Công tác quản lý và ra quyết định quản lý thuế còn nhiều tiêu cực. Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, công chức thuế thông đồng với chủ thể nộp thuế để gian lận thuế vẫn còn xảy ra. Những tiêu cực này đã dẫn đến những quyết định trái pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác nên thường gây ra tình trạng khiếu kiện, tố cáo và thất thoát cho ngân sách nhà nước. Mặc dù trong thời gian vừa qua, công tác phòng và chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhưng nhiều vụ việc trốn lậu thuế bị phát hiện thường có liên quan đến công chức quản lý thuế. Từ những phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng và các vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, thì có thể khẳng định rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động quản lý thuể còn khá phổ biến như đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng nhiều hình thức tinh vi khác. - Cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, thì những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước ngày càng được đẩy mạnh. Với số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế như khai thuế qua mạng internet, phần mềm dữ liệu quản lý thông tin người nộp thuế, các trang website thông tin về ngành thuế…, nếu được đầu tư thoả đáng sẽ đem lại những cải thiện đáng kể, nhằm giảm chi phí xã hội dành cho công tác quản lý thuế, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành thuế nhìn chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào tạo công chức quản lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ thông tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật. - Còn nhiều hạn chế về tính hợp lý và sự minh bạch của hệ thống pháp luật thuế. 11 Có lẽ trên hết, hiệu quả áp dụng pháp luật chịu ảnh hưởng lớn nhất từ chính các quy định pháp luật được áp dụng. Như chúng ta đã biết, nếu pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội và có tính định hướng, thì sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, nếu pháp luật bất cập thì sẽ kìm hãm sự phát triển. Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không tránh khỏi những bất cập. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển nhanh, “bỏ xa” những quy định pháp luật cũng là một thực tế. Hiện nay, hệ thống pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý, nên khi áp dụng vào thực tiễn sẽ gặp khó khăn, không hiệu quả. 2. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường Cùng với xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta thực sự rất cần thiết. Vậy để phát huy tối đa vai trò của pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, chúng ta cần phải làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, dưới đây em xin đưa ra một số giải pháp, kiến nghị như sau: a. Cải tiến và hoàn thiện chính sách thuế ,hệ thống luật pháp nói chung và luật thuế nói riêng. - Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế). - Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu là kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội. - Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế. - Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận. - Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội. - Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. - Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế. - Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. - Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được. 12 - Sửa đổi, bổ sung một số điều luật thuế. Ví dụ Luật thuế GTGT hiện hành vẫn còn qui định đối tượng không chịu thuế còn quá rộng. Do đó, các nhà làm luật nên bổ sung luật thuế giá trị gia tăng theo hướng: đưa hàng hóa là nông, lâm, thủy, hải sản chưa qua chế biến vào đối tượng không chịu thuế GTGT, không phân biệt trực tiếp sản xuất hay kinh doanh thương mại; hoặc vẫn tiếp tục áp dụng không thu thuế GTGT đối với các loại hình dịch vụ liên quan tới tài chính như: tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh chứng khoán… nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính và đảm bảo phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới. Đối với tất cả các loại hình dịch vụ bảo hiểm bao gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh và các loại hình bảo hiểm khác đều thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT; đối với các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ, vật tư xây dựng thuộc diện trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu, qua thời gian thực hiện thuế cho thấy việc không đánh thuế GTGT chỉ giải quyết giúp đỡ được nhà đầu tư ở chỗ không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế. Về vấn đề này, hoàn toàn chúng ta có thể khắc phục được bằng các giải pháp kỹ thuật mà cơ chế vận hành của thuế GTGT có thể giải quyết được như cho khấu trừ và giải quyết hoàn thuế nhanh cho các nhà đầu tư…. Bởi vậy, cần thiết phải đưa các hàng hóa này vào diện chịu thuế GTGT; cần thiết phải sớm ban hành ngưỡng chịu thuế GTGT, bởi lẽ trình độ quản lý của ngành thuế còn nhiều hạn chế và khả năng chấp hành của một bộ phận lớn người dân có hạn. Các hộ kinh doanh có doanh số hàng năm “nằm” dưới ngưỡng chịu thuế sẽ điều chỉnh sang đối tượng không chịu thuế GTGT và nên áp dụng một loại thuế tương tự như thuế doanh thu trước đây nhưng phải đơn giản hóa tối đa số lượng thuế suất và khi thu nên áp dụng chế độ “khoán” doanh thu.6 b. Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặc khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai phạm. Việc chống thất thu thuế đang là vấn đề của tất cả các quốc gia. Ở nước ta việc thất thu thuế diễn ra một cách phổ biến ở tất cả các loại thuế. Vì vậy, để chống thất thu thuế các cơ quan thuế các cấp cần thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng. Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử 6 http://www.luathongduc.com/tu-van-thue/492/0/mot-so-bien-phap-chu-yeu-gop-phan-hoan-thien-luat-thue-gia-tri-gia-tang-den-2020/ 13 lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra sẽ được ngành Thuế đẩy mạnh và làm quyết liệt trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biên pháp thu hồi nợ thuế, triển khai cá biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có dấu hiệu thất thu lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào ngân sách Nhà nước. c. Tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cơ sở hạ tầng ngành thuế. Sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế. d. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính thuế và phòng, chống tham nhũng trong ngành thuế Thủ tục hành chính nói chung và thủ tục hành chính thuế nói riêng hiện nay đã có nhiều cải cách nhằm phục vụ xã hội được tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều thủ tục vẫn còn rườm rà, gây nhiều bất cập cho chủ thể nộp thuế cần được tiếp tục cải tiến. Bên cạnh đó, công tác phòng, chống tham nhũng cần phải được đẩy mạnh, thường xuyên, để đảm bảo công bằng và tránh thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước. e. Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư về các luật thuế và các văn bản dưới luật Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế cần đa dạng, phù hợp với những đối tượng khác nhau và tránh hình thức. Có thể sử dụng nhiều kênh thông tin hiệu quả như truyền hình, báo viết và đặc biệt là internet để thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật thuế7. Cơ quan quản lý thuế có thể thiết kế đường dây nóng để tư vấn 7 Trong thời gian qua, nhiều kênh truyền hình đã phối hợp với cơ quan thuế thực hiện các tiểu phẩm truyền hình nhằm tuyên truyền cho chính sách thuế. Điều này rất hữu ích vì thông qua các tác phẩm này, người dân tiếp nhận những quy định pháp luật thuế dễ dàng hơn. 14 trực tiếp cho chủ thể nộp thuế để họ thực hiện nghĩa vụ thuế được nhanh chóng, thuận lợi hơn. KẾT LUẬN Từ những suy luận ở trên chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng đặc biệt của pháp luật thuế. Do đó, để góp phần nâng cao vai trò của pháp luật thuế, chúng ta cần thực hiện các giải pháp đã nêu trên: triển khai thực hiện tốt Nghị định 51/CP về hóa đơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, phòng chống hiệu quả những vi phạm gây thất thu ngân sách đồng thời góp phần đổi mới phương thức quản lý thuế theo hướng hiện đại và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế; hai là đẩy mạnh tiến trình cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế, tiếp tục ra soát, cải cách thủ tục hành chính thuế; tăng cường công tác quản lý nội ngành, thắt chặt kỷ cương kỷ luật, đổi mới phương pháp làm việc, củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. 15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Thuế Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008 2. http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=8017 3. Trường đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, “ áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội-2009 ( trang 237-249) 4. http://www.luathongduc.com/tu-van-thue/492/0/mot-so-bien-phap-chu-yeu-gop-phan-hoanthien-luat-thue-gia-tri-gia-tang-den-2020/ 5. http://www.tapchitaichinh.vn 6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp “ Hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, Nguyễn Văn Trung, Hà Nội 2004 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan