Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam...

Tài liệu Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam

.PDF
95
93
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH : CHÍNH TRỊ HỌC MÃ SỐ : 60.31.20 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LƯU MINH VĂN HÀ NỘI, THÁNG 10 - 2011 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………………………..………………2 MỞ ĐẦU……………………...…………………………………………....…………..3 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM…………………….........….…......9 1.1. Khái niệm phát triển bền vững ……………………………………….…......…….9 1.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững…………......................….……....20 1.3. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề phát triển bền vững ở một số nước……………...30 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ …………………………….…............37 2.1. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về kinh tế…………….............….37 2.2. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về xã hội…………….....….....…..45 2.3. Vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững về tài nguyên môi trường…......…52 2.4. Những vấn đề đặt ra về vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam………………………………………………………………………………...…61 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM......................................................70 3.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững…....................................................................................................71 3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển bền vững ….........................72 3.3. Phát triển đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường..….74 3.4. Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh và hiệu quả……..............…85 KẾT LUẬN ………………………………………………………………................90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..….92 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. Chương trình nghị sự CTNS 2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 3. Phát triển bền vững PTBV 4. Xã hội chủ nghĩa XHCN 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển là vấn đề lớn và không dễ đối với các quốc gia, các dân tộc và ở mọi thời đại. Trong suốt thế kỷ XX và những thập kỷ đầu thế kỷ XXI chúng ta đã chứng kiến sự thành công và cả sự thất bại từ phạm vi quốc gia đến phạm vi toàn cầu trong tìm lời giải bài toán phát triển. Trong thời gian dài tư duy về phát triển không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên phạm vi toàn cầu bị chi phối bởi khuynh hướng duy kinh tế, về thực chất đó là kiểu quan niệm ngầm ẩn đồng nhất phát triển xã hội với phát triển kinh tế, hay nói các khác là sẵn sàng hy sinh các mặt khác của sự phát triển (xã hội và môi trường…) cho sự phát triển kinh tế. Đúng là không thể nói đến phát triển nếu không giải được vấn đề nền tảng là phát triển kinh tế. Tuy nhiên thực tiễn của thế kỷ XX cho thấy hệ bên cạnh những bước tiến bộ vượt bậc về kinh tế thì những hệ quả xấu, ngoài dự tính của chính quá trình phát triển cũng ngày càng lộ rõ và trở thành yếu tố đe dọa chính sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội và cả nhân loại. Chẳng hạn, sự bùng nổ dân số, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, sự suy thoái môi trường, sự biến đổi khí hậu v.v. Do đó, bài học lớn được rút ra là: trong quá trình phát triển, con người cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên mà bản chất của nó là sự “đồng tiến hóa” hay chính là phát triển bền vững (PTBV). Kể từ “Báo cáo Tương lai chung của chúng ta” (năm 1987) đến Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992) và nhất là sau Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (năm 2002), PTBV đã trở thành Chương trình nghị sự của thế kỷ XXI, và thu hút được sự quan tâm sâu rộng của nhiều chính khách, nhà khoa học có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, trong đời sống quốc tế, PTBV thực sự mới chỉ nhận được sự đồng thuận trên những vấn đề chung, cơ bản có tính nguyên tắc. Do tính chất liên ngành, phức tạp, nhiều vấn đề PTBV đến nay còn chưa được giải quyết thỏa đáng và nhận thức thống nhất từ những vấn đề như bản chất, điều kiện đảm bảo, khả năng, mức độ áp dụng….đang cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Ở Việt Nam, hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, Nhà nước ta cùng với nhân dân đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Cùng với xu thế chung của thế 3 giới, vấn đề PTBV được đặt ra ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới. Song đến khi tiến trình này đi vào chiều sâu thì nó mới thực sự trở nên cấp bách, thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội. Từ thực tế phát triển của đất nước, một vấn đề được quan tâm là sự nhận thức sâu sắc hơn về khả năng, điều kiện đảm bảo PTBV ở Việt Nam, làm sao để có thể kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển. Sự kết hợp hài hòa đó là yêu cầu khách quan từ thực tiễn song, không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra, mà rất cần đến vai trò của chủ thể, mà trước hết là vai trò của Nhà nước trong việc tạo ra sự PTBV. Trong những năm qua, bằng các chính sách kinh tế, xã hội, môi trường đúng đắn, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam phát triển với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, chất lượng cuộc sống của người dân ở các vùng miền được nâng lên, các vấn đề xã hội từng bước được giải quyết, các nỗ lực nhằm phục hồi và bảo vệ tài nguyên và môi trường đã đạt được những kết quả nhất định… Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng miền đang ngày càng doãng ra, nền kinh tế vẫn có nguy cơ tụt hậu xa so với các nước, tình trạng tham nhũng, làm ăn phi pháp, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội…vẫn đang ngày càng tăng lên, đe dọa đến những thành tựu PTBV mà Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực đạt được. Những hạn chế đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố chính sách, pháp luật PTBV còn thiếu đồng bộ, chưa kết hợp hài hòa các nhân tố của PTBV trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách, việc thực hiện chính sách còn nhiều lúng túng, đặc biệt là tình trạng tham ô, tham nhũng đang trở thành lực cản lớn trên con đường PTBV ở nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là Nhà nước cần phải làm thế nào để vừa đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, lại vừa đảm bảo được sự tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường trong sạch, sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài nguyên thiên nhiên đất nước. Đây thực sự là vấn đề khó khăn, cần phải được giải quyết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của nhà nước với phát triển bền vững ở Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững. Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của công cuộc Đổi mới đất nước, trong nhiều năm trở lại đây vấn đề PTBV được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Bằng các công trình nghiên cứu của mình, họ đã có những đóng góp nhất định cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTBV ở nước ta. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề PTBV, trước tiên, phải kể đến công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành: “Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm PTBV theo Báo cáo Brundlantd, theo đó, PTBV được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. Công trình “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí PTBV cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam thực hiện. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Bruntland và kinh nghiệm các nước, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời, nhóm tác giả cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam. Công trình nghiên cứu:“Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải chủ biên đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa đồng thời tổng quan nhiều mô hình PTBV. Đề tài cấp Bộ: “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS Hà Huy Thành (chủ biên), Viện Nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu những nội dung cơ bản, quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên Hợp Quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những bài học về PTBV phù hợp với điều kiện Việt Nam. Cuốn “Phát triển bền vững của Việt Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng” (2007) của GS.TSKH Ngô Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi đã nghiên 5 cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam trong thời gian Đổi mới, phân tích những yếu tố hay những điều kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV. 2.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước với phát triển bền vững.. Thực tế thế kỷ XX chỉ ra rằng nếu đặt sự PTBV vào “bàn tay thị trường” thì không thể đem lại hiệu quả như mong muốn, bởi những khuyết tật của cơ chế này. Những khuyết tật đó là căn cứ luận chứng cho sự cần thiết phải có “bàn tay hữu hình” của nhà nước tham gia vào điều tiết, quản lý xã hội. Song thực tế cũng chứng minh rằng nếu nhà nước can thiệp bất hợp lý các quá trình phát triển cũng có thể trở thành trở ngại cho PTBV. Do đó, nhà nước can thiệp đến mức độ nào, sử dụng công cụ như thế nào ở từng giai đoạn phát triển là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu. Xung quanh vấn đề này, trước hết phải nói tới Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, (2010) do Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức. Cuốn Kỷ yếu này bao gồm rất nhiều bài viết phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với PTBV trong đó, có những bài nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với PTBV như bài: “Vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững” của GS.TS Thomas Meyer; bài: “Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Trần Thành…. Luận án Tiến sỹ Chính trị học: “Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội” (2011) của Võ Thị Hoa. Trong luận án này, vai trò nhà nước được đề cập dưới góc độ đảm bảo công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế và xã hội thông qua các chính sách và pháp luật. Dưới góc độ PTBV thì công bằng xã hội chính là điều kiện để đảm bảo sự kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Do đó, ở mức độ nhất định, các chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội cũng là nhằm đem lại sự PTBV đất nước. Luận án Tiến sỹ: “Vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (2010) của Võ Hải Long, nghiên cứu vấn đề PTBV dưới góc độ luật pháp, một công cụ quản lý của nhà nước. Trong luận án, tác giả đã phân tích, đánh giá vai trò của pháp luật về PTBV kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời nêu lên những giải pháp để phát huy vai trò của pháp luật đối với PTBV đất nước. 6 “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững” (2006) của Phạm Thị Ngọc Trầm. Tác phẩm này đã phân tích vai trò của nhà nước thông qua việc tổng quan luật pháp và chính sách về tài nguyên môi trường, đánh giá ưu điểm và hạn chế của các chính sách đó đối với PTBV, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên, môi trường. Có thể thấy rằng những công trình trên đã đề cập đến ở một mức độ nhất định vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay, song chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống, sâu sắc về vấn đề này dưới góc độ khoa học Chính trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Thông qua việc luận giải một số vấn đề lý luận về PTBV và vai trò nhà nước đối với PTBV, luận văn tập trung đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam qua việc thực hiện các chính sách, pháp luật trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, từ đó nêu lên những khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ: - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTBV và vai trò của nhà nước với PTBV. - Phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước với PTBV qua việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách môi trường. - Nêu lên những khuyến nghị cơ bản để nâng cao hơn nữa vai trò của nhà nước với PTBV ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: sự PTBV bị quy định bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong luận văn này hướng vào nghiên cứu vai trò của nhà nước và cụ thể hơn là của nhà nước ta hiện nay đối với PTBV. - Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ 1986 đến nay và tập trung vào phân tích các chính sách của nhà nước ta liên quan đến chủ đề PTBV. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: - Cơ sở lý luận: 7 + Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển và vai trò của nhân tố nhà nước đối với phát triển xã hội. + Đường lối phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam. + Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề PTBV và về vai trò của nhân tố nhà nước đối với PTBV. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp như: hệ thống, logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, và so sánh. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn đã phân tích lý luận vai trò nhà nước với PTBV. - Luận văn đã đánh giá vai trò nhà nước đối với PTBV ở Việt Nam trên các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường. - Luận văn đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò nhà nước đối với PTBV ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn gồm 3 chương và 11 tiết. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm phát triển bền vững. 1.1.1. Khái lược lịch sử nghiên cứu. Phát triển (Development): được hiểu là sự vận động, tiến triển theo chiều hướng đi lên. Tuy vậy, không phải bao giờ các hiện tượng, các quá trình lịch sử cũng vận động theo xu hướng đi lên mà còn có cả sự thụt lùi, thoái bộ. Sự phát triển của lịch sử nhân loại 300 năm qua cho thấy chính sự phát triển kinh tế phiến diện, với mục tiêu là lợi nhuận tối đa cho các chủ đầu tư, tuy đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng nhưng lại dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế, làm nảy sinh các vấn đề xã hội gay gắt và tàn phá môi trường nghiêm trọng. Thêm vào đó, sự gia tăng dân số nhanh chóng nhất là ở các nước đang phát triển đã tiêu thụ một lượng năng lượng lớn chưa kịp tái tạo. Có lẽ chưa bao giờ sự phát triển do chính bàn tay và khối óc của con người kiến tạo nên lại đem lại những hệ quả uy hiếp chính cuộc sống của con người như hiện nay. Các cuộc suy thoái kinh tế, lạm phát cao, bất ổn xã hội, thiên tai… đều là sự cảnh báo rằng phương thức phát triển hiện tại của con người vẫn chưa bền vững, chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, nếu không muốn một sự diệt vong đã từng xảy ra với xã hội Maya lặp lại thì con người buộc phải đi tìm một phương thức PTBV hơn. Vậy PTBV là gì? Để đưa ra một khái niệm như hiện nay, nhân loại đã phải trải qua một quá trình nhận thức lâu dài. Có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (từ thế kỷ XVIII đến năm 1987): là quá trình tìm tòi và xác định nội hàm khái niệm. Từ cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ý tưởng PTBV đã hình thành, ban đầu chủ yếu là vấn đề bảo vệ môi trường. Do quá trình khai thác mạnh mẽ tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho công nghiệp dẫn đến sự tàn phá môi trường, đã dự báo hậu quả nhỡn tiền mà con người sẽ phải gánh chịu là rõ rệt. Bởi vậy, nhiều phong trào bảo vệ môi trường, đã sớm xuất hiện từ đầu thế kỷ XX ở Mỹ và Tây Âu. 9 Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1970 đã gây ra sự thiếu hụt năng lượng trầm trọng và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển. Vấn đề giới hạn của tăng trưởng được đặt ra nếu con người không quan tâm đến vấn đề sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Vì vậy, năm 1972, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về Môi trường và con người ở Xtốckhôm (Thụy Điển) với sự tham gia của 113 đại diện của chính phủ các nước trên thế giới. Hội nghị này được coi là hội nghị đầu tiên của nhân loại bàn về vấn đề phát triển dưới quan điểm gắn với việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống của con người. Chính những nỗ lực về nhận thức và hành động trên của nhân loại tiến bộ là tiền đề cho sự ra đời của thuật ngữ PTBV năm 1980 trong công trình “Chiến lược bảo tồn thế giới” được đưa ra bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế - IUCN. Sau các thảm họa ở Bhopal (Ấn Độ) năm 1984 và Chernobyl năm 1986 thì những nhận thức sâu sắc về nguy cơ môi trường do con người gây ra cũng như mối quan hệ giữa môi trường và phát triển càng được quan tâm mạnh mẽ. Do đó, năm 1987, báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Báo cáo Bruntland), do Uỷ ban thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) đưa ra, đã xác định nội hàm của khái niệm PTBV, làm tiền đề cho nhận thức của con người. Báo cáo quan niệm PTBV là: “Sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” [15, tr.251] báo cáo cũng cho rằng con người có thể đạt được cả hai mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường nếu sử dụng công nghệ và tổ chức xã hội thích hợp. - Có thể thấy quan niệm về PTBV trong Báo cáo Bruntland đã tháo gỡ được bế tắc trong nhận thức về vấn đề này của nhân loại, mở ra một hướng đi mới giúp các nước giải quyết mối quan hệ giữa môi trường và phát triển. - Đóng góp nữa của Báo cáo là đã bổ sung vấn đề sự công bằng giữa các thế hệ trong việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Điều này được coi là “đột phá về mối quan hệ giữa các thế hệ trong sự phát triển” [15, tr. 250]. Điều đó đòi hỏi thế hệ hiện tại phải có trách nhiệm sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn lực để đem lại cơ hội phát triển cho các thế hệ tương lai. 10 - Cuối cùng, khái niệm đã bao quát được tính thời gian, tính liên tục của phát triển. PTBV cần phải được xem xét trong tầm nhìn dài hạn, “hay các lợi ích của nó phải được duy trì không hạn định” [37, tr.14]. Nói cụ thể hơn, lợi ích do các đề án, các chương trình, chiến lược do nhà nước mang lại cho người dân là không thể có sự hạn chế về yếu tố thời gian. Ví dụ: chính sách xóa đói nghèo chỉ hỗ trợ tiền giúp người nghèo có cái ăn, mặc, ở trong khoảng thời gian 5 năm, sau đó họ lại tái nghèo thì chính sách đó là chưa bền vững. Có thể nói những ý tưởng mới về PTBV mà Báo cáo Bruntland mang lại như: con người vừa có thể phát triển mà không làm tổn hại tới môi trường, công nghệ và tổ chức xã hội là giải pháp căn bản, sự công bằng và tính trách nhiệm giữa các thế hệ, tính thời gian và tính liên tục trong phát triển đã thực sự thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Từ sau Báo cáo này, thuật ngữ PTBV đã được phổ biến rộng rãi. Như vậy, điểm nổi bật trong nghiên cứu về PTBV giai đoạn này là: - Xác định được nội hàm khái niệm PTBV. - Hướng đến hình thành hệ tiêu chí đánh giá, đo lường PTBV. - Xác định khung các vấn đề chủ đạo của quá trình PTBV đó là xác lập quan hệ cân bằng, hợp lý giữa 3 tiểu nhân tố: Sinh thái - Kinh tế - Xã hội. Giai đoạn thứ hai, đây là giai đoạn hoàn thiện và đưa ý tưởng PTBV vào thực tiễn, với hai mốc quan trọng: + Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển do Liên hợp quốc tổ chức tại Rio de Jannero (Braxin) với sự tham dự của 172 quốc gia trên thế giới. Hội nghị đã thông qua một số văn kiện quan trọng, tiêu biểu là Tuyên ngôn Rio 92 và Chương trình nghị sự 21(Agenda 21). Tuyên ngôn Rio gồm 27 nguyên tắc cơ bản về vấn đề môi trường và phát triển. Còn Chương trình nghị sự 21 là một văn kiện đồ sộ gồm 40 chương, được xem là khuôn khổ hành động cấp quốc gia và quốc tế đầu tiên vì sự PTBV. Điểm đặc biệt trong văn kiện này là sự nhấn mạnh yếu tố con người, bên cạnh yếu tố môi trường trong nội hàm khái niệm PTBV bởi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Đây là sự phát triển mới đi đến hoàn thiện cơ bản về nội hàm khái niệm. 11 + Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV được tổ chức tại Johannesburg (Nam Phi) với 166 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg và Bản Kế hoạch thực hiện PTBV, khẳng định lại các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện Agenda 21. Điểm đáng lưu ý là Hội nghị này đã cụ thể hóa thêm và phát triển hoàn thiện nội hàm khái niệm với ba trụ cột chính: bền vững về kinh tế; bền vững về xã hội; bền vững về môi trường. Vậy, trong 10 năm (từ năm 1992 đến năm 2002) đã có hai Hội nghị quốc tế về PTBV được tổ chức, điều đó thể hiện: - Vấn đề PTBV không phải là vấn đề của một quốc gia nào mà là mối quan tâm chung, mang tính chất toàn cầu, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, các nước đều có sự ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và thành quả PTBV chỉ đạt được khi có sự nỗ lực chung của các quốc gia trên thế giới. - Qua các hội nghị, các bản tuyên bố, nội hàm khái niệm không ngừng được bổ sung với phương pháp tư duy và cách tiếp cận mới, hệ thống, toàn diện, sâu rộng hơn, nó bao quát các vấn đề kinh tế, xã hội, sinh thái, sự bình đẳng giữa các thế hệ. - Thể hiện quyết tâm cao của các nước, mong muốn biến ý tưởng PTBV trở thành hiện thực, thông qua các chương trình, các kế hoạch cụ thể, từ đó định hướng cho các nước xây dựng chương trình hành động phù hợp với thực tiễn. Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về PTBV, trong đó, tiêu biểu là khái niệm trong Chiến lược phát triển bền vững tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 1992. Theo đó, “Phát triển bền vững là phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bền vững môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của họ” [38, tr.3]. Khái niệm trên đã bao quát được hai vấn đề cơ bản của PTBV: Thứ nhất, PTBV phải là sự phát triển kinh tế, xã hội lành mạnh trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường. - Phát triển kinh tế bền vững đó là sự phát triển kinh tế hướng đến thỏa mãn những tiêu chí như: tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản xuất, chú trọng phát triển “công nghệ sạch” và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. 12 - Phát triển xã hội bền vững nhấn mạnh việc phát triển con người và vấn đề công bằng xã hội. Tức là ta phải đảm bảo được công bằng xã hội trong phân phối, cung cấp đủ các dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ công cộng đến mọi người dân; phải tạo điều kiện cho con người có cơ hội được bộc lộ, phát triển năng lực bản thân và cải thiện chất lượng cuộc sống. - Bền vững về môi trường sinh thái thể hiện ở việc duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người sao cho việc khai thác đó ở một giới hạn nhất định, cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên Trái đất. Ba nội dung trên cũng chính là ba mục tiêu, ba tiêu chí hợp thành sự PTBV, nó có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau và là tiền đề, điều kiện cho sự PTBV. Mặc dù mỗi nhân tố có vai trò, vị trí riêng trong phát triển song đó không phải là phép cộng giản đơn của các số hạng kinh tế, xã hội, môi trường mà là sự kết hợp hài hòa giữa các nhân tố để kiến tạo nên sự PTBV. Thứ hai, PTBV còn phải đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên môi trường. Điều đó có nghĩa là sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống vừa thỏa mãn được nhu cầu của thế hệ hôm nay nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi trường sống của các thế hệ mai sau. Như vậy, nếu trước đây sự phát triển thiên về tăng trưởng kinh tế để lại nhiều hệ lụy về vấn đề môi trường và xã hội, thì ngày nay PTBV dường như tất yếu trở thành phương thức phát triển của xã hội hiện đại để đem lại sự phát triển hài hòa mọi mặt. Nói như PGS.TS Hà Huy Thành thì: “phát triển bền vững là sự phát triển được hình thành trong phương thức sản xuất, trong phương thức phát triển và tổ chức thích ứng nền kinh tế - xã hội trong mỗi quốc gia và ở tầm toàn cầu” [38, tr.9]. 1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững. Cùng với sự phát triển của thế giới, từ sau năm 1986, Việt Nam đã sớm tiếp thu tư tưởng về PTBV. Đáng chú ý là năm 1991, Chính phủ đã thông qua “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000”. Đây là một trong những kế hoạch quốc gia đầu tiên được xây dựng theo quan điểm PTBV, tạo tiền đề cho quá trình PTBV ở Việt Nam. 13 Tiếp đó là Chỉ thị số 36-CT/TW về việc “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày 25-6-1998 của Bộ Chính trị. Chỉ thị đã nêu quan điểm của Việt Nam là “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[32, tr.4]. Nắm bắt được xu thế chung của thời đại và yêu cầu cấp thiết khi đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII lần đầu tiên đã đưa vào trong Văn kiện thuật ngữ PTBV. Trong những bài học kinh nghiệm rút ra sau 10 năm Đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái” [9, tr.459]. Tuy nhiên vấn đề PTBV chủ yếu nhấn mạnh đến phương diện kinh tế và xã hội: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội” [9, tr.168]. Và tiêu chí để đánh giá sự PTBV chưa có sự lồng ghép yếu tố môi trường: “Lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ” [9, tr.471]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã đánh dấu mốc quan trọng trong hiện thực hóa chủ trương PTBV của Việt nam thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010). Quan điểm của Đảng ta là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường….Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [9, tr.699-700]. Vậy, quan điểm PTBV của Đảng ta về cơ bản là phù hợp với xu hướng chung của thế giới, thêm vào đó, trong “Đường lối phát triển kinh tế”, Đảng ta còn mở rộng nội hàm khái niệm, đó là kết hợp phát triển kinh tế với lĩnh vực văn hóa, an ninh quốc phòng để phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược ở Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để mục tiêu PTBV, nhất là vấn đề môi trường được đảm bảo thực hiện, Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế 14 hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá các giải pháp phát triển” [9, tr.700]. Nếu như trong các Văn kiện trước đó Đảng ta chưa nhấn mạnh đến yếu tố môi trường trong phát triển thì Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt yếu tố môi trường vào hệ quy chiếu và trở thành một thước đo quan trọng hàng đầu, cùng với nhân tố kinh tế và xã hội để đánh giá sự phát triển. Điều đó thể hiện nhận thức sâu sắc và quyết tâm của Đảng ta nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường - cái nôi của sự sống con người trong từng bước phát triển. Quan điểm của Đại hội chính là định hướng chủ đạo để mọi chính sách của Nhà nước hiện thực hóa mục tiêu PTBV. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục nâng cao hơn nữa vấn đề PTBV thông qua việc coi đó là một bài học kinh nghiệm, bài học về “Phát triển nhanh và bền vững” với nội dung: “Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững…phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển, phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững” [9, tr.178-179]. Quan điểm về phát triển nhanh và bền vững là sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với tình hình ở Việt Nam hiện nay. Phát triển nhanh đặt ra hết sức cấp thiết, để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. PTBV để đảm bảo sự phát triển hài hòa vì con người và cũng là cơ sở để phát triển nhanh. Điều đó thể hiện một mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nhanh và PTBV. So với quan điểm tại Đại hội Đảng lần thứ IX, tư duy về PTBV ở Đại hội này đã phát triển sâu sắc hơn, chú ý đến các chiều cạnh của sự phát triển: ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn, số lượng và chất lượng, chiều rộng và chiều sâu. Ở mọi giác độ của sự phát triển, Đảng ta đều quán triệt việc thực hiện PTBV. Có thể nói, PTBV đã thực sự trở thành quan điểm chủ đạo, thành nguyên tắc trong thiết kế phát triển đất nước. Từ bài học về phát triển nhanh và bền vững, tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011), Đảng ta lại nhấn mạnh một lần nữa và đã đưa thành quan điểm phát triển đầu 15 tiên trong 5 quan điểm phát triển cho giai đoạn 2011-2015. Đảng ta nhấn mạnh: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Nội dung gồm ba vấn đề chính: thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường. Trong nội dung này, bền vững kinh tế nhấn mạnh đến ổn định kinh tế, coi trọng chất lượng, hiệu quả và phát triển kinh tế theo chiều sâu. PTBV xã hội nhấn mạnh đến thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. PTBV môi trường coi trọng bảo vệ, cải thiện môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Thứ hai, Đảng ta khẳng định nước ta có điều kiện phát triển nhanh và PTBV đồng thời cũng nhấn mạnh phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Cuối cùng, để phát triển nhanh và bền vững, Đảng nhấn mạnh đến việc giữ vững ổn định chính trị và tăng cường quốc phòng an ninh. Có thể nói rằng điểm nhấn quan trọng tại Đại hội là quan điểm về PTBV của Đảng. Lần này chúng ta yêu cầu về PTBV cao hơn, phát triển nhanh phải gắn liền với PTBV trong mọi kế hoạch. Để mục tiêu PTBV được hiện thực hóa, đồng thời để hưởng ứng Chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc về PTBV, Nhà nước ta đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về PTBV trong các chính sách phát triển. Năm 2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm đảm bảo PTBV đất nước trong thế kỷ XXI. Định hướng này nêu lên những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để PTBV. Chiến lược cũng chỉ rõ PTBV đất nước phải dựa trên cơ sở “kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [31, tr.5]. Định hướng Chiến lược phát triển của Việt Nam gồm 5 phần: 1- PTBV - con đường tất yếu của Việt Nam. 2- Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm PTBV. 316 Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm PTBV. 4- Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm. 5- Tổ chức thực hiện PTBV. Mục tiêu tổng quát của PTBV của Việt Nam là: đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân, sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa của 3 mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Định hướng xác định 8 nguyên tắc chính là: 1. Con người là trung tâm của PTBV; 2. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn trước mắt; 3. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là yếu tố không thể tách rời trong quá trình phát triển; 4. Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không gây trở ngại tới cuộc sống của thế hệ tương lai; 5. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho CNH, thúc đẩy nhanh, mạnh và PTBV đất nước; 6. PTBV là nhiệm vụ của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, của các đoàn thể xã hội và cộng đồng dân cư và mọi người dân; 7. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm PTBV đất nước; 8. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ môi trường, với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Về kinh tế, Định hướng xác định 5 lĩnh vực được ưu tiên phát triển là: 1- Duy trì kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững; 2- Thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; 3- Thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch; 4Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững; 5- PTBV các vùng và địa phương. Về xã hội, định hướng Chiến lược xác định 5 lĩnh vực ưu tiên là: 1- Tập trung nỗ lực để xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; 2Tiếp tục giảm mức tăng dân số và tạo thêm việc làm cho người lao động; 3- Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm tạo thêm việc làm cho người lao động; 4Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước; 5- Phát triển về số lượng và nâng cao chất 17 lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh môi trường. Về môi trường, Chiến lược xác định 9 lĩnh vực ưu tiên là: 1- Chống tình trạng thoái hóa đất, sử dụng có hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; 2- Khai thác hợp lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước; 3- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; 4- Bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; 5- Bảo vệ và phát triển rừng; 6- giảm ô nhiễm không khí ở các khu đô thị và khu công nghiệp; 7- Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; 8Bảo tồn đa dạng sinh học; 9- Thực hiện các biện pháp giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai. Từ những trình bày trên có thể nhận xét về Chiến lược PTBV của Việt Nam: - Chiến lược PTBV của Việt Nam là sự kế thừa kinh nghiệm của các nước trên thế giới và sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trên những vấn đề cơ bản của PTBV như: xây dựng Chiến lược toàn diện; Chiến lược PTBV ở các lĩnh vực có liên quan đến các khía cạnh cụ thể của PTBV; Chiến lược PTBV theo ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã cụ thể hóa Chiến lược thành những chương trình, chính sách phát triển phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. - Trong từng lĩnh vực, Chiến lược PTBV ở Việt Nam xác định rõ những nội dung cụ thể, xây dựng hệ thống các giải pháp đồng bộ về nhận thức, kinh tế, kỹ thuật…đặc biệt nhấn mạnh giải pháp về thể chế, chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện có kết quả những lĩnh vực ưu tiên. Như vậy, có thể thấy rằng khung lý thuyết cho sự PTBV ở Việt Nam đã được định hình một cách cụ thể. Song để hiện thực hóa nó, chúng ta cần nhận thức được những thuận lợi và những thách thức cơ bản: Về thuận lợi: thứ nhất, điều cốt lõi và mang tính nhân văn rất sâu sắc của mục tiêu PTBV chính là phát triển vì con người, trung tâm của sự phát triển. PTBV ở Việt Nam lại được lãnh đạo bởi một chính Đảng của đại đa số nhân dân lao động, được quản lý bởi một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, PTBV - phát triển vì con người luôn là mục tiêu của đường lối, chính sách của Nhà nước. Về mặt chính trị, đó là đảm bảo vững chắc cho việc thực hiện Chiến lược PTBV. Thứ hai, công cuộc Đổi mới đất nước đang gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường, điều đó được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế 18 cao và ổn định trong nhiều năm, đời sống nhân dân càng ngày được cải thiện về mọi mặt, chúng ta cũng đang nỗ lực sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên môi trường. Đây là tiền đề để ta tiếp tục thực hiện mục tiêu PTBV. Thứ ba, sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước là cơ sở quan trọng nhất để đưa đường lối, chính sách PTBV vào cuộc sống. Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta còn gặp không ít thách thức cần phải vượt qua: Về nhận thức: các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh nền kinh tế mà chưa giải quyết triệt để nhiều vấn đề xã hội bức xúc, chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Về kinh tế: nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về PTBV ít có đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư tập trung chủ yếu cho các các công trình mang lại lợi ích trước mắt, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Trong sản xuất, do lượng vốn có hạn nên những công nghệ mà Việt Nam nhập khẩu thường lạc hậu từ 2-3 thế hệ, khiến năng suất lao động thấp, mức độ chi phí nguyên nhiên vật liệu cho một đơn vị giá trị sản phẩm cao, gây lãng phí tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường; bên cạnh đó, số nợ của Việt Nam tuy chưa tới giới hạn nguy hiểm nhưng đang tăng lên nhanh chóng, đe dọa tính bền vững sự phát triển tương lai, trong khi vốn vay sử dụng chưa được hiệu quả; sản phẩm xuất khẩu và tiêu dùng trong nước chủ yếu là sản phẩm thô, mức độ chế biến còn rất thấp; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, trong khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã bị khai thác tới hạn. Về mặt xã hội: Việt Nam là một nước đông dân, hơn 80 triệu người, sức ép dân số đang gia tăng. Dân số đông dẫn đến tình trạng thiếu việc làm ngày một gay gắt, thêm vào đó, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng; một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây ra thất thoát, tốn kém các nguồn của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định và phá hoại sự cân đối sinh thái. Do là một nước còn nghèo nên trong phát triển, ta chú trọng vào tăng trưởng kinh tế nhất là tăng trưởng GDP để nuôi một số lượng dân đông, nên ít chú ý tới hệ 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan