ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯƠNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------
ĐINH NGUYỄN AN
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------
ĐINH NGUYỄN AN
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS
Mã số
: 62.22.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn
2. PGS,TS. Trần Thành
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Triết học với đề tài “Vai trò Nhà nước
trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn và PGS,TS.Trần Thành.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác.
Hà Nội, Ngày 21 tháng 04 năm 2015
Tác giả luận án
Đinh Nguyễn An
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
6
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu bản chất, đặc điểm của toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
6
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu cơ hội và thách thức trong thực
tiễn hội nhập kinh tế quốc tế
11
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò nhà nước
nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
20
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
29
2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức của hội nhập
kinh tế quốc tế
29
2.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
29
2.1.2. Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
33
2.2. Nội dung vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
57
Chương 3: VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ Ở VIÊT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
72
3.1. Thực trạng vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
72
3.1.1. Nhà nước xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập quốc tế
trên cơ sở nhận thức và dự báo chính xác cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế
72
3.1.2. Nhà nước điều chỉnh, tạo ra những điều kiện thuận lợi về
thể chế, chính sách, pháp luật đối với việc nắm bắt cơ hội,
vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
78
3.1.3. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế, phát huy nội lực
kết hợp với tranh thủ ngoại lực nhằm tận dụng cơ hội vượt
qua thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế
83
3.1.4. Nhà nước đàm phán, ký kết và thực hiện các hiệp định,
hợp đồng kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
87
3.1.5. Vai trò giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái trong hội nhập kinh tế quốc tế
95
3.1.6. Nhà nước đấu tranh đảm bảo chủ quyền quốc gia, nâng cao
vị thế đất nước trên trường quốc tế
98
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò Nhà nước
trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam
102
3.2.1. Khắc phục tình trạng năng lực dự báo của Nhà nước chưa
theo kịp sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và khó lường
của thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế
103
3.2.2. Giải quyết có hiệu quả tình trạng năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn giải quyết cơ hội, thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế
105
3.2.3. Sớm khắc phục tình trạng hệ thống pháp luật Việt Nam
còn tồn tại nhiều khác biệt, mâu thuẫn với các quy định,
luật pháp quốc tế
109
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI
TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
114
4.1. Dự báo những yếu tố tác động đến vai trò Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
114
4.1.1. Những yếu tố tác động tích cực
114
4.1.2. Những yếu tố tác động tiêu cực
118
4.2. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay
4.2.1. Quán triệt đường lối “chủ động và tích cực” hội nhập quốc tế
123
123
4.2.2. Quán triệt phép biện chứng duy vật; kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
125
4.2.3. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu .............127
4.3. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay
130
4.3.1. Nâng cao năng lực dự báo của Nhà nước kịp thời giải quyết
cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
130
4.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
với cơ cấu hợp lý, đủ về số lượng, cao về chất lượng
132
4.3.3. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy Nhà nước, đổi mới
phương thức quản lý nhằm phát huy mọi nguồn lực giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
135
4.3.4. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hội nhập kinh
tế quốc tế đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc và phù hợp với
những quy định và luật pháp quốc tế
KẾT LUẬN
137
141
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
143
TÀI LIỆU THAM KHẢO
144
PHỤ LỤC
158
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các quốc gia, dân tộc, từ nhỏ đến lớn; từ các quốc
gia đang phát triển đến các quốc gia phát triển; không phân biệt chế độ chính
trị hay tôn giáo. Nó đã và đang tạo ra sự biến động nhanh chóng, sâu sắc, phức
tạp và khó lường trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự
đến khoa học kỹ thuật và công nghệ; từ các quan hệ giai cấp, dân tộc đến các
quan hệ sắc tộc và quan hệ tôn giáo,… Toàn cầu hóa được xem là một xu thế
phát triển tất yếu khách quan của thời đại và hội nhập quốc tế là một quá trình
phù hợp với những quy luật khách quan đó. Trong hội nhập quốc tế, hội nhập
kinh tế quốc tế vừa là mặt cơ bản, trung tâm, vừa chi phối hội nhập trên tất cả
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập
trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu
vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội X, Đảng ta tiếp tục phương châm “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
Về Hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn khẳng định: 1) hội nhập kinh tế
quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hội nhập
kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; 2) hội nhập kinh tế quốc
tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước; 3)
chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ
tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
1
thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những
sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả; 4) để đủ sức hội nhập kinh tế quốc
tế cần nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường
trong nước, xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh; xử lý đúng đắn lợi ích
giữa nước ta và các đối tác; 5) chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế
giới, tích cực tham gia đàm phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ
chức, các hiệp định, chế định quốc tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh
táo và thích hợp.
Vậy là, quan điểm, chủ trương về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà
nước ta là rõ ràng, minh bạch, tích cực và chủ động. Nhờ vậy, công cuộc đổi
mới của Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, đảm bảo an ninh chính trị, cải thiện đời sống nhân dân và củng cố niềm tin
của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những luồng “gió lành”
cũng không ít những độc hại; thời cơ luôn đi liền với thách thức. Để tiếp tục
hội nhập sâu rộng và hiệu quả, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải nâng cao vai trò
trong giải quyết mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế.
Cho đến nay, đã có không ít công trình trong và ngoài nước nghiên cứu
về đề tài mang tính thời sự này. Các công trình đó đã phác họa một bức tranh
tổng thể, khá đa dạng, phong phú về thế giới đương đại, đặc biệt là xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, các công trình đó chưa thực sự
nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống, dưới “lăng kính” triết học về vai trò Nhà
nước trong mối quan hệ với cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
2
Xuất phát từ “mảnh đất còn trống” trong nghiên cứu trước đây về đề tài
này và từ nhiệm vụ mới của Nhà nước trong điều kiện nước ta đang hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tôi đã lựa chọn vấn đề Vai trò
Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam hiện nay làm tiêu đề luận án Tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ
bản nhằm thực hiện tốt hơn vai trò Nhà nước trong giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích những vấn đề lý luận về cơ hội và thách thức của hội
nhập kinh tế quốc tế; vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai: Đánh giá thực trạng và khái quát những vấn đề đặt ra trong việc
thực hiện vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức qua thực tiễn hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Thứ ba: Dự báo nhân tố tác động đến vai trò Nhà nước trong thời gian
tới; khẳng định quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt
hơn vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay trong giai đoạn mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu : Luận án nghiên cứu vai trò Nhà nước trong
việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò Nhà nước thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tuy
nhiên, luận án chỉ tập trung vào nghiên cứu vai trò Nhà nước trong việc giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
3
Hội nhập quốc tế có phạm vi rộng, bao trùm trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,… trong khuôn khổ luận án,
tác giả chỉ đề cập đến hội nhập kinh tế quốc tế với tư cách là mặt cơ bản, trung
tâm của hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước; đặc
biệt, từ năm 2006 - khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển; lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước,
vai trò của nhà nước, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ...
Các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về toàn cầu hóa, về tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và về vai trò Nhà nước
trong giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án kế thừa kết quả của một số công trình khoa học về nhà nước,
vai trò Nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng, sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, hệ thống cấu trúc, thống kê và
một số phương pháp khác...
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Một là, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò Nhà nước trong
việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đánh giá vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay; khái quát một số vấn
đề đặt ra đối với việc thực hiện vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
4
Ba là, dự báo nhân tố tác động đến vai trò Nhà nước trong việc giải quyết
cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới; khẳng định
quan điểm và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn vai trò Nhà
nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Cung cấp luận cứ khoa học cho việc giải quyết mối quan
hệ giữa cơ hội và thức thức, vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, quản lý kinh tế, các
doanh nghiệp, ... trong việc nâng cao nhận thức và giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và
học tập các môn Triết học Mác - Lênin, Nhà nước và Pháp luật, Khoa học hành
chính, Quan hệ quốc tế ở các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm và các
học viện...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận án được
kết cấu thành 04 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu bản chất, đặc điểm của toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu, khách quan và
hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển hợp quy luật, có tác động,
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, đối
với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề này,
khoảng hơn 20 năm gần đây, đã có nhiều các công trình khoa học trong và
ngoài nước đề cập đến ở những khía cạnh và góc độ khác nhau.
Ở trong nước, có thể kể đến một số công trình sau đây: Toàn cầu hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [92] của tác giả Lê Hữu Nghĩa (2003); Tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế - xã hội ở Việt
Nam [23] do tác giả Tô Xuân Dân và Nguyễn Thành Công (đồng chủ biên,
2006); Toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học
đương đại [120] của các tác giả Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thị Hồng Diễm (đồng
chủ biên, 2011); Hội nhập Quốc tế: một số vẫn đề lý luận và thực tiễn [in trong
83] của tác giả Phạm Quốc Trụ (2011); Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam [58] của tác giả Mai Lan Hương (2012), … Ở
nước ngoài là các công trình: Toàn cầu hóa với thế giới thứ ba [in trong 53]
của tác giả Lý Thận Minh (2000); Chiếc Lexus và Cây ôliu [76] của Nhà báo
nổi tiếng người Mỹ Thomas Friedman (2005), …
Với tầm nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã cố gắng xây dựng
“một bức tranh” toàn cảnh, hiện thực và sống động nhất về toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Chính những luận điểm quan trọng trong các công trình
6
này là nguồn tài liệu đa dạng, phong phú để luận án kế thừa và tiếp tục đi sâu
nghiên cứu.
Quan niệm về toàn cầu hóa, mặc dù chưa có sự thống nhất, nhưng trong
các công trình: Toàn cầu hóa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [92] của tác
giả Lê Hữu Nghĩa (2003); Toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển bền vững từ
góc nhìn triết học đương đại [120] của các tác giả Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thị
Hồng Diễm (đồng chủ biên, 2011); … các tác giả đã đề cập tương đối sâu sắc
và toàn diện những vấn đề lý luận - thực tiễn; đều thừa nhận hạt nhân, bản chất
của toàn cầu hóa là quá trình toàn cầu hóa kinh tế, khẳng định những “nấc
thang” trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc trưng cơ bản của toàn cầu
hóa là làm tăng lên ngày càng nhiều sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà trước hết là kinh tế.
Điều đó biểu hiện ở hai quá trình. Một là, sự gia tăng các luồng giao lưu quốc
tế về thương mại, vốn, công nghệ, dịch vụ… Hai là, hình thành và phát triển
các thị trường thống nhất trên phạm vi toàn cầu và tăng cường các định chế và
cơ chế tổ chức, quản lý hoạt động giao dịch kinh tế quốc tế.
Đề cập đến những yếu tố thúc đẩy toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế từ cuối thập niên 80 (thế kỷ XX) trở lại đây, các tác giả đều cho rằng, có ba
yếu tố cơ bản: Thứ nhất, đó là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
đặc biệt là sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, vốn đã trở thành lực lượng sản xuất
chính. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ cuối thập niên 70
của thế kỷ XX đã làm thay đổi sâu sắc các họat động kinh tế xã hội của con
người. Thứ ba, là sự hình thành và phát triển và ngày càng vươn vòi ra khắp
thế giới của các công ty xuyên quốc gia, là chính sách tự do hóa thương mại
của các nước, trước hết là các nước tư bản phát triển phương Tây. Trong đó,
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại
đây đã làm thay đổi sâu sắc các họat động kinh tế - xã hội của con người, đóng
vai trò đặc biệt quan trọng.
7
Tác giả Mai Lan Hương (2012) trong tác phẩm Vai trò của Nhà nước đối
với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam [58], đã chỉ ra sự cần thiết phải
phân biệt rõ hai khái niệm “toàn cầu hóa kinh tế” và “hội nhập kinh tế quốc tế”.
Nếu như, trong khái niệm “toàn cầu hóa kinh tế”, tác giả Mai Lan Hương cơ
bản nhất trí với các quan niệm của các tác giả nêu trên, thì trong khái niệm “hội
nhập kinh tế quốc tế”, tác giả đã phân tích và chỉ rõ, hội nhập kinh tế quốc tế là
quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực
và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa kinh tế, mở cửa kinh tế trên các
cấp độ đơn phương, song phương, đa phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở
thành một bộ phận hợp thành của chỉnh thể kinh tế toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh
tế là xu hướng liên kết kinh tế toàn cầu. Đồng thời, khi xu hướng này được các
chủ thể kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp, …) nhận thức đầy đủ và hiện thực
hóa trong hoạt động thực tiễn thì đó là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có
thể nói đây là luận điểm quan trọng làm nổi bật sự khác nhau giữa toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cách nhìn nhận của tác giả Mai Lan
Hương là dựa trên lăng kính của nhà kinh tế học, chứ không phải nhà triết học.
Bởi vậy, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế vẫn cần được đề cập sâu hơn và
đầy đủ hơn trong phần lý luận chung của luận án.
Trong giới học thuật cũng như những người làm chính sách, cho đến nay,
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về hội nhập quốc tế. Tác giả Phạm
Quốc Trụ trong bài viết Hội nhập Quốc tế: một số vẫn đề lý luận và thực tiễn
[in trong 83] năm 2011 đã khái quát những cách tiếp cận của các học giả khác
nhau ở ngoài nước về hội nhập quốc tế, từ đó chỉ ra lôgic và bản chất của quá
trình này. Tác giả nhấn mạnh: hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế
thông thường. Nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham
gia. Tác giả chỉ ra bốn lĩnh vực hội nhập quốc tế cơ bản là hội nhập kinh tế
quốc tế, hội nhập chính trị, hội nhập an ninh quốc phòng, hội nhập văn hóa xã
hội. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất trong các quan hệ quốc
8
tế hiện nay. Dựa vào những nhận định của tác giả Phạm Quốc Trụ trong bài
viết này, tác giả luận án có thể kế thừa một số nội dung hợp lý để luận giải vấn
đề dự báo nhân tố tác động đến “vai trò Nhà nước” trong bối cảnh mới - tức
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng thành hội nhập quốc tế nói
chung trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa trong bài viết: Toàn cầu hóa - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn [92] năm 2003, đã khẳng định, toàn cầu hóa, mà cốt lõi là
toàn cầu hóa kinh tế với tư cách là xu thế khách quan của thế giới đương đại,
đang bị chi phối bởi những lực lượng đứng đằng sau quá trình đó là các công ty
xuyên quốc gia, trong đó tuyệt đại đa số là các công ty tư bản. Chủ nghĩa tư
bản đang lợi dụng xu thế toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện toàn cầu hóa tư bản
chủ nghĩa. Tác giả cho rằng, toàn cầu hóa hiện nay về cơ bản mang tính chất tư
bản chủ nghĩa, là tham vọng của chủ nghĩa tư bản muốn tạo ra một thế giới mới
theo mô hình của nó. Do đó, toàn cầu hóa còn là một quá trình đấu tranh giai
cấp và mâu thuẫn dân tộc gay gắt, là cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, các
lực lượng xã hội tiến bộ, các nước đang phát triển chống lại sự nô dịch, can
thiệp, bóc lột, áp đặt của chủ nghĩa tư bản vì một toàn cầu hóa bình đẳng giữa
các quốc gia, dân tộc; vì một trật tự thế giới mới.
Tác giả Lý Thận Minh trong bài viết Toàn cầu hóa với thế giới thứ ba [in
trong 53] năm 2000 đã phân tích và đưa ra kết luận rằng, xu thế toàn cầu hóa
hiện nay về bản chất là “toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa”. Các nước tư bản nắm
trong tay những lợi thế lớn về vốn, khoa học và công nghệ, … đều ra sức lợi
dụng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để áp đặt những giá trị, những
mô hình phát triển và phổ biến giá trị phương Tây ra “khắp hành tinh”. Do đó,
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế vừa là quá trình phát triển mang tính tất yếu
khách quan, vừa là quá trình phát triển mang tính áp đặt, giống như quá trình
chủ nghĩa tư bản “chinh phục toàn thế giới”. Nhà báo nổi tiếng người Mỹ
Thomas Friedman trong tác phẩm Chiếc Lexus và Cây ôliu [76] năm 2005
9
cũng cho rằng, hệ thống toàn cầu hóa mang một sắc thái riêng, bao trùm và có
xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân ở một mức độ nhất định. Về mặt
văn hóa thì đó là quá trình “Mỹ hóa” toàn cầu, …
Mặc dù vậy, cũng phải thừa nhận rằng, toàn cầu hóa đã và đang tác động
cả chiều thuận lẫn chiều nghịch đến hầu hết các nước trên thế giới, không phân
biệt chế độ, mức sống giàu, nghèo. Tuy nhiên, những quốc gia nghèo, còn đang
trong quá trình phát triển sẽ dễ bị tổn thương hơn các nước giàu do tiềm lực
kinh tế và sức mạnh nội tại của các nước này còn yếu, chưa đủ mạnh để chống
đỡ với những biến cố toàn cầu. Về vấn đề này, trong tác phẩm Tác động của
hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam
[23], tác giả Tô Xuân Dân và Nguyễn Thành Công cũng đã đi sâu phân tích
những tác động khác nhau của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống
kinh tế - xã hội toàn cầu. Theo cách lý giải của tác giả thì mặc dù các nước phát
triển là các chủ thể tích cực nhất của xu thế hội nhập ngày nay, song do hội
nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phức tạp với những nội dung đan xen và
những mâu thuẫn lợi ích nên ngay chính trong bản thân các nước này cũng
chưa thể đồng thuận hoàn toàn với những bước tiến sâu rộng của quá trình hội
nhập. Bởi vậy, tác giả đã phân định sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến nhóm những nước phát triển và nhóm những nước đang phát triển là có sự
khác nhau căn bản...
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đem lại “cái nhìn đa
chiều” về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Về mặt định nghĩa có thể
chưa tương đồng nhưng các tác giả lại tương đối nhất quán trong quan niệm về
các đặc trưng, nguồn gốc và nội dung của quá trình này. Các tác giả đều thừa
nhận toàn cầu hóa mà hạt nhân là toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế,
trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở thành xu thế chung của
thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn bản đời sống của các
quốc gia. Các tác giả cũng chỉ ra, trong bối cảnh quốc tế đương đại bản chất
10
của quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế còn mang rất
đậm màu sắc tư bản chủ nghĩa. Toàn cầu hóa kinh tế hay “Mỹ hóa”, “phương
Tây hóa” vẫn đang được đặt ra trong nghiên cứu lý luận. Điều đó cũng nói lên
rằng, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đó sẽ không chỉ vì mục tiêu kinh
tế mà sẽ còn là vấn đề mang tính chính trị - xã hội sâu sắc. Do vậy, các quốc
gia trong quá trình mở cửa, tiến hành hội nhập quốc tế phải nắm được những
vấn đề mang tính bản chất đó để có những lựa chọn và giải pháp khôn ngoan
trong quá trình giao thoa, kết nối, tồn tại và phát triển, cần vừa đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế, vừa giữ được tính độc lập, tự chủ trong các quan hệ quốc
tế. Hơn bao giờ hết, cần nhận thức đầy đủ và thực hiện nhất quán phương châm
vừa hợp tác, và đấu tranh, thực hiện nhất quán phương châm: “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, …
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, cần có thêm nhiều công trình nghiên cứu,
luận giải những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế,
góp phần hình thành cơ sở lý luận vững chắc của việc hoạch định và tổ chức
triển khai thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu cơ hội và thách thức trong thực tiễn
hội nhập kinh tế quốc tế
Không ai có thể phủ nhận rằng, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại những cơ hội lớn chưa từng có cho sự phát triển của các quốc gia, dân
tộc. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển nếu biết dự báo đúng và nắm bắt
kịp thời xu hướng vận động của nó, sẽ đứng trước những cơ hội lớn để thực
hiện quá trình phát triển “rút ngắn”. Tuy nhiên, mặt trái của toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đã và đang đặt ra hàng loạt những thách thức mà các
quốc gia phải đối mặt và giải quyết.
Nghiên cứu về những cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế,
đã có nhiều các công trình khoa học có giá trị, thể hiện sự tiếp cận dưới nhiều
11
khía cạnh khác nhau và tạo ra những “cách nhìn” vừa mang tính tổng thể, vừa
đa chiều. Ở trong nước, có thể kể đến các công trình sau: Toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam [131] của các tác giả Trần Trọng Toàn,
Đinh Nguyên Khiêm (đồng chủ biên, 1999); Toàn cầu hóa, nguy cơ tha hóa và
vấn đề giá trị văn hóa tinh thần [129] của tác giả Đặng Hữu Toàn (2006); Độc
lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [69] của
tác giả Thái Văn Long (2006); Ra biển lớn [123] của nhà báo Hữu Thọ
(2009); Một số vấn đề về Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt Nam
vào kinh tế thế giới [117] của tác giả Nguyễn Văn Thạo (2000); Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay [106]
của tác giả Phương Kỳ Sơn (2005); Khi Việt Nam đã vào WTO [54] của Ban
Thư ký khoa học, Hội đồng lý luận TW, (2007); Toàn cầu hóa kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam [119] của tác giả Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên, 2007); Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa [52] của tác giả Hoàng Ngọc Hòa (chủ biên, 2007), …
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đáng kể là: Những thách thức
của Toàn cầu hóa - 50 năm sau Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 [15] của tác
giả Bonnie Campbell (1998); Khi toàn cầu hóa đẩy nhanh sự rò rỉ chất xám
[72] của tác giả Cristina L’Homme (2002), …
Trong các công trình nêu trên, các tác giả đều khẳng định toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế là các quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, mang đến cả
cơ hội và thách thức cho các quốc gia, dân tộc. Về mặt cơ hội, các tác giả đều
khẳng định: Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Và thông qua tự do hóa thương mại,
các nước trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể mở
rộng thị trường giao thương, tăng khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài; tạo ra cơ hội tiếp nhận, chuyển giao công nghệ mới, học hỏi kinh
12
nghiệm tổ chức quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ và
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và của mỗi doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng làm gia tăng sự phụ thuộc và xích lại gần nhau giữa các quốc gia,
dân tộc về mặt kinh tế, dần dần hình thành một thể thống nhất, xóa đi những
ngăn trở và khoảng cách trên nhiều phương diện. Đối với các nước đang phát
triển, tham gia vào hội nhập sẽ tạo cho mình cơ hội thuận lợi để phát triển và
thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội với các nước
công nghiệp.
Tác giả Lý Thận Minh trong bài viết Toàn cầu hóa với thế giới thứ ba [in
trong 53] đã dẫn lời của nguyên Chủ tịch Cu Ba Fidel Castro khi nói về vấn đề
toàn cầu hóa rằng, toàn cầu hóa với những thành tựu công nghệ đầy ấn tượng,
là một tiềm lực vô cùng to lớn để phát triển và xóa bỏ đói nghèo, tăng thêm của
cải vật chất cho xã hội. Nhưng ông cũng nhấn mạnh những cơ hội mà toàn cầu
hóa mang lại không được phân chia một cách bình đẳng, bởi sự tôn sùng cạnh
tranh thị trường và hạn chế vai trò của chính phủ. Về điều này, tác giả Bonnie
Campbell trong bài viết: Những thách thức của Toàn cầu hóa - 50 năm sau
Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 [15] đã khẳng định, toàn cầu hóa làm cho
các dân tộc xích lại gần nhau, nhưng tùy thuộc lẫn nhau không có nghĩa là thiết
lập các mối quan hệ cân đối hoặc là có những cơ may như nhau. Trong đó,
những bất lợi thường rơi vào các nước đang phát triển.
Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra những thách thức to lớn do mặt
trái của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Các tác giả cho rằng,
quá trình toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế suy giảm sự độc lập tự chủ và
tăng dần sự phụ thuộc lẫn nhau. Đây là một thách thức nghiêm trọng trong mối
tương quan giữa một nền kinh tế độc lập với xu thế liên kết giữa các nền kinh
tế trong toàn cầu hóa. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là gay gắt, khốc liệt
trên phạm vi quốc gia cũng như toàn cầu. Trong cuộc cạnh tranh này, trong bài
Về xu thế toàn cầu hóa/khu vực hóa: tiến trình phát triển, yếu tố quyết định và
13
cơ hội/thách thức [in trong 83] tác giả Phạm Quốc Trụ cho rằng, các nước đang
phát triển dường như bị rơi vào thế bất lợi hơn do họ không có được những ưu
thế như các nước phát triển. Tác giả Thái Văn Long trong công trình: Độc lập
dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [69] năm 2006,
cho rằng, trong quá trình toàn cầu hóa, chủ quyền quốc gia dân tộc cả về chính
trị và kinh tế đều bị đặt trước những thách thức lớn lao. Vấn đề cấp bách, sống
còn của các nước đang phát triển hiện nay là cần kết hợp chặt chẽ việc mở rộng
hợp tác quốc tế với đấu tranh xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ,
bảo vệ chủ quyền kinh tế trong quá trình hội nhập. Chỉ trên cơ sở đó, chính phủ
các nước này mới không bị bất cứ một tổ chức, một thế lực nào áp đặt các điều
kiện đi ngược lại lợi ích quốc gia.
Tác giả Đặng Hữu Toàn trong bài viết: Toàn cầu hóa, nguy cơ tha hóa và
vấn đề giá trị văn hóa tinh thần [129] năm 2006; đã nêu lên một trong những
vấn đề hết sức nan giải cho hầu hết các quốc gia trong việc định hướng giá trị
văn hóa tinh thần nói chung, định hướng các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc nói riêng. Tác giả khẳng định, trong xu thế vận động của toàn cầu hóa, văn
hóa và đạo đức vẫn cần phải được định hướng theo giá trị Chân - Thiện - Mỹ,
mang đậm tính nhân văn trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa tinh thần, đạo
đức truyền thống, kết hợp với việc tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hóa
thời đại. Đồng thời, không ngừng bổ sung, phát triển bằng những thành tựu của
khoa học và những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong cuốn Chiếc Lexus và
cây ôliu [76], tác giả Thomas L.friedman đã lấy hình ảnh chiếc Lexus sang
trọng đại diện cho động lực tồn tại, cải tiến, làm giàu và hiện đại hóa - hiện hữu
trong hệ thống toàn cầu hóa ngày nay. Cây ôliu là biểu tượng cho nguồn gốc
của chúng ta về ngôn ngữ, địa lý, lịch sử và văn hóa, và mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng dân tộc đều có cây ôliu riêng, trên lãnh địa của mình. Friedman cho rằng,
hiểm họa lớn nhất đối với cây ôliu lại đến từ chiếc Lexus - tức từ những thế lực
thị trường và công nghệ mang thuộc tính đồng hóa, vô danh, những thứ hình
14
- Xem thêm -