ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----
PHAN THỊ HẬU
VAI TRß CñA NHµ N¦íC TRONG VIÖC B¶O VÖ
QUYÒN CñA NH÷NG NG¦êI THUéC NHãM DÔ BÞ TæN TH¦¥NG
ë viÖt nam hiÖn nay
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----
PHAN THỊ HẬU
VAI TRß CñA NHµ N¦íC TRONG VIÖC B¶O VÖ
QUYÒN CñA NH÷NG NG¦êI THUéC NHãM DÔ BÞ TæN TH¦¥NG
ë viÖt nam hiÖn nay
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phan Thị Hậu
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
NGƯỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG VIỆC BẢO VỆ NHỮNG NGƢỜI THUỘC NHÓM DỄ BỊ TỔN
THƢƠNG TRONG XÃ HỘI ......................................................................... 7
1.1. Khái quát về những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội...... 7
1.1.1. Khái niệm nhóm dễ bị tổn thương ........................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ..................... 8
1.1.3. Tổng quan về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền của nhóm dễ bị tổn
thương .............................................................................................................. 12
1.2. Nội dung cơ bản về vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ quyền của
những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ..................................................... 14
1.2.1. Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc
nhóm dễ bị tổn thương trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay................................................................................................... 15
1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền của
những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ..................................................... 22
1.2.3. Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ
quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ................................... 27
1.2.4. Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của nhóm ..................................... 35
1.2.5. Vai trò của Nhà nước trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật và cung ứng các dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền của những người thuộc
nhóm dễ bị tổn thương .................................................................................... 39
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƢỜI THUỘC NHÓM DỄ BỊ
TỔN THƢƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. . Error! Bookmark not defined.
2.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những
người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ................ Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ một số nhóm dễ bị tổn
thương ............................................................ Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ.
........................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của trẻ em.
........................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3 Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của người cao
tuổi. .................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.4 Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của người
khuyết tật ........................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Những khó khăn trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm
dễ bị tổn thương. ............................................. Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NHỮNG NGƢỜI
THUỘC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƢƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1 Giải pháp đảm bảo thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng
pháp luật bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương . Error!
Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc thực thi
pháp luật bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương . Error!
Bookmark not defined.
3.3. Giải pháp đảm bảo thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của
nhóm dễ bị tổn thương .................................... Error! Bookmark not defined.
3.4. Giải pháp đảm bảo thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật và cung cấp dịch vụ pháp lý bảo vệ quyền của
những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương. .... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 43
LỜI NÓI ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc ra
đời, nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông qua,
trong đó có một số lượng ngày càng nhiều văn kiện đề cập đến quyền của các
nhóm người dễ bị tổn thương.
Nếu như trong một số vấn đề chung về nhân quyền hiện vẫn còn đang
được tranh cãi và ở một số nước bị coi là nhạy cảm, thì trong vấn đề quyền
của các nhóm người dễ bị tổn thương, các quốc gia thường có sự đồng thuận
và ủng hộ ở mức cao. Điều đó thể hiện ở việc hầu hết các điều ước quốc tế về
quyền của các nhóm này, ví dụ như Công ước về quyền trẻ em, …thường có
một số lượng quốc gia thành viên đứng đầu trong các điều ước quốc tế về
nhân quyền.
Ở nước ta, từ trước đến nay Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến bảo
vệ và thúc đẩy sự hưởng thụ các quyền con người nói chung và quyền của các
nhóm người dễ bị tổn thương nói riêng. Trên thực tế, vấn đề quyền của các
nhóm người dễ bị tổn thương đã được thể hiện trong pháp luật và chính sách
của nhà nước từ rất sớm, trước khi Việt Nam tham gia, thậm chí là trước khi
Liên Hợp Quốc thông qua các điều ước quốc tế có liên quan. Mặc dù vậy, về
cơ bản, nhận thức về các tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này ở nước ta vẫn còn
rất hạn chế, dẫn đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của một số nhóm xã hội
dễ bị tổn thương chưa thật hiệu quả.
Những cộng đồng dễ bị tổn thương là những cộng đồng không chỉ dễ bị
tổn thương về mặt thực thể như trẻ em, người khuyết tật, người già, người
bệnh, các phạm nhân, v.v, mà nhiều khi đó có thể là những nhóm vừa dễ bị
1
tổn thương về mặt thực thể và về mặt xã hội, kinh tế, chính trị, do thiếu nguồn
lực, do sự kỳ thị, hay các dịch vụ dành cho họ. Có những nhóm không bị tổn
thương về mặt thực thể nhưng vẫn là những cộng đồng dễ bị tổn thương do
thiếu nguồn lực kinh tế và xã hội và do định kiến xã hội khiến cho họ khó tiếp
cận đến các nguồn lực và dịch vụ, ví dụ như người đồng tính, những người
làm lao động tình dục vì mục đích thương mại, v.v... Có những cộng đồng dễ
bị tổn thương ở cả khía cạnh xã hội và thực thể như như trẻ em, người già,
người khuyết tật, người sống chung với HIV, v.v… là những người vốn yếu
về mặt thực thể, nhưng do những định kiến xã hội khiến tiếng nói của họ ít
được coi trọng và thậm chí không có những dịch vụ xã hội dành cho họ.
Chính vì thế, khi thực hiện các nghiên cứu với những nhóm dễ bị tổn thương
cần phải chú ý bảo vệ họ. Sự tôn trọng không chỉ liên quan đến việc bởi vệ
những thông tin cá nhân của người tham gia không bị tiết lộ mà còn bảo vệ,
giúp đỡ họ khi cần thiết, nâng cao năng lực cho họ nếu có thể. Chính vì vậy,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền
của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương
và khái quát vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người
thuộc nhóm dễ bị tổn thương. Luận văn tập trung đánh giá vai trò của Nhà
nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương
thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và đối chiếu,
phân tích với tình hình thực tế về vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ
quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội. Qua đó đề
xuất quan điểm, giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước Việt Nam trong việc
2
bảo vệ quyền của từng thực thể nói riêng và những người thuộc nhóm dễ bị
tổn thương nói chung.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, các khái niệm có liên quan, hệ thống hóa
các quy định của pháp luật hiện hành, Luận văn phân tích những vai trò của
Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn
thương nói chung và đi sâu nghiên cứu 4 đại diện của nhóm là phụ nữ, trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật. Từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế, vướng
mắc, nguyên nhân trong việc bảo vệ quyền lợi của những người thuộc nhóm
dễ bị tổn thương; đề xuất được những phương hướng và giải pháp cơ bản, tạo
cơ sở khoa học để xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả vai trò của Nhà
nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương
trong xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Vai trò của nhà nước pháp quyền Việt Nam trong việc bảo vệ quyền của
nhóm những người dễ bị tổn thương trong xã hội đã được đề cập trong nhiều
Hội thảo khoa học, tọa đàm. Vấn đề bảo vệ quyền của từng người trong nhóm
này cũng đã được cụ thể hóa trong nhiều quy định của pháp luật, nhất là trong
Hiến pháp 2013.
Dưới góc nhìn tổng quan về đối tượng cần nghiên cứu là vai trò của Nhà
nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương
trong xã hội, Luận văn này hy vọng sẽ góp phần làm rõ vai trò của Nhà nước
với việc bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương, thể chế hóa quy định tại
Hiến pháp 2013. Từ đó nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo
quyền con người ở Việt Nam.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề lý luận về nhóm dễ bị tổn
3
thương; vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc
nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay; thực trạng và giải pháp hoàn thiện
vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là khái niệm, đặc điểm của những
người thuộc nhóm dễ bị tổn thương, vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền của nhóm dễ bị tổn thương nói chung và tập trung vào một số đại diện
của nhóm: Phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật.
1.5. Tổng quan tài liệu
Ở nước ta, từ trước đến nay có khá nhiều công trình khoa học của nhiều
tác giả nghiên cứu về các quy định của pháp luật về quyền của từng đại diện
trong nhóm như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật nói riêng và
nhóm dễ bị tổn thương nói chung và vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo
các quyền đó. Tiêu biểu trong đó là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Một số vấn đề pháp lý và thực tế trong
việc đảm bảo quyền về việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam”, năm 2010
- Đinh Thị Cẩm Hà;
- Tham luận “Vai trò của dân chủ, pháp quyền và xã hội dân sự đối với
việc đảm bảo thực hiện quyền con người, tính phổ biến và tính đặc thù của
quyền con người” – Viện khoa học xã hội Việt Nam 2010;
- Tọa đàm khoa học “Vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ nhóm dễ
bị tổn thương” – Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, 2010;
- Đề tài “Pháp luật về quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em tại
Việt Nam” – Nghiên cứu sinh Phạm Thị Phương Thảo, 2011.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trong thời gian qua
chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu làm rõ khái niệm, bản chất, đặc điểm pháp lý
của từng nhóm người dễ bị tổn thương: trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật….về
những quy định của pháp luật đối với những nhóm người này.
4
2. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về quyền của nhóm dễ bị tổn thương và khái quát vai trò
của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của những người thuộc nhóm dễ bị tổn
thương ở Việt Nam.
- Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền của nhóm
dễ bị tổn thương ở Việt Nam hiện nay.
- Quan điểm, giải pháp bảo đảm nâng cao vai trò của Nhà nước trong
việc bảo vệ quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là quan điểm Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người; đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của
nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội với tư cách là một trong những
khía cạnh để nâng cao việc bảo vệ quyền con người. Các phương pháp nghiên
cứu để giải quyết vấn đề được sử dụng bao gồm: phương pháp tổng hợp,
thống kê, phân tích, so sánh…
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Luận văn sử dụng các số liệu của Viện nghiên cứu quyền con người, Tổng
cục Thống kê, tham khảo số liệu của một số cơ quan, tổ chức khác đánh giá về
việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay…trong khoảng thời gian từ
2010 đến nay.
3. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Quyền con người nói chung và quyền của nhóm dễ bị tổn thương nói
riêng luôn được quan tâm và ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp luật, thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con
5
người nói chung và quyền của nhóm dễ bị tổn thương nói riêng. Hiến pháp
2013 là bước tiến vượt bậc trong việc bảo đảm quyền của nhóm dễ bị tổn
thương. Luận văn làm rõ vai trò của Nhà nước, đồng thời bám sát các nội
dung quy định trong Hiến pháp 2013 làm cơ sở phân tích, đưa các quy định
của pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước trong
việc bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Vì vậy, luận văn là một nguồn
tài liệu tham khảo tốt cho các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng và hoàn
thiện các quy định về việc bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương trong thời gian tới,
thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, luận văn cũng là
nguồn tài liệu tham khảo tốt cho việc giảng dạy, nghiên cứu luật tại khoa Luật
ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật khác của Việt Nam.
4. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ
những ngƣời thuộc nhóm dễ bị tổn thƣơng trong xã hội.
Chƣơng 2: Thực trạng vai trò của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ
quyền của nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện vai trò của Nhà nƣớc đối với
việc bảo vệ quyền của nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng ở Việt Nam hiện nay.
6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG VIỆC BẢO VỆ NHỮNG NGƢỜI THUỘC NHÓM DỄ BỊ
TỔN THƢƠNG TRONG XÃ HỘI
1.1. Khái quát về những ngƣời thuộc nhóm dễ bị tổn thƣơng trong
xã hội
1.1.1. Khái niệm nhóm dễ bị tổn thương
Khái niệm “dễ bị tổn thương” là một khái niệm mở, khó để định nghĩa
chính xác và có thể thay đổi theo ngữ cảnh. Bên cạnh đó, sự dễ bị tổn thương
có thể phát sinh từ tự nhiên và không thể tránh khỏi hoặc nó có thể được tạo
ra và duy trì bởi sự sắp đặt của cá nhân và/ hoặc xã hội. Hiện nay, chúng ta
chưa có định nghĩa chính thức nào về khái niệm “nhóm người dễ bị tổn
thương” dù cho nó được sử dụng phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế
và trong các hoạt động nghiên cứu thực tiễn về quyền con người trên thế giới.
Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm này như sau:
Nhóm người dễ bị tổn thương là “những nhóm, cộng đồng có vị thế về
chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị
bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý
bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”. [23]
+ Theo xác định của UNESCO, nhóm yếu thế/thiệt thòi bao gồm:
những người ăn xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh
thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi,
người nghèo, tù nhân, gái mại dâm, người thất nghiệp, người lang thang cơ
nhỡ. Ngoài ra còn kể đến người tị nạn, người xin tị nạn, người bị xã hội loại
trừ . Theo cách xác định này người nghèo, người thất nghiệp cũng được coi
thuộc nhóm yếu thế/ thiệt thòi.
+ Trong một số nghiên cứu ở Việt Nam còn kể thêm nhóm người là nạn
7
nhân chiến tranh, đặc biệt nạn nhân chất độc da cam, nhóm bị bạo lực gia
đình, nạn nhân bị quấy dối và lạm dụng tình dục, nạn nhân buôn bán người,
các đối tượng mắc bệnh xã hội, trẻ em bị ảnh hưởng của HIV/AIDS…Như
vậy có thể nói, nhóm yếu thế (hay nhóm thiệt thòi) là những nhóm xã hội đặc
biệt, có hoàn cảnh khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với với các
nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm tương tự. Họ gặp phải hàng
loạt thách thức, ngăn cản khả năng hòa nhập của họ vào đời sống cộng đồng.
Hàng rào đó có thể liên quan đến thể chất, liên quan đến khả năng, nghề
nghiệp, hoàn cảnh sống, sự đánh giá, kỳ thị của xã hội, các vấn đề tâm lý…
Hàng rào đó có thể là vô hình, có thể là hữu hình, ngăn cản họ tiếp cận và sử
dụng các phương tiện sống thiết yếu hay các dịch vụ xã hội cần thiết cho mọi
thành viên “bình thường” của xã hội. Để nâng cao vị thế xã hội, giảm sự thiệt
thòi, họ rất cần được sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ từ xã hội. Việc kể tên nhóm
xã hội này hay nhóm xã hội khác trong danh sách của nhóm xã hội yếu thế
hòan toàn phụ thuộc vào quan điểm cũng như mục tiêu của từng nghiên cứu,
từng dự án, từng chính sách, từng phong trào cụ thể.
+ Theo Luật quốc tế về quyền con người, nhóm người dễ bị tổn thương
bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người sống chung
với HIV, người di tản hoặc người tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc
tịch, người lao động di trú, người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…),
người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự do…Và tùy từng
thời điểm, danh sách này có thể được bổ sung, bao gồm những nhóm người
có nguy cơ cao về quyền con người trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh (xét trên
cả phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, ở trong gia đình, nơi làm việc hoặc
ngoài xã hội) [23].
1.1.2. Đặc điểm của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương
Từ hàng nghìn năm qua, những người bị tổn thương luôn phải chịu
8
nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, họ phải chịu đựng sự bất bình đẳng và phân biệt
đối xử ở nhiều nơi, thậm chí ngay trong gia đình mình. Theo các nhà nghiên
cứu: trên bình diện kinh tế họ là những người những người bị gạt ra bên lề sự
thay đổi kĩ thuật, nghèo, sống tạm bợ; trên bình diện xã hội – chính trị là
những người có việc làm không ổn định, không được bảo hiểm xã hội đúng
mức và không có tiếng nói chính trị; trên phương diện văn hoá là những
người bị loại trừ khỏi kiến thức, khỏi ngưỡng cửa thông tin, khỏi các yếu tố
của xã hội hiện đại, thậm chí bị loại trừ khỏi quyền được sống theo văn hoá
dân tộc… Có thể nói quan niệm về nhóm bị loại trừ đã có những lúc, ở một số
quốc gia được sử dụng với nghĩa là nhóm yếu thế, nhóm thiệt thòi hay nhóm
dễ bị tổn thương. Từ định nghĩa về nhóm người dễ bị tổn thương có thể đưa ra
các đặc điểm của nhóm như sau:
- Có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn:
Mặc dù luật quốc tế và quốc gia nói rất rõ phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ là nghiêm cấm nhưng trên thực tế sự phân biệt đó vẫn tồn tại. Chúng
ta đều biết rằng phụ nữ chiếm khoảng một nửa dân số thế giới tuy nhiên chỉ từ
5-10% trong số họ có vị trí lãnh đạo. Trẻ em là đối tượng yếu đuối về mặt thể
chất do chưa phát triển hoàn thiện. Đa số trẻ em chưa có sức lao động và tài
sản riêng nên tất yếu phải lệ thuộc về kinh tế vào các thành viên trong gia
đình mà trước tiên là bố mẹ, ông bà, anh chị.
Mặc dù Luật cư trú ban hành từ năm 2006 đã quy định nghiêm cấm lạm
dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
nhưng trong thực tế hàng chục thủ tục hành chính vẫn đang “ăn theo” hộ
khẩu, gây khó khăn và trở ngại cho cuộc sống của người dân nhập cư. Theo
Điều 19 Luật thủ đô 2012, trừ các trường hợp được điều động, tuyển dụng
đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm
việc theo hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động không xác định thời hạn, về
9
ở cùng với người thân hoặc trước đây từng có hộ khẩu trong nội thành, các
trường hợp khác muốn đăng ký thường trú ở nội thành phải tạm trú liên tục tại
nội thành từ 3 năm trở lên, có nhà ở thuộc sở hữu của mình hoặc nhà thuê ở
nội thành của tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhà ở, bảo đảm điều
kiện về diện tích bình quân (theo quy định của HĐND thành phố Hà Nội) và
được sự đồng ý bằng văn bản cho đăng ký thường trú vào nhà thuê của tổ
chức, cá nhân có nhà cho thuê. Như vậy, những người muốn đến Hà Nội cư
trú và lập nghiệp, những người điều chuyển công tác không thuộc các cơ quan
Nhà nước bị hạn chế về nhập cư tại Hà Nội, thậm chí được gọi là “công dân
hạng hai” vì không có hộ khẩu, gây khó khăn rất nhiều cho người dân.
- Do thể chất chưa phát triển hoặc do giới tính tự nhiên:
Do đặc điểm tự nhiên, phụ nữ thường có thể chất yếu hơn nam giới.
Bên cạnh đó, phụ nữ phải gánh vác chức năng sinh nở - chức năng hàm chứa
rất nhiều rủi ro về sức khỏe. Bởi những đặc điểm sinh học về giới có thể
mang lại cho phụ nữ nhiều khó khăn nên họ cần được bảo vệ sức khỏe sinh
sản; phòng chống buôn bán phụ nữ, phòng chống bạo lực giới; đảm bảo sự
tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Trẻ em là chủ thể còn non nớt cả về thể chất và tinh thần nên trẻ em cần
được bảo vệ toàn diện cả về tính mạng sức khỏe và tình cảm, đạo đức.
So với người bình thường có đầy đủ các bộ phận trên cơ thể theo cấu
tạo sinh học, khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi trong các quan hệ xã
hội thì người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết (thiếu, không có
hoặc bị mất đi) bộ phận nào đó trên cơ thể, bị suy giảm sức khỏe khó có thể
phục hồi, bị hạn chế hoặc không có khả năng nhận thức, tiếp thu các tư tưởng
văn hóa và giáo dục như các chủ thể thông thường khác. Vì vậy, nếu cùng có
mặt bằng pháp lý như nhau, nhìn chung khả năng thực hiện quyền và nghĩa
của người khuyết tật sẽ hạn chế hơn đối với những đối tượng thông thường.
10
Đây là một trong những hệ quả kéo theo của đặc điểm khiếm khuyết. Do bị
khiếm khuyết về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà những người
khuyết tật sẽ khó khăn khi thực hiện các công việc lao động, học tập, sinh
hoạt, vui chơi giải chí, tham gia các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội khác
kém hiệu quả hơn các đối tượng thông thường.
Người từ 60 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi. Người cao tuổi có
những thay đổi đáng kể về cả thể chất lẫn tinh thần và cần nhận được sự quan
tâm, chăm sóc phù hợp của con cháu. Trong bối cảnh số người cao tuổi càng
tăng lên hiện nay, vấn đề chăm sóc người cao tuổi cần được gia đình và xã hội
lưu tâm để tránh việc biến người cao tuổi trở thành một gánh nặng cho xã hội.
Để chăm sóc tốt cho người cao tuổi trong gia đình, chúng ta cần hiểu rõ đặc
điểm thể chất cũng như tinh thần của người già. Về thể chất, có thể thấy rõ
rằng người cao tuổi có phản ứng chậm hơn. Về vấn đề sức khỏe, người cao
tuổi dễ bị mắc bệnh hơn người trẻ, và biểu hiện bệnh thường không rõ ràng.
Đây là vấn đề rất cần được lưu ý. Vì thế, việc quan tâm, chăm sóc người cao
tuổi cần được bảo vệ và nâng cao.
- Có nguy cơ cao bị bỏ quên hay bị coi thường, bị vi phạm các quyền
con người, cần được bảo vệ đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác.
Nước ta hiện nay vẫn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến
việc bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong gia đình. Hoặc tư tưởng “gia
trưởng” khiến cho những người đàn ông trong gia đình mặc nhiên cho mình
có “quyền đối với vợ con” nên muốn làm gì thì làm. Ngoài ra, việc cha mẹ
thường xuyên trừng phạt, đánh đập con cái một cách dã man đôi khi cũng là
do hiểu sai ý nghĩa câu nói của cha ông ta đã dạy “thương cho roi cho vọt”.
Hiểu sai lầm trong cách dạy dỗ và giáo dục trẻ em cũng như thiếu sự hiểu biết
về pháp luật và bạo lực gia đình từ các thành viên trong gia đình khiến phụ nữ
và trẻ em có nguy cơ cao bị vi phạm các quyền con người và cần được bảo vệ
11
đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác.
Theo một báo cáo của tổ chức UNICEF, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt
Nam cần được bảo vệ đặc biệt. Trong số đó, trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và
buôn bán vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền;
trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS và trẻ em sống trong hoàn cảnh nghèo đói. Hoàn cảnh của các
em đều hết sức nghiệt ngã, rất nhiều em phải tự bươn trải kiếm sống. Một số
em bị bắt phải lao động, còn một số khác phải lang thang trên đường phố chính tình cảnh đó khiến các em có nguy cơ cai bị nhiễm HIV, sử dụng ma
túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội và mại dâm.
Phụ nữ và trẻ em là những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất trong cuộc
sống. Các quyền cơ bản của phụ nữ và trẻ em không được đảm bảo, nạn bạo lực
gia đình, sự phân biệt đối xử, định kiến đối với phụ nữ diễn ra hàng ngày nhưng
họ không tự biết cách bảo vệ mình. Vì vậy, bảo vệ quyền của nhóm dễ bị tổn
thương là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.
1.1.3. Tổng quan về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền của nhóm
dễ bị tổn thương
Nhóm người được coi là dễ bị tổn thương là nhóm mà dễ bị xâm phạm
quyền nhất – bởi bản thân họ là những người yếu thế hơn những người bình
thường khác. Vì vậy, cần phải có những quy phạm pháp lý chặt chẽ giúp
những cá thể trong nhóm dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các quyền của mình
có để hưởng thụ các quyền này là điều hết sức cần thiết. Nhóm người dễ bị
tổn thương theo Luật quốc tế bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật,
người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người
không quốc tịch, người lao động di trú, người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc,
tôn giáo…), người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước tự do,
người cao tuổi…Tùy từng đối tượng cụ thể, Luật quốc tế đã ban hành những
12
quy phạm để bảo vệ quyền của từng đối tượng trong nhóm dễ bị tổn thương:
- Quyền của người lao động di trú: Quan trọng nhất là Công ước quốc
tế về bảo vệ các quyền của tất cả những người lao động di trú và thành viên
trong gia đình họ, thông qua ngày 18/12/1990, có hiệu lực từ 1/7/2003; công
ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia
đình họ…; ngoài ra ILO còn có Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa
đổi) năm 1949; Công ước số 143 về người lao động di trú (Các điều khoản bổ
sung năm 1975)…
- Quyền của người tị nạn (người di tản hoặc tìm nơi lánh nạn): Công
ước về vị thế của của người tị nạn 1951; Nghị định thư về vị thế của người tị
nạn 1967.
- Quyền của người không quốc tịch: Công ước về vị thế của người
không quốc tịch 1954.
- Quyền của các nạn nhân trong chiến tranh: Các Công ước Giơnevơ
bao gồm: Công ước Giơnevơ I về bảo vệ những người bị thương, bị ốm trong
các lực lượng vũ trang trên đất liền; Công ước Giơnevơ II về bảo vệ những
người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu thuộc các lực lượng vũ trang trên biển…
- Quyền của người bản địa: Công ước về các dân tộc và bộ lạc bản địa
ở các quốc gia độc lập 1989,…
- Quyền của người bị tước tự do: Công ước chống tra tấn và các hình
thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác.
- Quyền của người thiểu số: Tuyên bố về quyền của những người thuộc
các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ 1992.
- Quyền của người sống chung với HIV/AIDS: Các hướng dẫn quốc tế
về HIV/AIDS và quyền con người 1996; Tuyên bố về “Những hành động
then chốt để tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Hội nghị quốc tế
về dân số và phát triển” 1999, Tuyên bố chính trị và các sáng kiến và hành
13
động tiếp theo nhằm thực hiện các cam kết được đưa ra tại Hội nghị thượng
đỉnh thế giới về phát triển xã hội năm 2000.
- Quyền của những người đồng tính: Phong trào vận động cho các
quyền của LBGT còn mở cuộc vận động tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực,
họ cũng vừa trình lên Liên Hợp quốc một dự thảo Tuyên bố của Liên Hợp
quốc về định hướng tình dục và sự đồng giới ngày 18/12/2008.
Bên cạnh việc tìm hiểu các văn bản luật quốc tế quy định về quyền của
nhóm yếu thế, tác giả xin được trình bày quyền của những người thuộc nhóm
dễ bị tổn thương theo pháp luật Việt Nam. Đây là các cơ sở pháp lý quan
trọng về quyền của những người yếu thế. Bên cạnh đó, việc ghi nhận quyền
của người yếu thế trong pháp luật Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt với những
người này tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể thực hiện quyền của mình và
giúp họ có được cuộc sống tốt đẹp hơn, cụ thể: Hiến pháp 2013, Luật trẻ em
2016 (có hiệu lực 01/6/2017), Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Luật người
khuyết tật 2010, Luật Bình đẳng giới 2006, Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Bộ
luật Lao động 2012, Bộ luật dân sự 2015 (có hiệu lực 01/01/2017); Bộ luật
hình sự 2015, Luật giáo dục 2005, Luật giao thông đường bộ 2005, Luật
Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV-AIDS) 2006, Luật nuôi con nuôi 2010, Luật người cao tuổi
2009…
1.2. Nội dung cơ bản về vai trò của nhà nƣớc trong việc bảo vệ
quyền của những ngƣời thuộc nhóm dễ bị tổn thƣơng
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ các
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Điều đó cho
thấy mọi quốc gia khác nhau, bất kỳ chế độ chính trị đều phải hướng tới mục
tiêu bảo vệ các quyền tự do cơ bản và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người
dân. Ở Việt Nam, Hiến pháp 2013 chỉ rõ: Triết lý con người không phải do
14
- Xem thêm -