Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai...

Tài liệu Vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận 1, thành phố hồ chí minh

.PDF
91
93
100

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI MINH NGHĨA VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI MINH NGHĨA VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Bùi Minh Nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ...........................................8 1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .................................................................................................................8 1.2. Đặc điểm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................................................................15 1.3. Các hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của luật sư ..............19 Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................................24 2.1. Các qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thể hiện vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...............................................................................................................24 2.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh .......36 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................65 3.1. Tăng cường triển khai các biện pháp hướng dẫn thi hành Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...............................................................65 3.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư .............................................66 3.3. Các giải pháp khác ..........................................................................................69 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV : Điều tra viên HTND : Hội thẩm nhân dân HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên LS : Luật sư TA : Tòa án TAND : Tòa án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự TTCC : Thu thập chứng cứ TNHS : Trách nhiệm hình sự TP : Thẩm phán VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHXN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chứng cứ luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết VAHS, các CQTHTT chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh sự việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những tình tiết liên quan. Quá trình chứng minh VAHS bao gồm nhiều bước như phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Trong đó đánh giá chứng cứ là một trong những bước quan trọng góp phần quyết định sự thành công của việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Thực tiễn TTHS của nước ta thời gian qua cho thấy, các CQTHTT, những người tham gia tố tụng đã đánh giá đúng đắn chứng cứ góp phần làm rõ nhiều VAHS, tạo được lòng tin với quần chúng nhân dân, bảo vệ công lý. Bên cạnh đó cũng có nhiều VAHS còn bộc lộ những sai lầm, thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng, xét xử còn nhiều oan sai. BLTTHS năm 2003 là bộ luật thể hiện sự dân chủ trong quá trình giải quyết các VAHS, vừa tạo những điều kiện tốt hơn để các CQTHTT, người THTT, người tham gia tố tụng như ĐTV, KSV, TP, HTND, người bào chữa, người bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện đầy đủ và có hiệu quả nghĩa vụ pháp lý của mình. Thực tế cũng cho thấy rằng, sự tham gia của LS trong giai đoạn điều tra nhất là hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ còn mang tính hình thức. Bởi các lẽ đó, thực tế đã chỉ ra rằng LS chưa khẳng định được vai trò của mình trong sự nghiệp bảo vệ công lý, cũng như góp phần để việc điều tra được đầy đủ, vô tư, khách quan, đúng quy định của pháp luật; là cơ sở pháp lý để toà án xét xử đúng người, đúng tội; hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm. Vai trò của LS trong việc giám sát, đối trọng cũng như phối hợp với các CQTHTT trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết các VAHS, đã có không ít các trường hợp mà việc TTCC, sử dụng và đánh giá chứng cứ để buộc tội trong VAHS đã có vi phạm về pháp luật 1 TTHS dẫn đến đến xử oan, sai người vô tội, để lọt tội phạm ảnh hưởng rất lớn đến việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp, được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; đồng thời, yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự [1]. Định hướng này đã được Hiến pháp năm 2013 thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của TA và VKS khi thực hiện chức năng Hiến định. Những sửa đổi, bổ sung này cũng đã được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015 và sẽ được thi hành vào ngày 01/01/2018. Mặt khác, trong thời gian qua, nhiều vụ án oan chưa được phơi bày. Tất cả những vụ án oan xảy ra ở địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hầu như không xuất hiện LS để tham gia bảo vệ quyền lợi của họ. Bên cạnh những tiêu cực nêu trên thì mặt tích cực ta cũng thấy được chính sự tham gia của LS trong giai đoạn điều tra đã giúp cho CQĐT thu thập, đánh giá được các chứng cứ. Sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa LS và CQĐT theo đúng quy định của pháp luật trong hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ đã được tiến hành một cách khách quan, cẩn trọng để loại trừ hiện tượng oan sai cho người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm, góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. 2 Xuất phát từ nguyên nhân đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về “vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp Luật TTHS Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng pháp luật, là cơ sở lý luận đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật; góp phần tạo ra cơ hội để các CQTHTT, người THTT, LS xích lại gần nhau hơn, mỗi người sẽ thực hiện công việc của mình một cách đúng đắn để tránh dẫn đến oan, sai. Đây cũng là luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xung quanh đề tài này, tác giả nhận thấy chưa có nhiều các công trình, các bài viết liên quan; điều này xuất phát từ thực tiễn ở nước ta, hoạt động của LS trong quá trình tham gia TTHS nhất là trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS còn mờ nhạt và không thể trở thành đối trọng cân bằng với bên buộc tội. - Khúc Thị Hoàng Hạnh (2010), “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về TTCC”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trên cơ sở phân tích lý luận về thu tập chứng cứ, tác giả đã mạnh dạn cho rằng khái niệm TTCC ở các tài liệu mà tác giả nghiên cứ đều có những điểm chưa được đề cập đến và đưa ra khái niệm về TTCC theo quan điểm cá nhân của mình; Luận văn đã phân tích một cách tương đối thấu đáo những đặc điểm của việc TTCC trong các giai đoạn khác nhau của TTHS, đồng thời đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về TTCC và một số biện pháp nâng cao hiệu quả TTCC [13]. - Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận án đã làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án VAHS; đánh giá được thực trạng hoạt động hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án VAHS ở Việt Nam; đồng thời 3 phân tích, chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật TTHS về hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án VAHS, những vướng mắc trong áp dụng cũng như nguyên nhân của nó. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất được một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của LS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự [49]. - Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò của LS trong TTHS”, Hà Nội. Trong hội thảo, nhiều tác giả cho rằng, vai trò của LS trong TTHS Việt Nam còn hết sức mờ nhạt và không thể trở thành đối trọng cân bằng với bên buộc tội. Theo quy định hiện hành, chỉ có các CQTHTT mới có quyền TTCC. Trong khi đó, người bào chữa chỉ được quyền thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án và chúng chỉ là chứng cứ khi được giao nộp cho các CQTHTT, được ghi nhận, đưa vào hồ sơ. Như vậy, LS có thu thập được chứng cứ thì cũng không được tự mình sử dụng để chứng minh những tình tiết trong vụ án mà phải giao cho các CQTHTT [42]. - Hoàng Thị Minh Sơn (2008), “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong TTHS”, Tạp chí Luật học số 7, Hà Nội. Trong bài viết, tác giả nêu rõ: TTCC là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh VAHS. Kết quả của hoạt động TTCC có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giải quyết VAHS. Có thể nói số lượng và chất lượng chứng cứ đã thu thập được đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử. Do vậy, hoạt động này cần phải được tiến hành một cách khách quan, thận trọng và tỉ mỉ trên cơ sở những quy định của BLTTHS [40]. Ngoài ra còn có có thể kể đến một số tác phẩm của các tác giả như sau: Vai trò của LS trong TTHS của TS. Hoàng Sơn (Trong sách: Sổ tay LS, của Học Viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Kỹ năng của LS trong giai đoạn điều tra VAHS,của tác giả: Ths. Nguyễn Văn Điệp, (Trong sách: sổ tay LS của Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Chứng cứ trong VAHS, của tác giả: PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải (trong sách: sổ tay LS, của Học Viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2004); Về 4 chế định người bào chữa, của tác giả Đinh Văn Quế, (Tạp chí TAND số 3, năm 2004); Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong TTHS của tác giả Lê Hồng Sơn, (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7, năm 2002); Vai trò của LS trong TTHS của TS. Nguyễn Văn Tuân (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001); Vấn đề hoàn thiện pháp luật về LS ở Việt Nam của TS. Phan Trung Hoài (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004); Luận văn thạc sỹ “Vai trò của LS trong giai đoạn điều tra VAHS” của tác giả Nguyễn Đăng Khoa; Luận văn thạc sỹ “Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của LS trong TTHS” của Hoàng Văn Dũng (2007); “Vai trò của LS - Người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phương v.v… Các bài bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý: Một số vấn đề lý luận về phương pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số5/2007; Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 9, 10/2008 của TS. Trần Quang Tiệp; Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 BLTTHS năm 2003, Tạp chí Nghề luật, số 2/2006 của TS. Trịnh Tiến Việt v.v... Như vậy, cho đến nay, theo nghiên cứu của tác giả thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ thống và đồng bộ Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Những công trình trên phần nào đã sẽ là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở làm sáng tỏ về mặt lý luận, quy địnhcủa pháp luật và thực trạng vai trò của LS trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam, luận văn đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của LS trong hoạt động thu 5 thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận về vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS; - Làm rõ quy định của pháp luật về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ cùa LS trong giai đoạn điều tra VAHS; - Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS trong giai đoạn điều tra VAHS, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn của hoạt động LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS. * Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của LS bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS nhằm bảo vệ quyền của người bị buộc tội (bị can) từ thực tiễn trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của BLTTHS năm 2003 trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. Luận văn không nghiên cứu nội dung này trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác trong vụ án. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; việc nghiên cứu đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và 6 phương pháp xã hội học, phương pháp khoa học luật TTHS, điều tra hình sự, kỹ năng giải quyết các VAHS của LS để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có thể có những đóng góp về mặt lý luận đối với vai trò của LS trong hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS. Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra được những mặt hạn chế trong thực tiễn tham gia của LS trong giai đoạn điều tra nhất là trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm giúp giải quyết VAHS một cách khách quan, toàn diện, tránh oan sai và thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của người bảo chữa góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hoạt động và vai trò của LS trong TTHS. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo trong việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy và thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm có ba phần: Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Luật sư trong việc thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Khái niệm giai đoạn điều tra hình sự Giai đoạn điều tra VAHS bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố VAHS và kết thúc khi CQĐT hoàn thành bản kết luận điều tra, đồng thời quyết định đề nghị truy tố người bị nghi là phạm tội trước TAND hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án. [28, Điều 162]. Trong quá trình điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp của pháp luật TTHS để TTCC, mục đích để làm rõ sự việc phạm tội, về người thực hiện tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như các tình tình tiết khác có liên quan đến vụ án, kiến nghị biện pháp phòng ngừa với cơ quan và tổ chức hữu quan. Hoạt động điều tra chính là hoạt động TTCC, phục vụ cho việc xét xử của TAND. Việc thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra có tính chất sơ bộ, phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá chính thức tại phiên toà. Điều tra VAHS là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu TNHS, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra VAHS hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra VAHS có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ 8 những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố VAHS và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước TA hoặc đình chỉ VAHS tương ứng. - Khái niệm thu thập chứng cứ Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó TTCC là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh trong TTHS. Nếu không có TTCC, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề TTCC nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng BLTTHS. Trong quá trình tố tụng, không chỉ CQTHTT, người THTT thu thập và sử dụng chứng cứ trong quá trình chứng minh, mà những người tham gia tố tụng cũng có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, đảm bảo sự thật khách quan. BLTTHS quy định cụ thể quyền của bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan… trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Phát hiện, TTCC là hoạt động nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, TTCC là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện, TTCC vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý nên quá trình phát hiện, TTCC vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của BLTTHS. Trong đó quy định rõ những người 9 có thẩm quyền TTCC, thủ tục TTCC, cũng như quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật TTHS trong việc TTCC. TTCC được hiểu là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền bằng các biện pháp luật định. Phát hiện chứng cứ là tìm những sự vật, hiện tượng, tài liệu có chứa đựng những thông tin có giá trị chứng minh những tình tiết của vụ án. Đây là khâu đầu tiên và hết sức quan trọng của hoạt động TTCC khi người bào chữa phát hiện ra nó, đánh giá những thông tin có giá trị chứng minh những sự kiện, tình tiết của vụ án [12, tr.24]. - Khái niệm đánh giá chứng cứ BLTTHS năm 2003 không có khái niệm đánh giá chứng cứ mà chỉ quy định: Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án…[28, Đ.66]. Tác giả đã đưa ra và phân tích một số quan điểm về khái niệm đánh giá chứng cứ. Từ các phân tích trên, có thể đưa ra quan điểm chung nhất về đánh giá chứng cứ: Đánh giá chứng cứ trong VAHS là hoạt động tư duy của chủ thể có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS nhằm xem xét, kiểm tra các chứng cứ đã thu thập được để xác định tính hợp pháp, tính xác thực và tính liên quan của chứng cứ, qua đó làm rõ có sự việc phạm tội xảy ra hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội cũng như giải quyết đúng đắn VAHS. - Khái niệm sử dụng chứng cứ Pháp luật TTHS đã qui định thế nào là chứng cứ, chứng cứ được xác định ở những nguồn cụ thể. Việc sử dụng những chứng cứ ở nguồn luật định phải chấp hành nghiêm chỉnh theo những qui định của pháp luật tố tụng. Đặc biệt với những chứng cứ là lời khai của những người tham gia tố tụng, do đặc điểm của những chứng cứ này thường bị xen lẫn yếu tố chủ quan, dễ bị sai lệch, vì vậy khi sử dụng các lời khai của người tham gia tố tụng ở các tư cách khác nhau phải tuân theo đúng những qui phạm trong BLTTHS. Sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá ngay để sử dụng nhằm đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời của các hoạt động tiếp theo, vừa đảm bảo thời gian đã được quy định đối với hoạt động 10 điều tra, truy tố, xét xử vừa đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, hạn chế những thiệt hại cho xã hội, bắt giữ ngay kẻ phạm tội không để chúng có thời gian lẩn trốn, tiêu hủy tài sản, chứng cứ tang vật, xóa hết dấu vết hoặc tiếp tục gây án. Mặt khác, các chứng cứ sau khi kiểm tra đánh giá, đã xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ thì chỉ được sử dụng đúng với giá trị của nó, giá trị chứng minh của từng chứng cứ đều có những giới hạn, phạm vi nhất định, việc sử dụng cần căn cứ vào giới hạn, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, không được phép phán đoán chủ quan, sử dụng gượng ép, ngoài khả năng chứng minh của từng chứng cứ. Sử dụng đúng giá trị chứng minh của chứng cứ cho phép người THTT xác định đúng sự thật khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Theo BLTTHS thì: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.” [30, Điều 64].Theo quy định của BLTTHS thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau: - Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của VAHS đã xảy ra. - Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này. - Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ. Như vậy, sử dụng chứng cứ phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ trong TTHS. Chỉ sử dụng các chứng cứ được phát hiện, thu thập theo 11 đúng quy định của pháp luật TTHS, và các chứng cứ đó phải được kiểm tra đầy đủ, bảo đảm ba thuộc tính của chứng cứ và phải phù hợp với thực tế khách quan. Trong quá trình THTT, không chỉ CQTHTT, người THTT được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh mà tất cả những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và mọi công dân trong đó có LS đều có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Tuy nhiên muốn sử dụng chứng cứ một cách hiệu quả, đạt mục đích thì phải nhận thức đầy đủ về chứng cứ thì đối với người THTT có nhận thức đúng về chứng cứ thì quá trình chứng minh, việc phát hiện, thu giữ chứng cứ mới đúng, nếu nhận thức sai về chứng cứ, sẽ phát hiện, thu giữ những sự kiện, hiện tượng không phải là chứng cứ trong vụ án, từ đó dẫn tới việc sử dụng sai và giải quyết vụ án không đúng. Đối với người tham gia tố tụng nhất là LS thì phải có nhận thức đúng vấn đề về chứng cứ mới thực hiện quyền của mình như cung cấp và đưa ra chứng cứ có giá trị chứng minh tới các CQTHTT, tạo điều kiện giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp thời. Chứng cứ cũng cần phải được mọi người, mọi công dân nhận thức đầy đủ để từ đó bảo quản, giữ nguyên giá trị chứng minh của chứng cứ từ khi phát hiện đến khi cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền. Nhận thức đúng về chứng cứ những người tham gia tố tụng cũng như mọi công dân có thể sử dụng chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Qua phân tích trên có thể đưa ra khái niệm sử dụng chứng cứ như sau: Sử dụng chứng cứ là việc các chủ thể có thẩm quyền lựa chọn những chứng cứ đã thu được theo quy định của pháp luật để làm sáng tỏ những vần đề cần phải chứng minh trong VAHS. Tuy nhiên, khác với hoạt động sử dụng chứng cứ của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đối với LS, sử dụng chứng cứ là việc lựa chọn những thông tin, tài liệu, đồ vật đã được thu thập để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị can mà mình bảo vệ theo quy định của pháp luật. LS có thể sử dụng chứng cứ do mình thu thập hoặc chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập. - Khái niệm vai trò của Luật sư 12 Vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó [61, tr.1095]. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “LS là người có chức trách, dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án” [24, tr.1059]. Theo qui định của Luật luật sư 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012, chức năng xã hội của LS là: "Hoạt động nghề nghiệp của LS góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. [35] Nói tới vai trò của LS là nói tới những tác động, ảnh hưởng của LS đối với cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động của mình, đối với xã hội thông qua chức năng cao quý của nghề nghiệp, góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển dân chủ, tạo lập công bằng xã hội. Về lý luận, cần phân biệt khái niệm “vai trò của LS" với “nhiệm vụ, quyền hạn của LS” theo quy định của pháp luật. Thực tế đang tồn tại một số quan niệm không đúng đắn về vai trò của LS trong đời sống xã hội, hoặc quá đề cao gần như “tuyệt đối" cái gọi là “biểu tượng của trình độ phát triển dân chủ xã hội ”, hoặc hạ thấp vai trò của LS chỉ là người trợ giúp, hoạt động mang tính chất “bổ trợ” và thụ động, phụ thuộc vào cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Với tư cách là một chức danh tư pháp tham gia độc lập vào đời sống xã hội và tố tụng tư pháp, LS đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các thiết chế dân chủ ở nước ta. Trong điều kiện phát triển của xã hội nước ta hiện nay và yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới [1]; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 [2]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [3], LS đã bước đầu được 13 nhìn nhận có vai trò quan trọng trong hoạt động tranh tụng và tư vấn pháp luật, là những người hành nghề chuyên nghiệp về pháp luật. Với cơ sở lý luận và thực tiễn, như phân tích ở trên, khái niệm LS nên được hiểu như sau: LS là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo uỷ quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước TAND và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Tham khảo một số quan điểm về vai trò của LS, thấy rằng: TS. Nguyễn Văn Tuân quan niệm vai trò của LS thể hiện trên 3 phương diện: a) Bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước toà án; bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức trong hoạt động tư vấn pháp luật và c) góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật [45, tr. 11- 16]. Có tác giả lại đề cập vai trò của LS trong lĩnh vực thông tin pháp luật, giải thích pháp luật, hướng dẫn hành vi của chủ thể được tư vấn pháp luật. Một quan niệm khác xem xét vai trò của LS trên bình diện truyền thống và hiện đại, trong đó LS có tác dụng hữu hiệu đối với việc bảo vệ và tăng cường thể chế pháp quyền; bênh vực và bảo vệ kẻ yếu; tham gia và đóng góp tích cực vào quá trình soạn thảo luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực và ý thức xã hội trong việc tiếp cận với dân chủ và pháp luật. Có thể nói vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo, LS sẽ cùng với thân chủ của mình trở thành một bên trong tố tụng; LS phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn của mình trong đó có kỹ năng về TTCC, kiến thức về chứng cứ và đánh giá chứng cứ, sàng lọc, phân loại, đánh giá tài liệu nào, lời khai nào, vật chứng nào, kết luận giám định nào… được coi là chứng cứ, nhằm bác lại những quan điểm đối lập, bảo vệ quan điểm của mình. Khi thu thập được các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án thì LS phải có trách nhiệm giao cho các CQTHTT; do vậy, LS khi thu thập được chứng cứ cần lựa chọn thời điểm đưa ra phù hợp trong quá trình tố 14 tụng của vụ án. Bên cạnh đó, LS công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về chứng cứ và sự thật khách quan của vụ án để phản biện lại những quan điểm của CQĐT; trao đổi, đề xuất những vấn đề về chứng cứ của vụ án; phát hiện ra những dấu hiệu không đảm bảo về chứng cứ trong quá trình xét xử, như chưa đủ chứng cứ hoặc chứng cứ yếu giúp cho CQĐT, cân nhắc trước khi đưa ra quyết định. Chính vì vậy, có thể nói, LS có vai trò rất quan trọng cùng với những người THTT khác trong việc đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự nhằm bào chữa và bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ. Qua phân tích, nghiên cứu những nội dung trên có thể hiểu vai trò của luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau: Vai trò của LS trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS là ảnh hưởng, tác động của LS thông qua hoạt động thực hiện chức năng của mình đối với việc phát hiện, tìm kiếm, kiểm tra và lựa chọn những thông tin, tài liệu, đồ vật để chống lại sự buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can theo quy định của pháp luật. 1.2. Đặc điểm hoạt động thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Trong TTHS, LS tham gia vào giai đoạn điều tra VAHS với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến hành khách quan, đúng pháp luật. Ở giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa. LS đóng vai trò “bác sĩ pháp lý” cho bị can, người được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan