Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở việt nam h...

Tài liệu Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở việt nam hiện nay

.PDF
48
83
81

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******* LÊ THỊ TÌNH VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ TÌNH VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Sơn Chủ tịch hội đồng Giảng viên hƣớng dẫn PGS.TS Dƣơng Văn Thịnh HÀ NỘI – 2016 TS. Nguyễn Văn Sơn CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Sơn. Các nhận định, giả thuyết, kết luận nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của bản thân trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố. Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2016 Học viên Lê Thị Tình LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ tình cảm quý trọng và tri ân chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Văn Sơn là tấm gương nghiên cứu khoa học mẫu mực, là cán bộ hướng dẫn khoa học đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô đang công tác trong trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Triết học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, chia sẻ, động viên, có những ý kiến khoa học quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại Khoa và để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ và giúp đỡ để tôi thực hiện tốt luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2016 Học viên Lê Thị Tình MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN ....................... 11 1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử ........................ 11 1.1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội ... 11 1.1.2. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người........... 17 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò và phát triển con người toàn diện ..................................................................................... 25 1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của con người trong công cuộc đổi mới đất nước ................................................ 26 1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện trong công cuộc đổi mới đất nước ........................................... 32 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 43 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................... 45 2.1 Thực trạng về vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam .................................................................................. 45 2.1.1. Những thành tựu chủ yếu của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm vừa qua. ................. 45 2.1.2. Những hạn chế chủ yếu của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam những năm vừa qua ................................... 50 1 2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm vừa qua ....................................................................... 60 2.2 Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................................... 65 2.2.1. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo phát triển con người Việt Nam trong thời gian tới............................ 65 2.2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay ....... 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đời sống kinh tế đã trở thành tất yếu. Việc hội nhập, phát triển mở ra nhiều triển vọng và nguy cơ cho các nước trong quá trình phát triển. Trên thực tế, mục tiêu kinh tế của các nước có sự giống nhau, đều hướng tới sự phát triển tối đa, trong khi điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người và lịch sử phát triển lại có sự khác biệt. Vấn đề đặt ra là, sự lựa chọn chiến lược phát triển trở thành yếu tố quyết định đến việc phát huy lợi thế, tranh thủ phát huy tối đa sức mạnh của mình cho mục tiêu kinh tế đó. Trong quá trình tìm kiếm mô hình phát triển, nhiều nước lựa chọn con đường phát triển dựa trên nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú; nhiều nước phát triển dựa trên mô hình phát huy vai trò của tri thức con người cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi mô hình đều đã mang lại những thành công nhất định. Tuy nhiên, nếu như tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt và mang lại giá trị kinh tế thấp; thì trí tuệ - với tư cách nguồn lực không giới hạn đã khắc phục được những hạn chế đó và ngày càng trở thành sự lựa chọn của nhiều quốc gia. Nhưng nguồn lực con người không phải là một dạng “tài nguyên” thông thường mà nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: lịch sử, văn hóa, ý thức hệ, các giá trị tinh thần và giá trị Người. Do đó, vấn đề đặt ra là phát huy sức mạnh tri thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng phải đảm bảo sự hài hòa, toàn diện và giải phóng con người. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt, sau 30 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng và đạt mức thu nhập trung bình của thế giới. Hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Kế thừa và phát huy tinh thần đó, một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh 3 phúc và phát triển toàn diện. Chủ nghĩa xã hội không phải là cái có sẵn, mà là công trình do quần chúng nhân dân xây dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quá trình này không diễn ra theo con đường bằng phẳng mà là quanh co, phức tạp đòi hỏi phải xác định mục tiêu, bước đi cụ thể. Để thực hiện mục tiêu con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện không thể không nói đến vai trò của giáo dục – đào tạo. Bởi lẽ, giáo dục – đào tạo vừa là yếu tố quan trọng nhất góp phần phát huy vai trò của tri thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa là yếu tố góp phần bồi dưỡng, phát triển nhân cách, đời sống tinh thần để con người phát triển một cách toàn diện. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có lẽ hiếm có một chủ đề nào mà lại được quan tâm nhiều như vấn đề giáo dục và con người. Bởi lẽ, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ của nhân loại đều xuất phát từ vấn đề con người, trong đó “tri thức là sức mạnh” được hình thành, phát triển chủ yếu từ quá trình giáo dục – đào tạo. Vì vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Trong những năm gần đây, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức về vai trò của giáo dục – đào tạo, đối với sự nghiệp phát triển con người nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Chúng ta có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục, vai trò của giáo dục phải kể đến một số công trình tiêu biểu sau: Công trình Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực của Viện Phát triển giáo dục xuất bản năm 2002 là sự tập hợp kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học, quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và xã hội khác nhau. Trong đó, có đề xuất chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm triển khai thành công các mục tiêu trong chiến lược giáo dục – đào tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. 4 Công trình Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Văn Sơn do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội phát hành năm 2002. Cuốn sách đã trình bày những vấn đề cơ bản về trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, cuốn sách nhấn mạnh đến thực trạng nhằm cung cấp thêm cơ sở cho việc đổi mới, phát triển nền giáo dục đại học Việt Nam. Công trình Kết quả đào tạo sau đại học tại Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia 1978 – 2003 của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 2003 đã tổng kết kết quả đào tạo tại Trung tâm giai đoạn 1978 – 2003. Đồng thời, phân tích một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn giáo dục đại học và đề xuất một số biện pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo sau đại học ở Trung tâm cho giai đoạn tiếp theo. Công trình Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân được công bố trên Tạp chí Phát triển giáo dục (Số 4 - 2005) đã phân tích vai trò của giáo dục với phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao; công trình cũng chỉ ra thực trạng và một số vấn đề bất cập của giáo dục. Trên cơ sở đó đề xuất một số ý kiến đổi mới giáo dục – đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công trình Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và giải pháp do Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội phát hành năm 2008 đã phân tích quan điểm coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu; phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục – đào tạo ở nước ta và một số nước trên thế giới. Từ đó, xác định một số quan điểm cơ bản về giáo dục – đào tạo ở nước ta cần phải nhận thức đúng và đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới giáo dục – đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Công trình Giáo dục và đào tạo: phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI của Trần Khánh Đức do Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội phát hành năm 2010. Cuốn sách đề cập và phân tích khá sâu sắc tình hình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực; 5 vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực nước ta trong thế kỷ XXI; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy, đổi mới giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Công trình Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài, Một số kinh nghiệm của thế giới (Chỉ đạo biên soạn - Tạ Ngọc Tấn) của Học viện Chính trị - hành chính quốc gia do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội phát hành năm 2012. Cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực, nhân tài và phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài của một số nước trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta. Ngoài những công trình tiêu biểu trên còn có nhiều luận văn, luận án và các bài nghiên cứu công bố trên các tạp chí. Như vậy, có thể nói các công trình trên đây đã phản ánh bức tranh tương đối đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực nói riêng và con người nói chung. Ở mức độ nhất định, các công trình đề xuất các giải pháp nhằm phát triển giáo dục, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, nhóm công trình liên quan đến lĩnh vực con người và phát triển con người, trong đó phải kể đến một số công trình: Công trình, Triết học Mác – Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Vũ Thiện Vương xuất bản năm 2001. Trong đó, tác giả đã phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người - cái bản chất luôn tồn tại một cách hiện thực với phương thức đặc thù là hoạt động có ý thức mà bằng hoạt động này con người đã sáng tạo ra lịch sử. Tác giả cũng phân tích những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng con người. Đồng thời, tác giả còn phân tích những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện đại. Đánh giá thực trạng và đặt ra những vấn đề đối với việc xây dựng con người Việt Nam trước và trong đổi mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất 3 phương hướng và 4 nhóm giải pháp để xây dựng con người Việt Nam. 6 Công trình Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam xuất bản năm 2002 của tác giả Đặng Hữu Toàn. Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam; quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt tác giả đã dành riêng một phần cuốn sách để luận giải học thuyết Mác về con người, giải phóng con người và vấn đề phát triển con người Việt Nam. Ngoài ra, còn có các công trình như: Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người xuất bản năm 2002 của tác giả Đặng Xuân Kỳ; Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người xuất bản năm 1997 của tác giả Trần Thành. Công trình Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Phạm Minh Hạc công bố năm 2001. Trong tác phẩm này, tác giả đã phân tích những đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, sự tác động của khoa học công nghệ và phân tích thành tựu, kinh nghiệm của một số nước phát triển, phân tích, làm rõ vai trò phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với việc nghiên cứu con người; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phẩm chất của con người Việt Nam. Cuốn Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa xuất bản năm 2001 của tác giả Phạm Minh Hạc. Nội dung cơ bản của cuốn sách là phân tích cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000, đồng thời nêu lên một số định hướng chiến lược và một số giải pháp nhằm xây dựng, phát triển con người Việt Nam về mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ…Đặc biệt, cuốn sách đã cụ thể hóa trong một phạm trù nhất định về mục tiêu đào tạo của nhà trường, chủ yếu ở hệ thống phổ thông và xây dựng chiến lược giáo dục toàn diện nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về các công trình, nhóm công trình, tạp chí viết về vấn đề vai trò của trí tuệ trong việc góp phần phát triển nguồn nhân lực toàn diện, gồm các công trình sau: 7 Bài Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước công bố trên Tạp chí Triết học, số 3 – 1994 của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn; Trí tuệ Nguồn lực vô tận của sự nghiệp phát triển xã hội công bố trên Tạp chí Triết học, số 1 – 1993 của tác giả Phạm Ngọc Trầm; Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất công bố trên Tạp chí Triết học, số 1 – 1993 của tác giả Nguyễn Đình Hòa; Nguồn tài nguyên con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước công bố trên Tạp chí Thông tin lý luận, số 11 – 1994 của tác giả Nguyễn Quan Du; Giáo dục – đào tạo – nền tảng của chiến lược con người công bố trên Tạp chí Cộng sản, số 3 – 1993 của tác giả Phạm Tất Dong; Phát triển giáo dục- đào tạo là điều kiện bảo đảm công nghiệp hóa, hiện đại hóa công bố trên Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 4 – 1995 của tác giả Lưu Đình Mạc; Nguồn nhân lựcđộng lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước công bố trên Tạp chí Triết học, số 1 – 1996 của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa. Về cơ bản, các công trình trên ít, nhiều đề cập đến vấn đề con người, vấn đề giáo dục – đào tạo dưới các góc độ, cấp độ và các giai đoạn khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi cố gắng phân tích những tác động cụ thể của giáo dục – đào tạo đối với việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay, với mong muốn góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, toàn diện. Trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới, đặc biệt trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo hiện nay, việc nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là việc làm cần thiết và không có sự trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Luận văn nghiên cứu làm rõ về tình hình phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay. * Nhiệm vụ: - Phân tích vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử và con người nói chung. 8 - Phân tích thành tựu và hạn chế trong việc phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay trên ba mặt: đạo đức, thể lực và trí tuệ. - Đưa ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu: Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Giáo dục – đào tạo luôn là mối quan tâm của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ngày nay, vai trò của giáo dục – đào tạo tác động lên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, đặc biệt đối với con người. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay dựa trên ba yếu tố: đạo đức, thể lực và trí tuệ. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận của luận văn Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, giáo dục, đạo đức và nhất là về con người. * Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích tổng hợp; lịch sử - logic; khái quát hóa. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp một số phương pháp như hệ thống hóa, đối chiếu, so sánh, thống kê…để làm rõ vấn đề mà luận văn đề cập đến. 9 6. Đóng góp của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề căn bản trong việc phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; đồng thời xây dựng một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về vấn đề liên quan đến giáo dục và phát triển con người. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. 10 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN 1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử 1.1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội Trước hết, phải khẳng định rằng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mọi dân tộc, quốc gia cũng như tiến trình phát triển chung của nhân loại. Trong đó, vai trò của con người với tư cách chủ thể của mọi hoạt động và sáng tạo ra lịch sử. Với việc sử dụng tri thức để cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình, con người đã từng bước góp phần vào sự phát triển xã hội. Quá trình phát triển đó phụ thuộc vào khả năng nắm bắt bản chất và quy luật của giới tự nhiên – tri thức. Khi con người sử dụng tri thức kinh nghiệm trong quá trình sống và hoạt động, ở mức độ nhất định đã mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, để đạt tới trình độ phát triển cao, đòi hỏi con người hiểu biết sâu sắc hơn về giới tự nhiên và khi ấy, vai trò của tri thức khoa học ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nói về vai trò của tri thức đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp, Ph. Ăngghen đã khẳng định: sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân luôn đòi hỏi phải có những kỹ sư, bác sĩ, các nhà bác học, và các chuyên gia khác. Giai cấp công nhân cần thiết lập quyền lãnh đạo của mình không phải chỉ ở bộ máy chính trị, mà họ phải cần đến những kiến thức khoa học vững chắc chứ không phải những luận điệu huênh hoang, rỗng tuếch. Quan điểm của các nhà mácxít khi đề cập đến con người cũng cho rằng, con người không thể đối diện với thực tế khách quan chỉ bằng những dự định, mệnh lệnh và mơ ước tuyệt đẹp… mà con người trong thời đại ngày nay phải là con người có năng lực hoạt động thực tiễn. Trong thời đại ngày nay, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức không phải là công việc của riêng quốc gia nào mà là mục tiêu của mọi quốc gia. Trên thực tế, Nhật Bản đã xây dựng thành công những thành phố công nghệ trải rộng trên cả 11 nước, với ý định dẫn đầu nhân loại vào làn sóng văn minh mới. Hoa Kỳ đang cố níu lại vị trí siêu cường kinh tế của mình bằng mọi cách, kể cả sử dụng vũ lực quân sự. Các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu đang cố gắng bứt lên trong cuộc cạnh tranh quyết liệt để sánh ngang với Nhật Bản và Mỹ. Các “con rồng” châu Á tuy đi sau nhưng cũng đã làm được những điều phi thường về kinh tế… Tất cả những quốc gia này đã làm nên những điều kỳ diệu trong phát triển kinh tế - xã hội, mặc dù họ không phải là những nước giàu tài nguyên, khoáng sản. Song, với quan điểm giáo dục và chiến lược về con người đúng đắn, họ đã tạo dựng một nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nhận thức được vai trò của giáo dục – đào tạo, sức mạnh của tri thức đã góp phần thúc đẩy các cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và xã hội thông tin tạo ra bước ngoặt trong lịch sử của loài người. Cuộc chạy đua giữa các quốc gia ngày nay thực chất là sự chạy đua về khai thác, phát huy và sử dụng tri thức trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong tất cả yếu tố tạo nên sự thành công của các quốc gia, đặc biệt sự phát triển vượt trội về kinh tế không có một yếu tố nào quan trọng hơn giáo dục – đào tạo. Bởi lẽ, lịch sử văn minh nhân loại như một dòng chảy bất tận không ngừng. Trong dòng chảy lịch sử ấy, xuất phát từ yêu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế, của sản xuất vật chất đòi hỏi phải có những tri thức. Chủ thể của mọi quá trình sản xuất, của mọi tư liệu lao động, của quan hệ tổ chức quản lý là con người, trong đó giáo dục – đào tạo là công cụ khai mở tri thức mới. Do vậy, sẽ là sai lầm khi không đánh giá đúng vị trí, vai trò của giáo dục – đào tạo trong các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, và “mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có thể xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử” [41, tr. 523]. Chủ nghĩa Mác đã tìm ra câu trả lời cho động lực làm nảy sinh tri thức mới phục vụ cho quá trình sản xuất, hay nói cách khác, tri thức là động lực chính viết nên lịch sử văn minh nhân loại, mà mỗi khi tri thức hay phát minh mới ra đời đều đánh dấu một bước tiến mới của nhân loại. 12 Khi nghiên cứu sự phát triển của lịch sử loài người, đặc biệt là sự phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất, nhà tương lai học người Mỹ - Alvin Toffler đã phác họa bức tranh của toàn bộ lịch sử nhân loại thông qua ba làn sóng văn minh: Làn sóng thứ nhất với giai đoạn văn minh nông nghiệp, làn sóng thứ hai với giai đoạn văn minh công nghiệp, làn sóng thứ ba với giai đoạn văn minh hậu công nghiệp. Trong đó, làn sóng thứ ba – văn minh hậu công nghiệp được đánh dấu từ những năm 50 của thế kỷ XX. Đó là vào những năm 1956, năm đầu tiên ở Hoa Kỳ, số công nhân mặc “áo cổ trắng” và nhân viên dịch vụ đã vượt về số lượng so với nhân viên mặc “áo cổ xanh”. Biểu tượng của làn sóng thứ ba là chiếc máy tính. Đó là sự lên ngôi của truyền thông, thông tin và tri thức khoa học. Trong lịch sử phát triển, loài người đã trải qua nhiều giai đoạn với những phương thức và huy động mọi nguồn lực khác nhau cho sự phát triển. Có những giai đoạn, con người chủ yếu sử dụng sức mạnh cơ học để tạo ra của cải vật chất, sức mạnh vật chất, tài nguyên cho sự phát triển. Và như thế, “con người chỉ có thể vận dụng sức lực đến một mức độ nào đó mà thôi. Của cải cũng cùng một cách thể hiện như vậy. Tiền của không thể mua hết tất cả, dù là núi vàng, núi bạc cũng có ngày khánh tận” [62, tr. 47]. Để vượt qua giới hạn này đòi hỏi vai trò của tri thứ c với tư cách nguồ n lực vô ha ̣n cả về lươ ̣ng và chấ t . Đặc biệt, trong thời đa ̣i ngày nay tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng , quyết định đối với quá trình sản xuất cũng như quá trình phát triể n . Và rằng, “tri thức không bị hạn chế như vậy, ngược lại, chúng ta có thể truy tầm nó mãi mãi đến tối đa” [62, tr. 47]. Hơn nữa , “tri thức, với tư cách là yếu tố sản xuất độc đáo, sẽ thay thế đất đai, tài nguyên, sẽ phá vỡ giới hạn địa lí, không gian, văn hóa, sẽ vượt qua lãnh thổ quốc gia, dân tộc, chủng tộc, trở thành “sức mạnh vô địch” trong xã hội. Tri thức, với tư cách là nguồn tài nguyên chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội, sáng tạo ra động lực phát triển mới, đồng thời, thông qua sự chuyển hóa hiện thực của các cá thể thay đổi tiến trình của sự sống” [66, tr. 10]. Không chỉ đế n ngày nay con người mới nhâ ̣n ra tri thức là nguồ n gố c của của cải và sự giàu có của xã hô ̣i mà ngay từ cuố i thế kỷ XVI đầ u thế kỷ XVII , Nhà triết học duy vật Anh Ph . Bêcơn đã đánh giá rất cao vai trò của tri 13 thức và đi đế n khẳ ng đinh ̣ “tri thức là sức mạnh” , vì thế, tri thức phải trở thành công cụ để con người nhận thức bất cứ sự vật nào tồn tại trong tự nhiên và trong thế giới loài người. Sự tìm tòi thứ chân lý ấy là sự thực hiện tồn tại do trí tuệ con người, bởi vì con người được giao cho thiên chức kiểm soát thế giới bao la và sự khám phá bằng trí tuệ chân chính của mình, bắt thế giới phục vụ cho nhu cầu của mình. Bởi vì mục đích cốt tủy của tri thức khoa học xét đến cùng là trang bị cho con người phương tiện hiện thực và năng lực biến đổi thế giới. Có thể nói, với sức ma ̣nh của tri thức , loài người đã tạo ra những biến đổi về chất chưa từng có trong lực lượng sản xuất. Một thực tế chắc chắn là, với sự gia tăng sức mạnh của tri thức , khoa học, công nghệ, nguồ n gố c của cải không còn dựa nhiều vào cơ bắp và tài nguyên thiên nhiên , mà chủ yếu dựa vào tri thức , khoa học và công nghệ. Đặc biệt, với xu thế toàn cầ u hoá các liñ h vực của đời số ng xã hô ̣i , sự bùng nổ thông tin với sự ứng dụng các công nghệ mới đã trở thành một vũ khí cạnh tranh có tính chiến lược trong kinh doanh, một lực thúc đẩy then chốt trong hệ thống sáng tạo của cải mới. Kết quả của những biến đổi đó là các vấn đề an sinh xã hội cũng được giải quyết từng bước trong cơ cấu xã hội . Và “chúng ta đương nhiên vui mừng khi thấy rằng chỉ một thành quả khoa học như máy hơi nước của Jame Watt, trong 50 năm đầu tồn tại của nó, đã đem lại cho thế giới lợi ích nhiều hơn so với những giá phải trả cho công việc phát triển khoa học kể từ lúc bắt đầu” [43, tr. 607]. Tuy nhiên, tri thức không phải cái tự nhiên có sẵn trong giới tự nhiên mà phải thông qua quá triǹ h tác đô ̣ng qua la ̣i giữa giới tự nhiên với bô ̣ naõ con người . Hơn nữa, để đạt được độ sâu sắc và bản chất đòi hỏi con người cần thiết phải hệ thống hoá, lôgíc hoá và có “công cu ̣” cho quá trình mở mang , nâng cao tri thức. Và như thế , giáo dục – đào ta ̣o là mô ̣t trong những yế u tố đóng vai trò quan tro ̣ng , quyế t đinh ̣ nhấ t cho sự phát huy, phát triển tri thức của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Vì thế Đảng ta đã khẳng định : “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [21, tr. 94 – 95]. Không chỉ thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong quan điểm phát triển, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và coi đầu tư 14 cho giáo dục – đào tạo là đầu tư cho sự phát triển. Giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ không chỉ nâng cao dân trí, mà còn “phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” [22, tr. 77]. Trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học công nghệ bùng nổ thì càng không thể thiếu vai trò của giáo du ̣c – đào ta ̣o – yế u tố chính góp phần nâng cao trình độ dân trí , phát triển khoa học công nghệ và tăng năng suốt lao động . Theo Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992 nhấ n ma ̣nh: không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào giáo dục. Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển biến về trình độc học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho người dân. Điều đó cho chúng ta thấy, khi người dân đạt được một trình độ học vấn nhất định họ sẽ có khả năng tiếp thu thông tin cũng như khả năng phát huy chuyên môn của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, trình độ của nguồn nhân lực càng cao, khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất càng mạnh mẽ , sản phẩm do họ m ang lại có giá trị cao nhờ vào hàm lươ ̣ng tri thức ẩ n dấ u trong sản phẩ m . Mặt khác, một điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là việc đầu tư cho giáo dục – đào tạo sẽ làm tăng năng suất cho chính bản thân họ , từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng cuộc sống . Hơn thế nữa , người lao đô ̣ng vừa là người ta ̣o ra của cải , vừa là lực lươ ̣ng sáng ta ̣o ra kỹ thuật công nghệ và trực tiếp sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế . Do đó , ta có thể nhận thấy việc nâng cao trình độ học vấn và đào ta ̣o kiến thức chuyên môn sẽ quyế t đinh ̣ trực tiế p đế n năng suất và hiệu quả lao đô ̣ng sản xuấ t . Ở phạm vi vĩ mô, giáo dục làm tăng kỹ năng lao động , tăng năng suất và dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - mô ̣t trong những tiề n đề chủ yế u cho sự phát triể n con người. Do vậy, giáo dục được xem như là một hoạt động đầu tư làm tăng vốn nhân 15 lực, có ích cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Chính vì thế, giáo dục – đào tạo được coi là quốc sách. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển chỉ ra rằng, ở những quốc gia mà người dân có trình độ học vấn cao thường có trình độ phát triển cao hơn. Hầ u như các học giả đều cho rằng , đào tạo là yếu tố sản xuất quan tro ̣ng trong hàm lượng sản xuất của nền kinh tế. Sự đầu tư cho giáo dục – đào tạo sẽ làm tăng chất lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với nước ta , phát triển giáo dục – đào ta ̣o luôn đươ ̣c coi là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng . Về phương diê ̣n số lươ ̣ng , nước ta đang ở giai đoa ̣n dân số vàn g – với lực lươ ̣ng lao đô ̣ng dồ i d ào. Tuy nhiên, nế u chỉ dựa vào số lươ ̣ng thì cũng chỉ như là dựa vào sức ma ̣nh “cơ bắ p” . Vì thế, viê ̣c cầ n thiế t và để tố i ưu hoá “dân số vàng” đòi hỏi phải phá t huy vai trò của giáo dục – đào ta ̣o nhằ m nhanh chóng tri thức hoá lực lượng lao động của xã hội biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, trình độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động cá nhân và sự phát triển của xã hội. Giáo dục – đào tạo nâng cao chất lượng lao động còn được thể hiện qua việc tích lũy vốn, tăng thu nhập người lao động. Giáo dục – đào tạo cũng là công cụ để thế hệ trước truyền lại cho các thế hệ những tư tưởng , văn hoá cùng những giá tri ̣ tinh thầ n và sự tiến bộ về khoa học công nghệ . Với đấ t nước ta hiê ̣n nay , giáo dục – đào tạo còn hướng đế n thực hiện mục tiêu : “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài” hình thành đội ngũ lao đô ̣ng có tri thức , có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Giáo dục – đào tạo gắn liền với học hành , những điều học sinh học trong nhà trường cầ n gắn với nghề nghiệp và cuộc sống . Giáo dục – đào tạo giúp đào tạo lớp người có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa học, công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan