Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của giai cấp nông dân việt nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông th...

Tài liệu Vai trò của giai cấp nông dân việt nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta hiện nay

.PDF
112
193
145

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƯƠNG HIỀN VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƯƠNG HIỀN VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60.22.85 Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Văn Duyên Hà Nội - 2013 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƢƠNG 1: GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MÔI TRƢỜNG VĂN HÓA NÔNG THÔN ...............................................7 1.1. Giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay ..........................................................7 1.1.1. Khái niệm giai cấp nông dân ......................................................................7 1.1.2. Sự biến đổi của giai cấp nông dân Việt Nam .............................................9 1.2. Xây dựng môi trƣờng văn hóa nông thôn mới Việt Nam hiện nay ..........18 1.2.1. Xây dựng nông thôn mới Việt Nam hiện nay ..........................................18 1.2.2. Một số khái niệm liên quan đến xây dựng môi trường văn hóa nông thôn ...........................................................................................................21 1.2.3. Vai trò của giai cấp nông dân trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn Việt Nam hiện nay.............................................................................36 Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................46 CHƢƠNG 2: VAI TRÕ GIAI CẤP NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG MÔI TRƢỜNG VĂN HÓA NÔNG THÔN NƢỚC TA NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI VỪA QUA –THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ...................................47 2.1. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng vai trò giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trƣờng văn hóa nông thôn nƣớc ta những năm qua....................................................................................................47 2.1.1. Những thành tựu và hạn chế vai trò của giai cấp nông dân trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta những năm đổi mới vừa qua .......47 2.1.2. Nguyên nhân những thành tựu và hạn chế vai trò của giai cấp nông dân trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta hiện nay ...............71 2.2. Những giải pháp chủ yếu để phát huy tốt hơn nữa vai trò của nông dân trong xây dựng môi trƣờng văn hóa nông thôn.........................................73 2.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức...................................................................73 2.2.2. Nhóm giải pháp về giáo dục – đào tạo .....................................................78 2.2.3. Nhóm giải pháp về văn hóa – xã hội ........................................................84 2.2.4. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội ..........................................................91 Kết luận chƣơng hai ............................................................................................92 KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................96 PHỤ LỤC ...............................................................................................................100 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề nông dân có tầm quan trọng đặc biệt về lý luận và thực tiễn. Đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng, giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình – xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản phải lôi kéo và nắm lấy một lực lượng cách mạng là giai cấp nông dân. Từ nhận thức đó các nhà kinh điển có những luận điểm đúng đắn về nông dân, vai trò của nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành tư tưởng kết hợp cách mạng vô sản với phong trào của nông dân và nêu nguyên lý về liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi đó là nguyên tắc quan trọng của chuyên chính vô sản. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng của Mác – Lênin vào thực tiễn nước ta, đã giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân - một vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Khi tổng kết 30 năm hoạt động của Đảng, Người viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta thấy rõ rằng trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền của công – nông”. Do vậy, Đảng ta đã tiến hành tổ chức, động viên, tập hợp giai cấp nông dân cùng với giai cấp công nhân nước ta hình thành đội quân chủ lực hùng mạnh, đóng góp to lớn về sức người, sức của cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Môi trường văn hóa Việt Nam là thành quả sáng tạo hàng ngàn năm của nhân dân các tộc người Việt Nam trên các vùng lãnh thổ, là chiếc nôi nuôi dưỡng biết bao nhiêu thế hệ người trong lao động, giao tiếp, phát triển nhân cách, hình thành lối sống; là mái nhà chung của cả cộng đồng dân tộc. Môi trường văn hóa Việt Nam là gắn liền với lối sống lâu đời của nông dân có quan hệ chặt chẽ đến cách thức sản xuất, xây dựng nơi cư trú, quan hệ huyết tộc, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Hàng ngàn năm, nước ta là một nước nông nghiệp. Trước đây hơn 90% nhân dân sống bằng nghề nông và đã kiến tạo thành những môi trường buôn sóc, mường 1 bản, làng xã. Và giờ đây, tuy xã hội ta có lai ghép ít nhiều công nghiệp, song vẫn còn trên dưới 50 % cư dân sống bằng nghề nông, săn bắt và làm ruộng, làm vườn. Vì thế lối sống của tuyệt đại bộ phận nhân dân vẫn là lối sống nông dân. Khi đề cập đến việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ V khóa VIII đã đặt ra vấn đề xây dựng môi trường văn hóa nông thôn trong quá trình xây dựng môi trường chung của toàn xã hội. Chúng ta cần thiết phải xây dựng môi trường văn hóa ở nông thôn bởi vì nước ta là một nước nông nghiệp, văn hóa ở nông thôn không phát triển thì xã hội của ta không thể trở thành văn minh và hạnh phúc. Thực trạng văn hóa nông thôn ở nước ta còn nghèo nàn cần phải được quan tâm đầy đủ. Theo thời gian, nông thôn Việt - làng Việt giờ đây đã khác xưa. Nền kinh tế phát triển, tốc độ đô thị hóa diễn ra mau lẹ, cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội biến đổi, quỹ thời gian của con người trở nên eo hẹp, không gian văn hóa làng Việt – nông thôn Việt cũng theo đó mà biến đổi dần. Vẫn còn hồn xưa trong lễ hội làng, nhưng các khu công nghiệp đã “tràn về” sát vách; những làng quê yên ả, giờ đang rộn rã công trường xây dựng; những làng lúa, làng hoa, giờ là những khu đô thị, khu chung cư cao tầng đông người; không gian kiến trúc của làng mất dần đi, nhiều nơi không còn tìm đâu ra cây đa giếng nước mái đình; các sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngày càng thưa vắng hoặc mai một dần và tệ nạn xã hội đang có xu hướng thâm nhập vào các tầng lớp dân cư nông thôn. Mối liên hệ của con người nông thôn đã tăng lên nhiều và trở nên đa dạng hơn, đặc biệt mối liên hệ với thành thị ngày càng phát triển. Vấn đề con người đặt ra ngày càng sâu sắc hơn. Hiện nay gia đình nông nghiệp đang trải qua một sự biến đổi do những nhân tố bên ngoài và bên trong… Trong xã hội nông thôn cũng như ở nơi khác, một số lĩnh vực trong đó thường xảy ra một sự giảm dần một số giá trị theo kiểu xói mòn khó nhận thấy, đồng thời với giá trị hoá chậm chạp một số yếu tố mới. Người ta nhận thấy rằng dù tiến hoá tới đâu, thế giới nông thôn vẫn kế thừa quá khứ của nó, kiểu văn hoá cổ truyền có thể được duy trì trong chiều sâu. Nông thôn Việt Nam bao gồm một vùng đất rộng lớn. Ở khu vực miền Bắc và miền Trung bao gồm ba vùng lãnh thổ: vùng núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Ở miền Nam bao gồm hai vùng sinh thái: Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long có các sinh hoạt văn hóa khác nhau. Nói chung các vấn đề cơ bản 2 của văn hóa, môi trường văn hóa nông thôn Việt Nam đều xoay quanh các vấn đề gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, các phong tục tập quán, các lễ hội, sự phát triển nhân cách, hệ tư tưởng và các sinh hoạt văn nghệ. Nước ta là một nước nông nghiệp, dân số nông thôn chiếm 69,6 % dân số (năm 2010). Giai cấp nông dân có vai trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nội dung của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có tiến hành cách mạng tư tưởng - văn hóa. Vì vậy, giai cấp nông dân là chủ thể có vai trò to lớn trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn Việt Nam. Thế giới ngày nay đang biến đổi hết sức mau lẹ. Các thế lực thù địch có nhiều âm mưu thủ đoạn xảo quyệt và chưa từ bỏ mục tiêu là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Đối với nước ta chúng tập trung mũi nhọn vào địa bàn nông thôn nhằm vào các đối tượng nông dân. Trên thực tế ở các địa phương trong những năm qua, tình hình nông dân diễn biến rất phức tạp đặc biệt là về văn hóa tư tưởng. Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta cần được quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa. Đó là lý do tôi lựa chọn vấn đề “Vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Do giai cấp nông dân là giai cấp có vai trò quan trọng trong tiến trình chung của lịch sử dân tộc và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì vậy đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về nông dân: Nxb Sự thật (1955), Vấn đề nông dân: Trích dịch tác phẩm của Mác – Ăngghen, Lênin, Sta – lin, Mao Trạch Đông, Hà Nội; M.A.Ocunhépva, Trần Đoàn dịch (1977), Những quan điểm lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về tính cách mạng của nông dân, Nxb Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. Những công trình này nhằm cho người đọc thấy được vị trí vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân; Nguyễn Văn Hiệp (1999), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân và sự vận dụng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hội nông dân Việt Nam (1999), Công tác vận động nông dân 3 trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; TS. Đoàn Minh Duệ (chủ biên) (2002), Giai cấp nông dân Nghệ An trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Nghệ An; Vũ Ngọc Kỳ (2005), Một số vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân, hội nông dân ở Việt Nam, Nxb nông nghiệp Hà Nội. Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về nông dân và vai trò của nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, vai trò, thực trạng … của nông dân nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Một số công trình nghiên cứu trực tiếp vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: Bùi Thị Thanh Hương (2000), Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội; Đặng Thị Phương Duyên (2001), Phát huy vai trò của nông dân Thái Bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Tô Văn Sông (2002), Phát huy vai trò của nông dân tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội; Phạm Huỳnh Minh Hùng (2005), Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội; Tô Mạnh Cường (2008), Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò đó ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Hà Nội; Mai Thị Mến (2010), Vai trò của nông dân tỉnh Thái Bình trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Hà Nội. Các công trình trên đều bàn về đặc điểm, xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân, tâm lý, ý thức, nhu cầu, nguyện vọng; vai trò, thực trạng, giải pháp việc phát huy vai trò nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hay một số đề tài nghiên cứu về vai trò của nông dân trong phạm vi của một địa phương. Một số bài báo nghiên cứu về nông dân: Đinh Quang Hải (2007), Liên kết “4 nhà” – Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 4; Võ Tòng Xuân (2008), Nông nghiệp và nông dân Việt Nam phải làm gì để hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản, Số 785; Nguyễn Cúc (2008), Chính sách nhà 4 nước đối với nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản, Số 787; Lê Văn Yên (2009), Quan điểm của Mác – Lênin về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp cách mạng, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 1. Các nghiên cứu trên bàn về vị trí, vai trò; thực trạng và giải pháp đối với nông dân nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Đặc biệt, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của nông dân trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn ở nước ta một số năm qua, luận văn nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò đó trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn Việt Nam những năm tới. Nhiệm vụ: - Phân tích khái niệm giai cấp nông dân, những sự biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay. - Làm rõ một số khái niệm liên quan đến xây dựng môi trường văn hóa nông thôn. - Làm rõ vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta trong những năm đổi mới. - Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của giai cấp nông dân nước ta trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn nước ta. Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của giai cấp nông dân trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn Việt Nam từ những năm đổi mới đến nay. 5 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nông dân… Đồng thời, luận văn cũng kế thừa những thành quả của những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn trong những năm gần đây. Cơ sở thực tiễn: Luận văn được thực hiện qua những báo cáo tổng kết, qua thu thập tài liệu của bản thân tác giả, dựa vào những thống kê của nước ta về vấn đề nông dân trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng các phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh … 6. Ý nghĩa của luận văn Về mặt lý luận: Góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận về giai cấp nông dân và vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa trong đó quan trọng là trong xây dựng môi trường văn hóa nông thôn ở nước ta hiện nay. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu các chủ thể xây dựng nông thôn mới và cung cấp những luận cứ, luận chứng khoa học để các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng vận dụng trong thực tiễn xây dựng nông thôn mới Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 2 chương 4 tiết. 6 CHƢƠNG 1: GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MÔI TRƢỜNG VĂN HÓA NÔNG THÔN 1.1. Giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay 1.1.1. Khái niệm giai cấp nông dân Giai cấp nông dân hình thành trong quá trình tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tồn tại của giai cấp nông dân gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do đó, giai cấp nông dân giữ một vai trò quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đặc biệt, ở nhiều quốc gia, khi công nghiệp và đô thị chưa phát triển, vai trò của nông dân được quan tâm đặc biệt. Ở xã hội phương Đông, nông dân là giai cấp đóng vai trò quan trọng nhất (hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ). Ở phương Tây, giai cấp nông dân dưới con mắt của những nhà lý luận thuộc phái trọng nông được đánh giá cao. Tuy nhiên, nhìn chung, trước Mác, trong con mắt của nhiều nhà tư tưởng thuộc giai cấp thống trị, giai cấp nông dân chỉ là công cụ để sai khiến và bóc lột. Chỉ đến khi học thuyết Mác được hình thành, bổ sung và phát triển bằng chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì quan điểm khoa học về nông dân mới được hình thành và phát triển. Theo William Rosberring, nhà nghiên cứu xã hội học Mỹ “ Nông dân được coi là những người sản xuất lương thực cho bản thân và cho các nhóm xã hội khác có địa vị cao hơn” [14; tr 30]. Trong Đại từ điển Tiếng Việt, nông dân là “ người lao động sống bằng nghề làm ruộng” [38; tr 1283]. Như vậy có thể thấy, nông dân là một bộ phận dân cư lao động gắn liền với sản xuất nông nghiệp, có thu nhập chính từ lao động nông nghiệp. Xét về bản chất xã hội và địa vị của giai cấp nông dân thì nông dân vừa là giai cấp những người lao động, vừa là giai cấp những người sở hữu. Trong học thuyết của mình, trên cơ sở nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung chú ý nhiều tới vấn đề các bạn đồng minh của giai cấp công nhân, đặc biệt là giai cấp nông dân. C.Mác cho rằng, 7 “Nông dân là giai cấp những người tiểu nông” [ 19; tr 263]. “Tiểu nông là một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong những mối quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau” [ 19; tr 264]. Lênin cho rằng, những tầng lớp lao động ở nông thôn bao gồm giai cấp vô sản nông nghiệp, những người nửa vô sản hay những người nông dân có ít ruộng, tầng lớp tiểu nông và trung nông gộp lại với nhau cấu thành những tầng lớp khác nhau của nông dân. Ông khẳng định: “Lực lượng thứ hai – tức là lực lượng đứng giữa tư bản phát triển và giai cấp vô sản. Đó là giai cấp tiểu tư sản, những người tiểu sở hữu; đó là những phần tử hợp thành tuyệt đại đa số dân cư ở nước ta, tức là giai cấp nông dân” [15; tr 160]. Qua các luận điểm của Mác, Ăngghen, Lênin có thể khái quát giai cấp nông dân như sau: Một là, giai cấp nông dân là những người tư hữu nhỏ. Họ là những người chủ sở hữu nhỏ về đất đai, nông cụ và do đó có kinh tế độc lập. Họ có sở hữu tư liệu sản xuất hoặc đủ hoặc không đủ nuôi sống gia đình họ. Hai là, giai cấp nông dân không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Phương thức lao động của họ là phân tán, tách biệt, riêng lẻ, kỹ thuật lạc hậu, mang tính tự cấp, tự túc, manh mún. Ba là, nông dân sản xuất ra lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu của xã hội, sản xuất ra công cụ lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp. Bốn là, nông dân là những người sinh sống ở các vùng nông thôn. Các văn kiện của Đảng ta tuy không nói đến khái niệm nông dân nhưng qua các quan điểm về nông dân gắn với nông nghiệp, nông thôn có thể khái quát quan điểm của Đảng về nông dân như sau: “Nông dân là khái niệm chỉ về thân phận hay nghề nghiệp của một nhóm dân cư trong xã hội, phân biệt với công nhân, trí thức… Nông dân theo khái niệm này thường có hai tiêu chí phân biệt: một là, nghề nghiệp chính là trồng trọt và chăn nuôi; hai là, sinh sống ở nông thôn (phân biệt với thành thị) [ 4; tr 112]. 8 Gần đây có một số công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm nông dân một cách phù hợp hơn, như : “ Nông dân được coi là những người nuôi mình với tư cách là người lao động, trồng trọt trên đất đai và sống trong những làng mạc nhỏ bé” [ 2; tr 7 ], hoặc “ Nông dân ở nước ta hiện nay là những người sống lâu đời ở thôn (làng, bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng) làm nguồn sống chính dưới hình thức hộ gia đình” [ 3; tr 8 ]. Tóm lại, nông dân ở nước ta hiểu theo nghĩa hẹp là những người sống bằng nghề làm ruộng, sống ở nông thôn, thu nhập chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, sản phẩm của họ là lương thực, thực phẩm và tư liệu sản xuất chủ yếu của họ là ruộng đất. Theo nghĩa rộng, giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất nhỏ trong nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp), nghề nghiệp chính là sản xuất nông nghiệp, nguồn sống chủ yếu dựa vào thu nhập từ các sản phẩm nông nghiệp, trực tiếp canh tác để tạo ra nông sản bằng việc sử dụng tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù gắn bó với tự nhiên là đất, rừng biển để sản xuất ra sản phẩm nông – lâm ngư nghiệp. 1.1.2. Sự biến đổi của giai cấp nông dân Việt Nam Có thể thấy, sự tác động tích cực của nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã làm cho giai cấp nông dân Việt Nam có sự biến đổi lớn như sau: Một là, tỷ lệ nông dân trong dân số ngày một giảm Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đã thúc đẩy nhu cầu lấy đất nông nghiệp để làm khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị, vì thế những nông dân bị mất đất buộc phải chuyển sang làm nghề mới như buôn bán, làm công nghiệp, mở doanh nghiệp nông dân… Đồng thời, động lực lợi ích trong nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn. Việc giảm tỷ lệ nông dân đã tạo ra cơ hội thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu xã hội trong xã hội nông thôn, đã góp phần phát triển nguồn nhân lực của các lĩnh vực khác. Hai là, vai trò chủ thể kinh tế và chính trị của người nông dân nước ta đã và đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Sự tác động tích cực của nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế nhất là của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến nông nghiệp – nông thôn – nông 9 dân đã làm cho vị thế và vai trò chủ thể kinh tế, chính trị của người nông dân biến đổi mạnh mẽ. Lúc này, tác động của yếu tố khoa học công nghệ hiện đại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của yếu tố động lực lợi ích trong nền kinh tế thị trường và của sự cạnh tranh gay gắt trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đến người nông dân đã làm cho họ trở thành một chủ thể kinh tế độc lập đích thực trong cuộc sống và mọi hoạt động của mình. Đồng thời, sự tác động tích cực của nhân tố trên cũng đã giúp người nông dân thời kỳ đổi mới trở thành chủ thể chính trị thực sự, mà trước hết là bắt đầu từ chính hộ gia đình, trang trại doanh nghiệp của mình. Ba là, sự hình thành những chủ thể sản xuất kinh doanh trong kinh tế hộ nông dân và trong các hợp tác xã kiểu mới. Với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản xuất theo cơ chế thị trường, các hộ nông dân đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách năng động, đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của từng hộ, tạo ra một thị trường hàng hóa phong phú và dồi dào. Trong quá trình chuyển sang kinh tế hộ, nhiều hộ có vốn, có kinh nghiệm sản xuất đã năng động, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Quá trình sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp ở nông thôn đã phát sinh nhu cầu phải liên kết, hợp tác giữa các hộ nông dân để thực hiện nhiều khâu, nhiều công đoạn, nhiều dịch vụ mà từng hộ nông dân không làm được, hoặc làm không tốt. Từ đó nhiều hợp tác xã kiểu mới, trên cơ sở tự nguyện hoàn toàn của nông dân đã xuất hiện. Sản xuất ở nông thôn một khi càng được chuyên môn hóa, càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng và trở thành nhu cầu của các hộ nông dân. Lợi ích của hợp tác xã và từng hộ xã viên gắn chặt với nhau nên trong sản xuất, hộ nông dân cá thể hay hộ xã viên của hợp tác xã mạnh dạn đầu tư khoa học – kỹ thuật, vốn vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn nữa với sự nhạy bén, am hiểu thị trường, biết định hướng kinh doanh, nên thu nhập của họ ngày càng cao. Ở nông thôn đã xuất hiện những chủ thể sản xuất, kinh doanh giỏi. Đây là điểm sáng động viên và kích thích những hộ nông dân làm ăn yếu kém, là những nhân tố mới trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn nhằm cung cấp nông sản hàng hóa có chất lượng cao phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Sự hình thành những chủ thể sản xuất, kinh doanh giỏi trong kinh tế hộ và trong các hợp tác xã là bước phát triển mới do quá trình đổi mới đem lại. Đây là sự 10 phát triển mới về chất của người nông dân ở nông thôn. Nó gắn liền với bước chuyển tất yếu từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Đây là dấu hiệu phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa, những chủ thể sản xuất, kinh doanh mới được đặc trưng bởi lớp trẻ là những người có trình độ văn hóa khá, có kỹ thuật trong sản xuất, là lực lượng luôn thành công trong sản xuất và kinh doanh nên họ đều là những người giàu có ở nông thôn. Bốn là, mối quan hệ giữa người nông dân với Nhà nước, với nhà doanh nghiệp, với nhà khoa học đã có sự gắn kết mật thiết hơn. Sự tác động của nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến nông nghiệp – nông thôn – nông dân đã làm cho mối quan hệ giữa nông dân với Nhà nước, với doanh nghiệp và nhà khoa học có sự gắn kết mật thiết hơn. Nhờ sự tác động trên mà mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với nông dân đã có bước chuyển biến mới theo hướng mọi mối quan hệ trao đổi giữa các tổ chức kinh tế của Nhà nước với hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp và hộ nông dân phải theo nguyên tắc biến đổi, thuận mua vừa bán, bảo đảm củng cố liên minh công – nông. Đồng thời sự tác động của động lực lợi ích trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhu cầu gắn kết giữa nhà nông với nhà doanh nghiệp và nhà khoa học. Năm là, biến đổi tích cực trong tâm lý, ý thức và lối sống của nông dân nhờ sự tăng tiến của học vấn, của giao lưu văn hóa trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa Nhờ trình độ học vấn được nâng cao, người nông dân đã thích ứng với cơ chế mới, tiếp thu và ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất. Từ đó, tư duy kinh tế của người nông dân đã có sự thay đổi. Chuyển sang kinh tế hàng hóa, là bước ngoặt về tâm lý và tư duy nền kinh tế hiện vật sang tư duy kinh tế bằng giá trị. Nó làm thay đổi đời sống ý thức của người nông dân. Đô thị hóa nông thôn là một hiện tượng tất yếu. Quá trình này sẽ chuyển dần lao động từ sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Việc biến một số vùng nông thôn thành các khu đô thị mới làm cho người nông dân có những thay đổi về mặt tâm lý, ý thức và lối sống. 11 Người nông dân ở các khu vực mới đô thị hóa đã biết tính toán về giá trị sức lao động, lợi ích của việc sử dụng sức lao động cho thật hợp lý. Theo đó, quan hệ thuê mướn nhân công và các công cụ sản xuất cũng phát triển mạnh. Tâm lý sử dụng dịch vụ xã hội của người nông dân đã thay thế tâm lý tự cấp, tự túc trước đây. Người nông dân tuy không bỏ thói quen trồng trọt và chăn nuôi, nhưng họ đã có những thay đổi trong nhận thức về hướng đầu tư vào sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Trong xu hướng này, hoạt động sản xuất của nông dân mang tính chất hàng hóa rõ rệt. Trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn, tâm lý, ý thức, lối sống của bản thân người nông dân thay đổi theo hướng tích cực, góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất trong điều kiện mới, người nông dân đã và đang kiên quyết khắc phục những tập quán lạc hậu, những mặt hạn chế, thiếu sót, phát huy những truyền thống tốt, những ưu điểm của người lao động, kết hợp hài hòa giữa những giá trị truyền thống với những phẩm chất tiên tiến của thời đại. Tuy nhiên, dưới sự tác động mặt trái của nhân tố đổi mới đất nước và mở cửa, hội nhập quốc tế, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giai cấp nông dân nước ta đã và đang phải đối mặt với những vấn đề, khó khăn thách thức sau đây: Một là, quá trình phân hóa giàu nghèo nông dân diễn ra ngày càng mạnh mẽ và khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ nông dân ngày càng doãng thêm. Sự tác động của mặt tích cực của nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế, nhất là của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã đem đến những chuyển biến tích cực, lớn lao cho giai cấp nông dân. Ngược lại, sự tác động mặt trái của chúng đã tạo ra sự phân hóa thành các tầng lớp trong giai cấp nông dân, thành các bộ phận có địa vị kinh tế - xã hội rất khác nhau trong quá trình sản xuất nông nghiệp; đã làm xuất hiện các chủ trang trại, các chủ doanh nghiệp nông dân và những người làm thuê cho họ. Như vậy, trong nội bộ giai cấp nông dân đã xuất hiện sự phân hóa thành người chủ và người làm thuê, đã xuất hiện quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Đây là sự phân hóa tất yếu trong nội bộ giai cấp nông dân, khi nước ta quyết định đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 12 nghĩa. Tuy nhiên, với bản chất là một nước định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải làm hết sức mình để góp phần lành mạnh hóa sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ giai cấp nông dân. Hệ quả của sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông dân đã dẫn đến xuất hiện sự phân tầng về thu nhập, đã tạo ra khoảng cách giàu nghèo giữa người nông dân có thu nhập cao với người nông dân có thu nhập thấp, đã tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập ngay chính nội bộ giai cấp nông dân. Thực tế cho thấy, sự tác động của động lực lợi ích trong nền kinh tế thị trường, rất nhiều nông dân đã mạnh dạn làm giàu chính đáng và họ đã trở thành những tỷ phú nông dân, có thu nhập và mức sống cao. Trái ngược với sự giàu có của họ là sự thu nhập thấp và khó khăn của những người nông dân nghèo. Nguyên nhân nghèo đói của nông dân có thể là do không biết cách làm kinh tế, hoặc là do đông con, ốm đau, bệnh tật, thiếu lao động, hoặc là mất mùa, thiên tai bệnh dịch, hoặc do thói chây lười lao động, nghiện hút, rượu chè, cờ bạc… Hậu quả là những người nông dân này đã rơi vào tình cảnh nợ nần, phá sản… phải bán đất, nhà cửa để trả nợ. Đáng buồn là hiện nay, khoảng cách giàu nghèo không chỉ diễn ra giữa các hộ nông dân, mà nó còn diễn ra giữa nông dân miền núi và nông thôn đồng bằng, giữa nông thôn vùng ven đô thị với nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Điều này đã đặt ra một nhiệm vụ hết sức nặng nề cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể là phải thu hẹp khoảng cách giàu nghèo lại. Hai là, tình trạng nông dân phải chịu quá nhiều tài khoản đóng góp và hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai. Khi báo Nông thôn ngày nay (của Hội nông dân) cho ra loạt phóng sự “Một hạt thóc cõng 40 khoản lệ phí” đã tạo ra sự ngỡ ngàng, thậm chí bàng hoàng cho không ít người. Có thể thấy, khi chưa có thông tin trên thì nhiều người không thể ngờ được là hàng ngày người nông dân đã phải oằn mình để gánh chịu nhiều khoản đóng góp đến như vậy, mà không biết kêu với ai. Các khoản đó gồm quỹ quốc phòng – an ninh, quỹ phòng chống bão lụt, quỹ bảo trợ trẻ em, quỹ đền ơn đáp nghĩa,… các loại phí thủy lợi, phí bảo vệ đồn điền, học phí cho con em…, các loại quỹ của các đoàn thể Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội chữ thập đỏ…, có khoản đóng 13 góp do Trung ương quy định, có khoản do địa phương quy định. Tổng các khoản đóng góp khoảng 40 đến 46, thậm chí cá biệt có nơi lên tới gần 50 khoản khác nhau, trong khi mọi thu nhập chủ yếu của người nông dân đều chỉ nhờ vào hạt thóc. Với gánh nặng đóng góp của người nông dân như vậy, nếu có thêm yếu tố mất dân chủ, hống hách, cửa quyền, tham ô, tham nhũng của cán bộ cơ sở thì tất yếu sẽ tiềm ẩn nguy cơ xảy ra điểm nóng trên địa bàn nông thôn. Thực tế cho thấy, do các khoản đóng góp quá sức dân, cộng với tình trạng tham ô, cửa quyền, mất dân chủ của cán bộ xã… đã dẫn tới sự kiện nông dân khiếu tố đông người ở Thái Bình vào những năm 1997 – 1998. Hiện nay, địa bàn nông thôn và người nông dân không chỉ phải đối mặt với những khó khăn vốn có của mình mà còn phải đối mặt với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Chiến tranh đã đi qua, đã lùi vào quá khứ nhưng hậu quả của nó để lại cho nông dân là rất nặng nề, rất thương tâm. Đó là bom, mìn còn sót lại, là hậu quả của chất độc điôxin, là những thương tật do chiến tranh, nhất là những đứa trẻ mồ côi, những thương binh và gia đình liệt sỹ… Bên cạnh đó, nông dân còn phải đối mặt với hậu quả nặng nề do thiên tai, bệnh dịch, hạn hán, lụt lội, thị trường bấp bênh v.v… nên nguy cơ nghèo đói luôn xảy ra và nguy cơ tái nghèo luôn thường trực đối với nông dân. Ba là, tình trạng xuống cấp đạo đức nghiêm trọng của một bộ phận nông dân, tình trạng tệ nạn xã hội và mất dân chủ ở nông thôn ngày càng nghiêm trọng. Có thể thấy, dưới tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, của công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, của quá trình đô thị hóa nên xã hội nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện đang phải đối mặt với thực trạng xuống cấp đạo đức nghiêm trọng, của một bộ phận nông dân, với tình trạng các hệ giá trị truyền thống ở nông thôn bị đảo lộn và bị đánh mất, với tình trạng mất dân chủ và lối sống hưởng thụ, với xu thế lan nhanh của thói lười lao động, lối sùng bái giá trị vật chất, với xu thế phát triển của tệ nạn xã hội đã lan tỏa vào đời sống nông thôn v.v…. Cố nhiên, trước sự tấn công mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị trường, của công nghiệp hóa, đô thị hóa và các tệ nạn xã hội, thì nông nghiệp – nông dân – nông thôn luôn là những bộ phận chịu thiệt thòi nhất, luôn là những bộ phận có sự chống đỡ thụ động và yếu ớt nhất, dễ bị tổn thương nhất. 14 Bốn là tình trạng học vấn, nhận thức và trình độ khoa học – kỹ thuật thấp, thất nghiệp ngày một tăng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nông dân vừa chậm, vừa tự phát. Hiện nay, nông dân là giai cấp có trình độ học vấn, trình độ nhận thức, nhất là nhận thức xã hội và trình độ khoa học – kỹ thuật rất thấp. Điều này một mặt đã, đang và sẽ gây ra nhiều khó khăn cho họ trong việc tiếp cận với những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; mặt khác, điều này cũng là một trong những tác nhân làm cho tình trạng thất nghiệp ngày một gia tăng trong nông dân. Tình trạng nông dân thất nghiệp gia tăng đã làm cho dòng người từ nông thôn đổ xô vào các đô thị để kiếm việc làm gây khó khăn cho quản lý đô thị. Bên cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của người nông dân còn rất chậm chạp và có tính tự phát. Nguyên nhân của tình trạng này là lâu nay người nông dân nước ta nhất là nông dân Bắc Bộ thường có lối tư duy kinh tế có tính hai mặt trái ngược nhau. Một mặt, là thói bảo thủ, ngại đổi mới, thói do dự, chần chừ, không mạnh dạn làm ăn lớn, ngại tiên phong, ngại đi đầu để làm một cái gì mới vì sợ gặp phải rủi ro, thất bại. Mặt khác là thói quen bốc đồng thiếu tính toán, là thói quen a dua, tính tự phát bắt chước nhau trong làm kinh tế, ít khi nghĩ đến hậu quả của hành động đó. Vì có sự tương phản trên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nông dân nước ta vừa chậm vừa có tính tự phát. Điều này một mặt đã vô tình dẫn tới mất cơ hội làm ăn lớn, có hiệu quả cao do thiếu tính thời cơ; mặt khác, nó lại tạo ra tình trạng đua nhau làm ăn để rồi tự dẫm lên chân nhau, tự kìm hãm sự phát triển chung, đã dẫn tới sản xuất không tuân theo quy hoạch, hoặc phá vỡ quy hoạch vì không tôn trọng quy luật cung – cầu của thị trường. Hậu quả của tình hình này đã tạo ra điệp khúc của một nghịch cảnh đối với nông dân nước ta trong nhiều năm gần đây là được mùa lại mất giá. Việc phá cây tràm, cây mía để trồng lúa và ngược lai, việc phá cây cà phê để trồng cao su và ngược lại, cứ diễn ra mãi không thể chấm dứt chính là biểu hiện của lối tư duy kinh tế nói trên. Gần đây một số nông sản của nông dân Trung Quốc ép giá cũng do những hậu quả trên. Có thể nhận thấy rằng, dưới tác động của nhân tố trên, chân dung hiện thực của người nông dân Việt Nam trong giai đoạn này là có tính mâu thuẫn, bởi vì trong 15 họ đang có sự đấu tranh quyết liệt giữa những yếu tố tiến bộ, tích cực của thời kỳ đổi mới với những yếu tố lạc hậu, hạn chế vốn có của quá khứ. Vì thế, một mặt họ vừa có khát vọng đổi mới để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển nông nghiệp – nông dân – nông thôn; mặt khác họ lại vừa không dám dứt khoát chia tay với những hạn chế, bất cập vốn có trong con người của một nước nông nghiệp lạc hậu, của xã hội nông thôn cổ truyền, vốn là những tác nhân luôn kìm hãm họ thực hiện thành công khát vọng đổi mới của mình. Năm là thiếu vốn sản xuất, nạn hàng giả, sự thiếu hiểu biết pháp luật, tiêu thụ sản phẩm khó khăn, tư duy về kinh tế hợp tác và hợp tác xã còn chậm đổi mới. Thực tế cho thấy, thiếu vốn sản xuất là một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay của nông dân nước ta. Mặc dù đã có nhiều kênh cung cấp vốn cho nông dân như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội, kho bạc v.v… Tuy nhiên, hiện nay các ngân hàng thương mại còn có quá nhiều thủ tục rườm rà, bất hợp lý trong việc cung ứng vốn cho nông dân, vì thế trong khi nông dân còn thiếu vốn sản xuất, thì ngân hàng lại không thể giải ngân được vốn cho vay của mình. Thực tế cho thấy, chủ trương cho nông dân vay vốn không cần thế chấp tối đa 10 triệu đồng, đã được ngân hàng đưa ra, nhưng rất ít nông dân được vay theo chủ trương này. Ngoài ra, ngân hàng nông nghiệp thường cho nông dân vay theo định kỳ 3 tháng, hoặc 6 tháng, tối đa là một năm, trong khi chu kỳ sinh trưởng của một số cây trồng, vật nuôi lại kéo dài từ hai năm trở lên đã gây khó khăn thêm cho nông dân, đã buộc nông dân hoặc phải bán nông sản để rồi bị tư thương ép giá, hoặc phải vay nặng lãi để trả vốn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, người nông dân luôn phải đối mặt với nạn hàng giả như lúa và ngô giống giả, nạn gà, vịt giống chưa được tiêm phòng, thuốc bảo vệ thực vật giả, phân bón giả v.v… trôi nổi trên thị trường. Nạn hàng giả, nhất là giống giả nói trên là một thảm họa đối với người nông dân, vì nó đã gây ra cảnh thất bát, mất mùa rất đau lòng không ít hộ nông dân. Ngoài ra, nông dân nước ta còn luôn phải đối phó với khó khăn về tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều nguyên nhân gây ra sự khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, nhưng sau đây là hai nguyên nhân quan trọng đã gây ra tình trạng này: một là về phía người nông dân, đó là hậu quả của lối tư duy kinh tế bốc đồng, a dua, tự phát, thiếu tính toán, không tôn trọng quy luật cung - cầu của trị 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan