Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của chủ tịch hồ chí minh với việc xây dựng hậu cần quân đội trong kháng ...

Tài liệu Vai trò của chủ tịch hồ chí minh với việc xây dựng hậu cần quân đội trong kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (1945 1954)

.PDF
61
93
71

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH ***************************** CHẨU THỊ PHỤC VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh Người hướng dẫn khoa học ThS. TRỊNH VĂN TÚY HÀ NỘI - 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH ***************************** CHẨU THỊ PHỤC VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh Người hướng dẫn khoa học ThS. TRỊNH VĂN TÚY HÀ NỘI - 2018 LỜI CẢM ƠN Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy Trịnh Văn Túy người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình và chu đáo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này do điều kiện hạn hẹp về thời gian và sự hạn chế của bản thân nên khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018 Sinh viên Chẩu Thị Phục LỜI CAM ĐOAN Khóa luận này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của thầy Trịnh Văn Túy. Em xin cam đoan rằng, đây là kết quả nghiên cứu của riêng em. Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018 Sinh viên Chẩu Thị Phục MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3 4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 3 5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn....................................................................... 4 8. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 4 Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG CHIẾN TRANH ............................................................ 5 1.1. Cơ sở hình thành những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với hậu cần quân đội trong chiến tranh. ......................................................................... 5 1.1.1. Những tinh hoa tư tưởng của nhân loại về hậu cần quân đội ................. 5 1.1.2. Kế thừa truyền thống của dân tộc Việt Nam về bảo đảm hậu cần cho quân đội ............................................................................................................. 6 1.1.3. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và sự phân tích, đánh giá đúng kẻ thù ........................................................................................................ 8 1.2. Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh ......................................................................................... 9 1.2.1. Hậu cần quân đội phải dựa vào dân ...................................................... 10 1.2.2. Cần, kiệm, tự lực, tự cường................................................................... 12 1.2.3. Quan điểm phục vụ bộ đội .................................................................... 16 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 21 Chương 2 CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP ................................................................................. 22 2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng bước đầu hậu cần quân đội (9/1945 - 6/1950) ......................................................... 22 2.1.1. Yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới .......................................................................................................... 23 2.1.2. Sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng xây dựng bước đầu hậu cần quân đội (9/1945 - 6/1950) ....................................... 26 2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng Hậu cần quân đội đáp ứng yêu cầu kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (7/1950 - 7/1954)............................................................................................. 32 2.2.1. Yêu cầu đẩy mạnh xây dựng quân đội và hậu cần quân đội trước đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến chống Pháp ..................................................... 32 2.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng tăng cường chỉ đạo xây dựng hậu cần quân đội tiếp tục phát triển ................................................ 34 2.3. Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội vào xây dựng ngành Hậu cần quân đội hiện nay ............................................ 42 2.3.1. Yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam và ngành Hậu cần Quân đội trong giai đoạn hiện nay .................................................................................. 42 2.3.2.Phương hướng vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội vào xây dựng ngành Hậu cần Quân đội hiện nay .............. 45 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 50 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 53 DANH MỤC VÀ CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ 1 CTQG Chính trị quốc gia 2 DCCH Dân chủ cộng hòa 3 LLVT Lực lượng vũ trang 4 SSCĐ Sẵn sàng chiến đấu 5 Nxb Nhà xuất bản 6 QĐND Quân đội nhân dân 7 XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hậu cần là một mặt công tác quân sự gồm tổng thể các hoạt động bảo đảm vật chất, quân nhu, quân y, xăng dầu, vận tải, tài chính…cho các LLVT xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Công tác bảo đảm hậu cần có vị trí, vai trò rất quan trọng, tạo ra sức mạnh vật chất cho các LLVT trong quá trình xây dựng và chiến đấu. Ngành hậu cần QĐND Việt Nam ra đời, phát triển gắn liền với quá trình hình thành, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam anh hùng và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, tạo nên sức mạnh vật chất cho Quân Đội góp phần quan trọng vào những thắng lợi của quan đội ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơn sáu mươi năm qua. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta (1945-1954), ngành Hậu cần Quân đội đã được hình thành, từng bước trưởng thành cả về bộ máy tổ chức, lực lượng và cơ chế hoạt động, phương thức bảo đảm. Trong quá trình đó, ngành Hậu cần Quân đội luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng và đặc biệt của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều công sức, thời gian cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo công tác Hậu cần và xây dựng ngành Hậu cần Quân đội. Người đã trực tiếp kí các Sắc lệnh, Quyết định thành lập các tổ chức bộ máy của ngành Hậu cần, cùng với Bộ Quốc phòng chỉ đạo xác lập cơ chế hoạt động, phương thức bảo đảm hậu cần, xây dựng, giáo dục đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác hậu cần…Đặc biệt thông qua các bài viết, sách, báo, tài liệu, thư từ, bài nói chuyện…của Người với ngành Hậu cần Quân đội, với cán bộ, nhân viên hậu cần các cấp đã hình thành nên hệ thống quan điểm của Người về công tác hậu cần quân đội nói chung và công tác bảo đảm hậu cần trong chiến tranh nói riêng. Chính nhờ đó, ngành Hậu cần Quân 1 đội không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, thể hiện bằng việc bảo đảm hậu cần cho hoạt động xây dựng, chiến đấu của QĐND Việt Nam qua từng trận đánh, từng chiến dịch, cùng cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nghiên cứu vai trò của Chủ Tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng ngành Hậu cần QĐND Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là một việc làm cần thiết. Làm tốt việc này sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ những quan điểm của Hồ Chủ tịch về hậu cần quân đội nói chung và hậu cần quân đội trong chiến tranh nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, QĐND Việt Nam đang được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đòi hỏi ngành Hậu cần cũng phải được xây dựng toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội. Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, sâu sắc cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng ngành Hậu cần Quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa quan trọng, không chỉ giúp chúng ta nâng cao lòng tự hào, niềm kính yêu vô hạn với Người, mà còn cho ta những kinh nghiệm quý về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần Quân đội nói riêng, xây dựng QĐND Việt Nam nói chung trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là cơ sở rất quan trọng để Đảng và Nhà nước, Bộ Quốc phòng kế thừa, vận dụng vào lãnh đạo, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và hậu cần nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với những ý nghĩa đó, em chọn đề tài:“Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng hậu cần quân đội trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành GDQP&AN Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 2 2. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng ngành Hậu cần QĐND Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó góp phần khẳng định cống hiến của Người xây dựng QĐND Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954. Xác định một số vấn đề cơ bản vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội vào quá trình xây dựng ngành Hậu cần Quân đội hiện nay. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh. - Phân tích những quan điểm của Hồ Chủ tịch về hậu cần quân đội trong chiến tranh. - Làm rõ vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần Quân đội trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời xác định một số vấn đề cơ bản vận dụng quan điểm của Người về hậu cần quân đội vào xây dựng ngành Hậu cần Quân đội hiện nay 4. Đối tượng nghiên cứu Xây dựng hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945 - 1954. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và công tác xây dựng hậu cần quân đội (1945 - 1954). 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu sử dụng một số phương pháp: phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin; phương pháp lý thuyết; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp tổng kết lịch sử. 3 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 7.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần làm sáng tỏ những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng ngành Hậu cần Quân đội nói riêng với QĐND Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945 - 1954). 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Một số vấn đề cơ bản được đề xuất làm cơ sở vận dụng vào sự nghiệp xây dựng ngành Hậu cần Quân đội hiện nay. 8. Bố cục của khóa luận Gồm phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phần nội dung gồm 2 chương: Chương 1: Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh. Chương 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng hậu cần quân đội trong kháng chiến chống Pháp. 4 Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI TRONG CHIẾN TRANH 1.1. Cơ sở hình thành những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với hậu cần quân đội trong chiến tranh. 1.1.1. Những tinh hoa tư tưởng của nhân loại về hậu cần quân đội Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội. Lý luận Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội là cơ sở lý luận khoa học trực tiếp cho sự hình thành quan điểm của Hồ Chủ tịch về hậu cần quân đội trong chiến tranh nói riêng và công tác hậu cần quân đội nói chung. Lý luận Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội đã trang bị cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học biện chứng duy vật, từ đó Người phân tích, đánh giá đúng giá trị của nhân loại và của dân tộc trong công tác bảo đảm hậu cần cho quân đội trong chiến tranh, làm cơ sở cho việc Người tiếp thu, kế thừa, phát triển và chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần Quân đội trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) và tiếp tục sau này trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Cùng với việc tiếp thu, vận dụng lý luận Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại về hậu cần quân đội. Người đã nghiên cứu những tư tưởng quân sự đông, tây, kim, cổ, tiếp thu có chọn lọc những nhân tố có giá trị về công tác bảo đảm hậu cần cho quân đội trong các tư tưởng đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của các nhà quân sự khác về hậu cần quân đội như động viên sức dân đóng góp nuôi quân, xây dựng hậu phương, căn cứ địa.... Những tư tưởng đó góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn các quan điểm của Hồ Chủ 5 tịch về hậu cần và công tác hậu cần quân đội nói chung và công tác hậu cần trong chiến tranh nói riêng. 1.1.2. Kế thừa truyền thống của dân tộc Việt Nam về bảo đảm hậu cần cho quân đội Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, chúng ta luôn luôn phải đương đầu với các thế lực xâm lược ngoại bang lớn mạnh hơn nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự (đó là các thế lực phong kiến phương Bắc: Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh), song dân tộc ta đều chiến thắng vẻ vang mà nguyên nhân cơ bản như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã tổng kết là do “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức” [12]. Trong lịch sử chống ngoại xâm đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô cùng quý báu về kinh nghiệm, truyền thống đánh giặc dũng cảm, mưu trí, hệ thống tri thức quân sự, nghệ thuật tiến hành chiến tranh... Trong nghệ thuật đánh giặc thời xưa, tổ tiên ta đã sáng tạo, tìm ra được những “kế sách” hay để tổ chức và huy động mọi nguồn cung cấp trong nước,trong nhân dân , để đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược. Đó là “kế sách” luôn chăm lo xây dựng để cho “quốc thịnh, binh cường”, nghĩa là phải luôn xây dựng đất nước vững mạnh về tiềm lực kinh tế để xây dựng tiềm lực quân sự. Thực hiện “kế sách” này, tổ tiên ta đã biết dựa vào dân để tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần. Do đó, dựa vào dân đã trở thành “kế sách” tổng quát có tính quy luật của tổ tiên ta trong lịch sử chống giặc giữ nước. Xuất phát từ quan điểm “nước lấy dân làm gốc” mà Trần Quốc Tuấn đã đề xuất kế sách “Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước” [12]. 6 Đó là “kế sách” “ngụ binh ư nông” làm cho nông mạnh và binh cũng mạnh. Bắt đầu từ triều Đinh đến triều Lý, Trần... kế sách này ngày càng được hoàn chỉnh và trở thành quốc sách của nhà nước phong kiến Đại Việt. Thực hiện “kế sách” “ngụ binh ư nông” có nhiều ý nghĩa, nhiều tác dụng cả trong việc phát triển kinh tế đất nước, binh lính phải tham gia lao động sản xuất trong lúc thanh bình để tự cung cấp cho mình và cho đất nước; cả trong việc tổ chức một bộ máy quân sự phù hợp về mặt số lượng, cơ cấu đủ mạnh để có thể ứng chiến khi có chiến sự. Trên cơ sở quan điểm “cả nước đánh giặc, toàn dân ai cũng là lính”, tổ tiên ta đã biết dựa vào dân để lo tổ chức việc cung cấp cho quân đội.Từ buổi đầu dựng nước, truyền thuyết toàn dân đóng góp lương thực nuôi Thánh Gióng, đóng góp khí giới cho người anh hùng diệt giặc đã thể hiện quan điểm chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân. Các triều đình phong kiến Đại Việt đã biết dựa vào dân để lo tổ chức việc cung cấp cho quân đội đánh giặc, do đó “quân đi đâu, già trẻ giỏ cơm, bầu nước theo như trẩy hội” [1]. Bên cạnh việc dựa vào dân để tổ chức cung cấp, các nhà nước phong kiến Đại Việt cũng tổ chức các cơ sở cung cấp của nhà nước như việc thành lập các xưởng sản xuất vũ khí, xưởng sản xuất phương tiện vận tải (thuyền, xe vận chuyển, xe công thành...); xưởng sản xuất lương thực, thuốc... Đó là những cơ sở hậu cần chiến lược, bảo đảm cho sức mạnh đánh thắng của quân đội. Tổ tiên ta cũng còn sử dụng “kế sách” triệt phá nguồn cung cấp, lấy của giặc để đánh giặc. Kẻ thù của dân tộc ta từ xa xôi đến, ngoài khó khăn do không quen khí hậu, địa hình, chúng còn vấp phải một khó khăn muôn thuở là xa nguồn cung cấp hậu cần. Do đó, tổ tiên ta đã vận động nhân dân triệt để thực hiện “vườn không, nhà trống”, khiến cho kẻ địch giảm sút ý chí chiến đấu vì 7 đói, thiếu thốn (điển hình thực hiện kế sách này là quân dân nhà Trần trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII). Có thể nói những “kế sách” trên đây đã có tác dụng rất to lớn trong việc động viên, khơi được nguồn nhân tài, vật lực của đất nước ta, từ đó tạo ra khả năng to lớn để bảo đảm hậu cần cho quân đội và nhân dân ta tiến hành chiến tranh thắng lợi. Những “kế sách” đó đều xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân, dựa trên tinh thần yêu nước của toàn dân và trên cơ sở cả nước cùng chung sức đánh giặc. Đó là truyền thống, là những bài học kinh nghiệm quý báu để Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa, phát triển các quan điểm về hậu cần quân đội và trực tiếp chỉ đạo công tác hậu cần quân đội trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 1.1.3. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và sự phân tích, đánh giá đúng kẻ thù Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, mà Người còn là một nhà hoạt động thực tiễn rất linh hoạt, sáng tạo. Những quan điểm của Người bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn và gắn liền với thực tiễn. Quan điểm của Người về hậu cần quân đội trong chiến tranh được hình thành trên cơ sở phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn xây dựng quân đội, thực tiễn xây dựng ngành Hậu cần Quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp và từ sự phân tích, đánh giá đúng đắn thực lực của thực dân Pháp. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT của chúng ta còn non trẻ, song được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, rèn luyện, sớm có tinh thần yêu nước và chí căm thù giặc sâu sắc. Quân đội ta là quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc. Để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, quân đội ta không ngừng lớn mạnh, cùng với toàn dân tộc tiến lên đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều 8 khó khăn, nên vấn đề bảo đảm cung cấp hậu cần các mặt cho quân đội cũng chưa được bảo đảm đầy đủ. Trong tiến trình cuộc kháng chiến chống Pháp, công tác bảo đảm hậu cần cho quân đội chiến đấu cũng luôn gặp khó khăn do địch đánh phá, việc vận chuyển, chi viện từ hậu phương ra tiền tuyến vừa xa xôi, cách trở, vừa khó khăn về đường sá, phương tiện, con người. Xuất phát từ thực tiễn những thuận lợi, khó khăn của đất nước, quân đội và công tác cung cấp hậu cần, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều nội dung quan điểm về hậu cần quân đội một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện đất nước, quân đội và ngành Hậu cần như: cần, kiệm, tự lực, tự cường; đẩy mạnh tăng gia sản xuất; tích cực lấy của địch đánh địch, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Người cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo hậu cần quân đội dựa vào dân, bám sát nhân dân để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, động viên cao nhất sức mạnh của nhân dân vừa chăm lo nuôi dưỡng LLVT, vừa tích cực kháng chiến tiến tới đánh bại kẻ thù. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh là sản phẩm của sự nỗ lực chủ quan của Người, trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, sự chọn lọc, kế thừa kinh nghiệm, truyền thống của dân tộc ta, của nhân loại trong lịch sử về bảo đảm hậu cần cho quân đội, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn xây dựng quân đội và ngành Hậu cần QĐND Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và từ sự phân tích, đánh giá đúng đắn, chính xác thực lực của thực dân Pháp. 1.2. Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội trong chiến tranh được hình thành từ ngay khi Người chỉ đạo thành lập Đội 9 Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (1944) (tiền thân của QĐND Việt Nam hiện nay). Trong quá trình cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo quân và dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Người không ngừng bổ sung, phát triển thành một hệ thống các quan điểm, thông qua đó để cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần, đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu của Quân đội ta. Dưới đây là một số quan điểm cơ bản của Người về hậu cần quân đội trong chiến tranh. 1.2.1. Hậu cần quân đội phải dựa vào dân Đây là một quan điểm lớn, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu cần quân đội nói chung và công tác hậu cần quân đội trong chiến tranh nói riêng. Quan điểm này được hình thành dựa trên cơ sở Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, kế thừa truyền thống “trọng dân” của dân tộc ta. Đảng ta do Người sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục đích cao cả [9]. Hơn thế nữa, quan điểm hậu cần phải dựa vào dân - hậu cần nhân dân là thể hiện tư tưởng cốt lõi trong đường lối quân sự của Đảng, của học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam là quan điểm chiến tranh nhân dân “toàn dân giữ nước, cả nước đánh giặc”. Đây cũng chính là sự tiếp nối, phát triển truyền thống phát huy sức mạnh hậu cần toàn dân trong chiến tranh giữ nước của ông cha ta ,đặc biệt trong lịch sử các trận quyết chiến chiến lược với kẻ thù như trận Bạch Đằng (năm 938); trận đánh Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu (năm 1075-1076); trận Như Nguyệt (năm 1077); trận Bạch Đằng (năm 1288); trận Chi Lăng Xương Giang (năm 1427); trận Rạch Gầm - Xoài Mút (năm 1785) trận 10 Ngọc Hồi - Khương Thượng (năm 1789)... Cha ông ta cũng phát huy sức mạnh của nhân dân trong việc vận tải, chuyên chở hậu cần theo sát các đoàn quân chiến đấu. Chính sức mạnh hậu cần ấy đã góp phần làm nên những chiến thắng lừng lẫy trong lịch sử chống ngoại xâm của quốc gia phong kiến Đại Việt ở các thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng đặc biệt quan tâm đến xây dựng hậu phương kháng chiến bằng việc xác định nhiều chủ trương quan trọng xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện. Nhờ đó, thực lực của chúng ta ngày càng lớn mạnh, đủ sức đảm bảo cho kháng chiến, nhất là những năm đầu khi ta chưa có điều kiện nhận được sự chi viện, giúp đỡ của các nước anh em. Nhân dân đóng góp để tiếp tế, cung cấp, nuôi dưỡng bộ đội, nhưng không thể chỉ huy động nhân dân, đóng góp mà phải biết bồi dưỡng sức dân. Hồ Chủ tịch nhắc nhở: huy động sức dân phải gắn với chăm lo bồi dưỡng sức dân thì mới tăng thêm thực lực để kháng chiến lâu dài. Khi phát động phong trào mua công trái, Người căn dặn: “phải cố gắng thi đua mua công trái. Nhưng đồng thời chớ để cạn vốn tăng gia sản xuất”. Như vậy, quan điểm hậu cần quân đội phải dựa vào dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là thể hiện tư tưởng hậu cần toàn dân trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược đối với ngành Hậu cần Quân đội. Vì vậy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, ngành Hậu cần Quân đội đã cùng toàn dân ta đáp ứng đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu của bộ đội trên chiến trường. Ngày nay, quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có giá trị to lớn chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần Quân đội làm nòng cốt cho xây dựng hậu cần toàn dân, hậu cần địa phương và kết hợp các lực lượng hậu 11 cần đó trong thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 1.2.2. Cần, kiệm, tự lực, tự cường Quan điểm cần, kiệm, tự lực, tự cường trong công tác hậu cần quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những quan điểm cơ bản của Người chỉ đạo xây dựng ngành Hậu cần Quân đội nói chung và hậu cần quân đội trong chiến tranh nói riêng. Đồng thời đây cũng là một bộ phận trong chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát huy cao độ mọi nguồn lực của cả dân tộc phục vụ sự nghiệp chiến đấu bảo vệ đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, cần, kiệm. Trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã rút ra kết luận: “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta” [8]. Theo Hồ Chủ tịch, trong bất kỳ hoạt động, công tác nào cũng đều phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường. Trong công tác hậu cần quân đội đặc biệt là trong điều kiện chiến tranh, chiến trường ác liệt càng cần phải nêu cao và phát huy tinh thần đó. Thực tiễn điều kiện của đất nước, của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp đặt ra những yêu cầu đó. Đất nước vừa mới giành được độc lập, chính quyền còn non trẻ, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, đặc biệt nền kinh tế - tài chính kiệt quệ, do đó đời sống của nhân dân cực kỳ khó khăn, trong khi đó sự giúp đỡ, viện trợ của bạn bè quốc tế chưa có. Trong hoàn cảnh ấy, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tinh thần tự lực , tự cường để chiến đấu .Quân đội và hậu cần quân đội dĩ nhiên không thể chỉ trông chờ vào kinh phí của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân.Hồ Chủ tịch chỉ rõ, quân nhu và lương thực nếu cứ trông chờ cả vào nhân dân thì sẽ làm cho họ gánh vác nặng nề không thể kham nổi. Do đó, 12 hơn lúc nào hết, công tác bảo đảm hậu cần cho quân đội phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn quyết tâm đánh giặc. Quan điểm cần, kiệm, tự lực, tự cường của Hồ Chủ tịch trở thành phương châm chỉ đạo ngành Hậu cần Quân đội trong kháng chiến chống Pháp nói riêng và trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng ngành Hậu cần nói chung. Tiết kiệm là vấn dề “quốc sách” đối với mọi quốc gia, đặc biệt đối với những nước nghèo như nước ta, lại trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo sau Cách mạng Tháng Tám, thì vấn đề này càng trở nên bức xúc. Thực hiện việc tiết kiệm, đối với hậu cần quân đội, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: phải triệt để thực hiện tiết kiệm, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, mồ hôi xương máu của nhân dân và bộ đội, tiết kiệm tiền bạc, của cải, vũ khí... Đó là sự tiết kiệm rất cụ thể, thực tế, thể hiện sâu sắc quan điểm của Hồ Chủ tịch. Trong thực hành tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ việc giữ tốt, dùng bền mọi vật tư, phương tiện, trang bị... Người chỉ rõ: Vũ khí, trang bị là do mồ hôi, nước mắt của nhân dân đóng góp, nếu không giữ tốt, dùng bền, để hư hao mất mát sẽ ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội, là lãng phí của dân. Nước ta nghèo, nhân dân còn vất vả, mọi đóng góp của dân là để bộ đội ăn no đánh thắng, nếu bộ đội không có ý thức tiết kiệm, sẽ gây khó khăn cho kinh tế đất nước, sẽ có tội với nhân dân. Tuy nhiên, theo Người tiết kiệm phải đúng mục đích, đúng lúc, đúng chỗ, đem lại hiệu quả cao phục vụ đời sống bộ đội, nhân dân. Quan điểm tiết kiệm của Người trái với chủ nghĩa “khắc kỷ”, hành động keo kiệt, hà tiện, cực đoan, ăn đói nhịn khát. Đi liền với việc tiết kiệm, Người dạy cán bộ, chiến sỹ làm công tác hậu cần phải biết chống lại thói tham ô, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi, thu vén cá nhân. Người làm công tác bảo đảm hậu cần cho bộ đội, trước hết được 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng