Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của chính phủ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp l...

Tài liệu Vai trò của chính phủ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

.PDF
106
302
54

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HOÀI NAM VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 60 38 01 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2009 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 6 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH 12 PHỦ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Vai trò của Chính phủ Việt Nam trong quá trình xây dựng, 14 ban hành VBQPPL 1.1 Khái niệm VBQPPL và quá trình xây dựng, ban hành 15 VBQPPL 1.2. Vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng, ban hành 18 VBQPPL của Quốc hội 1.2.1. Xây dựng Chương trình lập pháp của Quốc hội 23 1.2.2. Thực hiện Chương trình lập pháp của Quốc hội 25 1.3. Xây dựng và ban hành VBQPPL thuộc thẩm quyền của 29 Chính phủ 2. Vai trò của Chính phủ ở một số nước trong công tác xây 34 dựng, ban hành pháp luật quốc gia 2.1. Chính phủ Trung Quốc trong công tác xây dựng, ban hành 35 pháp luật 2.2. Chính phủ Thái Lan trong công tác xây dựng, ban hành pháp luật 36 2.3. Chính phủ Nhật Bản trong công tác xây dựng, ban hành 38 pháp luật 2.4. Chính phủ Hoa Kỳ trong công tác xây dựng, ban hành 39 pháp luật 2.5. Nhận xét chung 42 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM 44 TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Thực trạng vai trò của Chính phủ trong công tác lập 44 pháp của Quốc hội 1.1. Thực hiện sáng kiến pháp luật 44 1.2. Cho ý kiến về các kiến nghị, đề xuất pháp luật của các chủ 46 thể khác 1.3. Lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh toàn 47 khóa và hàng năm của Quốc hội 1.4. Tổ chức soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc 57 hội, UBTVQH 2. Thực trạng công tác xây dựng và ban hành VBQPPL thuộc 65 thẩm quyền của Chính phủ 2.1. Lập Chương trình xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền 65 của Chính phủ 2.2. Tổ chức soạn thảo VBQPPL thuộc thẩm quyền của Chính 67 phủ 2.3. Ban hành và công bố VBQPPL của Chính phủ 2 74 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ 78 CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT HIỆN NAY 1. Một số yêu cầu đối với việc nâng cao vai trò của Chính 78 phủ trong quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL hiện nay 1.1. Thể chế hoá các quan điểm, định hướng của Đảng Cộng 78 sản Việt Nam về vai trò của Chính phủ trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật 1.2. Đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước 80 pháp quyền Việt Nam. 1.3. Bám sát thực tiễn và yêu cầu phát triển nền kinh tế thị 82 trường, hội nhập thế giới của Việt Nam, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. 2. Các giải pháp nâng cao vai trò của Chính phủ trong quá 85 trình xây dựng và ban hành VBQPPL 2.1. Đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ trong việc 85 xem xét, thảo luận các dự án, dự thảo VBQPPL 2.2. Điều chỉnh chức năng, nâng cao vai trò trách nhiệm của 86 Thành viên Chính phủ trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL 2.3. Nâng cao vai trò trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ 89 trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL 2.4. Tăng thẩm quyền của Chính phủ trong công tác xây dựng và ban hành VBQPPL 3 90 2.5. Đổi mới công tác thẩm định VBQPPL 92 2.6. Thu hút trí tuệ của nhân dân, của các nhà khoa học, nhà 94 quản lý trong công tác xây dựng VBQPPL 2.7. Xây dựng và thực hiện chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội 96 ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật KẾT LUẬN 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu các chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ - BST: Ban soạn thảo - CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa - CTXDL,PL: Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh - UBTVQH: Uỷ ban thường vụ Quốc hội - VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật - VPCP: Văn phòng Chính phủ 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ph¸p luËt lµ c«ng cô chñ yÕu ®Ó nhµ n-íc qu¶n lý, b¶o vÖ trËt tù an toµn x· héi vµ ph¸t triÓn ®Êt n-íc, b¶o ®¶m c«ng b»ng, tù do, d©n chñ cho mäi c«ng d©n, chÝnh v× lÏ ®ã, x©y dùng vµ hoµn thiÖn hÖ thèng ph¸p luËt lu«n lµ mét nhu cÇu thiÕt yÕu vµ ®ång thêi lµ nhiÖm vô c¬ b¶n vµ quan träng hµng ®Çu cña mçi nhµ n-íc. XuÊt ph¸t tõ ®Æc ®iÓm tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña c¬ quan lËp ph¸p n-íc ta - Quèc héi ho¹t ®éng chñ yÕu th«ng qua hai kú häp mçi n¨m, th× với vị trí là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, Chính phủ bên cạnh nhiệm vụ thường xuyên là tổ chức thực thi pháp luật, quản lý, điều hành đất nước cßn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật với việc chịu trách nhiệm soạn thảo trên 90% các dự án luật, ph¸p lÖnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và trực tiếp ban hµnh mỗi năm khoảng trên dưới 100 văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền(*). MÆc dï trong nh÷ng n¨m ®æi míi võa qua, ChÝnh phñ ®· cã rÊt nhiÒu cè g¾ng vµ ®· ®¹t ®-îc khá nhiÒu thµnh tùu trong c«ng t¸c x©y dùng ph¸p luËt, gãp phÇn t¹o lËp hµnh lang ph¸p lý c¬ b¶n trong viÖc x©y dùng nÒn kinh tÕ thÞ tr-êng ®Þnh h-íng x· héi chñ nghÜa, th× bªn c¹nh ®ã, c«ng t¸c x©y dùng ph¸p luËt cña ChÝnh phñ còng cßn nhiÒu tån t¹i, bÊt cËp, thÓ hiÖn ë chÊt l-îng, tiến độ thời gian soạn thảo, ban hành c¸c dù ¸n, dù th¶o ch-a đáp ứng được đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của cuéc sèng như: nhiÒu luËt, ph¸p lÖnh, nghÞ ®Þnh, míi chỉ dõng l¹i ë "quy định khung", ch-a cô thÓ, chi tiÕt; chậm ban hành hoặc chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi … (*) Theo số liệu tại Báo cáo của Ban xây dựng pháp luật, VPCP về tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh của Chính phủ năm 2006 thì trong năm này Chính phủ đã ban hành được 100 nghị định (BC số 01/Pg-XDPL ngày 02/01/2007, tr 1) 6 §Ó lµm s¸ng tá vÒ mÆt lý luËn vµ thùc tr¹ng trªn nh»m t×m ra nh÷ng gi¶i ph¸p ®Ó n©ng cao chÊt l-îng x©y dùng ph¸p luËt cña ChÝnh phñ, chóng t«i m¹nh d¹n chän ®Ò tµi nghiªn cøu: "Vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật". 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến việc nghiên cứu công tác xây dựng ph¸p luật của nhà nước Việt Nam nói chung và vai trò của Chính phủ Việt Nam nói riêng trong quá trình thực hiện công tác này, có thể tìm thấy ở một số đề án, đề tài khoa học, luận án, luận văn hoặc các bài viết trên các tạp chí, báo chuyên ngành. Cụ thể, theo dõi các công trình nghiên cứu hoặc tài liệu liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật, thấy như sau: a, Một số đề án, đề tài khoa học cấp Bộ: - ''Đổi mới quy trình lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật dài hạn và hàng năm'' (2004), Đề án do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện [28] - ''Xây dựng cơ chế huy động có hiệu quả sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật'' (2004), Đề án do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện [29] - “Nâng cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị, trình Quốc hội, UBTVQH” (2006), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, do Văn phòng Chính phủ chủ trì thực hiện [48] b, Một số sách tham khảo, luận văn, luận án, báo cáo có liên quan: - “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung [32]; - "Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội" (2004), Nhà 7 xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - "Bình luận Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật" (2005), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội [41] - “Báo cáo nghiên cứu đánh giá quy trình xây dựng luật, pháp lệnh thực trạng và giải pháp” (2008), Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội [36] - Luận văn “Quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ trong giai đoạn hiện nay” (2007) của Ths Nguyễn Thị Minh Thu; - “Tài liệu tham khảo về quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế giới” của Ban Công tác lập pháp [42] - “Báo cáo kết quả chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta tại Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản” [43] c, Một số bài viết chuyên đề đăng tải trên các báo và tạp chí: - “Sự cần thiết khách quan của quyền lập quy của Chính phủ”, Nguyễn Đăng Dung – Nguyễn Thị Phượng, (2006) [33] - “Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật tại Chính phủ” của TS. Phạm Tuấn Khải [40]. - “Thu hút các nhà khoa học tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội”, Trần Thế Vượng [51] Ngoài ra, còn một số bài viết khác liên quan đến hoạt động xây dựng pháp luật trên một số báo, tạp chí như: Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Những bài viết này, học viên đã sưu tầm nghiên cứu, có thống kê và trích dẫn trong luận văn (xin xem phần tài liệu tham khảo). Tóm lại, các công trình khoa học trên chủ yếu giới hạn việc nghiên cứu ở phạm vi quy trình, như quy trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; 8 quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Chính phủ hoặc tập trung nghiên cứu ở một số nội dung, khía cạnh cô thÓ trong hoạt động xây dựng pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến vị trí của Chính phủ trong hoạt động lập pháp của Quốc hội và thẩm quyền soạn thảo, ban hµnh VBQPPL cña ChÝnh phñ, từ đó, làm rõ vai trò quan trọng của Chính phủ trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL của nhà nước chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện. Như vậy, đề tài này không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây về vÊn ®Ò nµy. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Nghiên cứu luận văn nhằm mục đích: - Làm rõ vai trò của ChÝnh phñ trong hoạt động xây dựng pháp luật cña nhµ n-íc ta hiÖn nay, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng và những hạn chế, bất cập trong hoạt động nµy. - Đưa ra những yêu cầu và giải pháp cụ thể mang tính cơ bản, đột phá nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật của Chính phủ đáp ứng yêu cầu ®æi míi vµ ph¸t triÓn cña ®Êt n-íc trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của Chính phủ một số nước trên thế giới trong hoạt động xây dựng pháp luật nói chung cũng như vị trí, vai trò của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam trong công tác này nói riêng. Cô thÓ lµ, lµm râ vai trß cña ChÝnh phñ Việt Nam trong việc thực hiện sáng kiến pháp luật, lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, chuÈn bÞ, phèi hîp chuÈn bÞ c¸c dù ¸n luËt, ph¸p lÖnh ®Ó tr×nh Quèc héi, UBTVQH vµ trùc tiÕp thùc hiÖn thÈm quyÒn x©y dùng, ban hµnh c¸c VBQPPL theo luËt ®Þnh. Trªn c¬ së, tham khảo quy trình, kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó có sự tổng hợp, so sánh để đưa ra những đề xuất, kiến nghị đối với c«ng t¸c x©y 9 dùng ph¸p luËt ở Việt Nam hiện nay nói chung và vị trí của Chính phủ trong công tác này nói riêng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiÕn l-îc x©y dùng, ph¸t triÓn và hoàn thiện hÖ thèng ph¸p luËt, về cải cách hoạt động lập pháp, cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta, Đề tài đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: Tổng hợp, hệ thống, phân tích, đánh giá, so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể, kết hợp lý luận và thực tiễn … để giải quyết những vấn đề đặt ra của Đề tài. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn được thực hiện tại thời điểm Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đang có những đổi thay mạnh mẽ về kinh tế xã hội nên đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng, ban hành mới cũng như sửa đổi, bổ sung một khối lượng lớn các VBQPPL trên nhiều lĩnh vực nhằm phúc đáp yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và bảo đảm quản lý, phát triển đất nước nhanh chóng, bền vững trong khung khổ pháp luật. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu làm rõ vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây dựng pháp luật để từ đó, đề ra giải pháp tăng cường năng lực, vai trò và trách nhiệm của Chính phủ đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam là một việc làm cấp thiết mang tính tất yếu khách quan. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu cũng như cho hoạt động xây dựng pháp luật trong thực tiễn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mục lục, mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: 10 - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; - Chương 2: Thực trạng vai trò của Chính phủ Việt Nam trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; - Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao vai trò của Chính phủ Nam trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay. 11 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Nói chung, trong một nhà nước hiện đại, Chính phủ luôn được coi là cơ quan hành pháp cao nhất - Cơ quan có thẩm quyền chung thực hiện hoạt động quản lý và điều hành bao trùm toàn bộ những vấn đề thuộc về đời sống kinh tế - xã hội của một đất nước. Chính phủ tồn tại ở tất cả mọi quốc gia không phân biệt quốc gia đó thuộc chính thể nào. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng thể chế chính trị, quan niệm về cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước, truyền thống dân tộc và tương quan giữa các lực lượng trong xã hội mà hình thành nên các thiết chế Chính phủ khác nhau tương ứng ở từng quốc gia. Việt Nam theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân nên Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do vậy, Quốc hội có quyền thành lập nên các cơ quan nhà nước ở Trung ương, trong đó có Chính phủ. Chính phủ ở Việt Nam được thành lập theo trình tự sau: tại phiên họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội, Quốc hội bầu Chủ tịch nước. Sau đó, Chủ tịch nước giới thiệu ứng cử viên Thủ tướng trong số các đại biểu Quốc hội để Quốc hội bầu, tiếp theo, Thủ tướng lại trình ra trước Quốc hội danh sách các thành viên Chính phủ theo một nguyên tắc đã được Luật tổ chức Chính phủ xác định để Quốc hội phê chuẩn. Cuối cùng, căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm các chức danh này. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) thì Chính phủ được xác định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ 12 quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, tức là Chính phủ nắm quyền hành pháp trong sự phân công giữa ba quyền, lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền hành pháp ấy bao gồm hai nội dung cơ bản, quyền lập quy và quyền hành chính [45, tr 295]. - Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản quản lý dưới luật để thực hiện luật, chấp hành luật của Quốc hội. Tùy theo nội dung, tính chất của công việc mà Chính phủ có thẩm quyền ban hành những loại VBQPPL khác nhau như nghị quyết hay nghị định(*). Văn bản của Chính phủ có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc và là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của cả hệ thống bộ máy quản lý, là phương tiện chủ yếu bảo đảm việc thi hành các chức năng, nhiệm vụ quản lý trên phạm vi cả nước. - Quyền hành chính là quyền tổ chức, quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh tế - xã hội và mọi hành vi của con người trong xã hội theo pháp luật. Tóm lại, với vị trí và vai trò như trên, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn: thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Để thực hiện các quyền và nhiệm vụ tổng quát trên đây, Chính phủ Việt Nam có những quyền hạn cụ thể như: quyền trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và UBTVQH; quyền ra nghị quyết và nghị định căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết (*) Theo Luật ban hành VBQPPL năm 2008 có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì nghị quyết của Chính phủ không còn là VBQPPL như quy định của Luât năm 1996 sửa đổi năm 2002 13 của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; quyền xây dựng bộ máy, đào tạo cán bộ và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức hành chính nhà nước; quyền đại diện chủ quyền nhà nước trong quan hệ với các Chính phủ, các tổ chức quốc tế vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc; quyền hướng dẫn, kiểm tra hoạt của mọi ngành, mọi cấp, mọi lĩnh vực trong xã hội. Từ những vấn đề nêu trên, và theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, Chính phủ ở Việt Nam có thể được tiếp cận ở những phương diện sau: - Chính phủ là một tập thể các nhà lãnh đạo chính trị gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Chính phủ phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác với Quốc hội. Ngoài ra, với đặc thù riêng có của Việt Nam, Chính phủ còn phải báo cáo công tác với Ủy ban thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội, với Chủ tịch nước là những cơ quan, thiết chế do Quốc hội thành lập; - Về cơ cấu tổ chức, hiện nay, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam gồm có các bộ, cơ quan ngang bộ. - Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội đồng thời cũng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của đất nước. Để bảo đảm hai vai trò này Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân [19, tr 129]; 1. Vai trò của Chính phủ Việt Nam trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL 14 1.1. Khái niệm VBQPPL và quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL a, Khái niệm VBQPPL Điều 1 Luật ban hành VBQPPL năm 1996 (sửa đổi năm 2002) quy định về VBQPPL như sau: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [20]. Cũng tại Điều 1 Luật ban hành VBQPPL mới, được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 quy định: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này … trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” [21, tr 7]. Từ các quy định trên của Luật, qua các thời kỳ khác nhau có thể nhận thấy hai dấu hiệu đặc trưng cơ bản của VBQPPL như sau: Một là, VBQPPL được áp dụng chung mang tính rộng rãi, nhiều lần chứ không chỉ áp dụng cho một đối tượng hay cá nhân cụ thể nào một cách xác định. Hai là, việc áp dụng VBQPPL mang tính bắt buộc. Bên cạnh việc được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về hành chính, kinh tế … thì trong trường hợp cần thiết nhà nước sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thi hành. Trên thực tế hiện nay, thường có sự lẫn lộn giữa VBQPPL với văn bản có tính chất chủ đạo, là hình thức thể hiện các quyết định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra các chủ trương lớn, các đường lối, các nhiệm vụ có tính chiến lược, quyết định những vấn đề chung của cả quốc gia hoặc một địa phương. Về nguyên tắc, chủ trương, chính sách rất 15 quan trọng nhưng không làm thay đổi được hành vi như pháp luật, chính các quy phạm pháp luật cụ thể mới làm thay đổi được hành vi của con người. Do đó, trước hết cần phải phân biệt giữa chính sách và pháp luật thì mới có thể phân biệt được VBQPPL với các loại văn bản quản lý, điều hành [37, tr 321]. Tóm lại, từ quy định của Luật ban hành VBQPPL năm 1996 và Luật năm 2008 với các dấu hiệu đặc trưng như đã nêu trên, có thể định nghĩa về VBQPPL như sau: VBQPPL là văn bản được áp dụng chung, mang tính cưỡng chế, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo hình thức và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Hệ thống và chủ thể ban hành VBQPPL ở nước ta theo luật năm 1996 (sửa đổi năm 2002) bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH ban hành; lệnh, quyết định do Chủ tịch nước ban hành; nghị quyết, nghị định do Chính phủ ban hành; quyết định, chỉ thị do Thủ tướng Chính phủ ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành; Nghị quyết do Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; nghị quyết, thông tư liên tịch do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc cùng với các tổ chức chính trị - xã hội ban hành; nghị quyết do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã ban hành; quyết định, chỉ thị do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã ban hành. Như vậy, không kể Hiến pháp, có đến 20 loại VBQPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành với nhiều tên gọi khác hoặc giống nhau với các giá trị pháp lý khác nhau, điều đã cho thấy tính phức tạp và đa dạng của hệ thống VBQPPL ở nước ta. Với phạm vi tác động lớn, có hiệu lực ảnh hưởng thường xuyên, trực tiếp tới quyền lợi không chỉ của một cá nhân, một nhóm người mà có khi tới toàn xã hội, nên việc hạn chế và xác định rõ các 16 chủ thể có thẩm quyền và loại VBQPPL được ban hành trong luật là điều hết sức cần thiết. Trên tinh thần đó, Luật ban hành VBQPPL mới được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008, đã bỏ bớt một số loại văn bản được coi là VBQPPL mà các chủ thể hiện nay đang có thẩm quyền ban hành, như: nghị quyết của Chính phủ; chỉ thị của Thủ tướng; quyết định, chỉ thị của Chánh án Tòa án NDTC, Viện trưởng Viện kiểm sát NDTC, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; văn bản liên tịch giữa Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Một điều đáng lưu ý là tuyệt đại đa số các nước trên thế giới không có Luật ban hành VBQPPL như ở Việt Nam và họ cũng không gặp rắc rối trong việc định nghĩa và xác định thế nào là một VBQPPL nên không xem đây là một vấn đề đáng quan tâm. b, Khái niệm quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa thì quá trình là: “trình tự phát triển, diễn biến của một sự việc nào đó” [52, tr 798], như vậy liên hệ định nghĩa này vào quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL ta có thể hiểu như sau: quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL là một chuỗi các hành vi nhất định được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ bởi các chủ thể đã được Luật xác định nhằm tạo ra một sản phẩm đó là VBQPPL để điều chỉnh, duy trì các mối quan hệ trong xã hội phát triển theo một trật tự phù hợp với ý chí của nhà nước. Quá trình này bắt đầu từ thời điểm chủ thể của sáng kiến pháp luật đưa ra sáng kiến và kết thúc ở thời điểm VBQPPL được cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua - ban hành. Như chúng ta đã biết, xây dựng pháp luật là một hoạt động phức hợp do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau tiến hành, nhằm đặt ra các quy tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội. Xét về bản chất, đây là hoạt động sáng tạo, là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia quá trình này [51, tr 17 16]. Do vậy, đòi hỏi trong quá trình thực hiện, ở từng giai đoạn cụ thể phải có sự phân công khoa học, rõ ràng về trách nhiệm của từng chủ thể và trong cả quá trình phải có sự phối hợp thường xuyên của tất cả các chủ thể cũng như thu hút được sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội vào quá trình. Theo quy định hiện nay của pháp luật thì quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL gồm các bước cơ bản sau: đề xuất sáng kiến VBQPPL; xem xét đề xuất sáng kiến đưa vào chương trình xây dựng VBQPPL; soạn thảo VBQPPL; thẩm định, thẩm tra VBQPPL; trình cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét; nghiên cứu tiếp thu ý kiến của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền để chỉnh lý, hoàn thiện VBQPPL; trình cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét thông qua văn bản. 1.2. Vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL của Quốc hội Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất kỳ Chính phủ nào trên thế giới cũng là hoạch định ra các chính sách cho quốc gia. Xét về bản chất, chính sách chính là sáng kiến đẻ ra pháp luật hoặc nếu không thì chí ít nó cũng là nguồn khơi dậy sức sống thực tế của các quy phạm pháp luật được Quốc hội ban hành [32, tr 507]. Qua nghiên cứu cho thấy, vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL của Lập pháp - Quốc hội ở các nước khác nhau là khác nhau. Tuy nhiên, dù ở quốc gia nào thì thực tế cũng cho thấy Chính phủ luôn đóng một vai trò quan trọng trong công tác này của Quốc hội. Đặc biệt là, ở các nước cộng hòa nghị viện vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp được thể hiện mạnh mẽ, bởi lẽ khác với những nước có chính thể cộng hoà Tổng thống, ở các nước có chính thể cộng hoà nghị viện, Tổng thống không thuộc thành phần Chính phủ nên không thể tác động đến các chính sách của Chính phủ, và dựa vào đa số ghế của mình trong Quốc hội (Hạ nghị viện), Chính phủ không những tự xác định chương trình hoạt động của mình mà còn 18 có những hoạt động và ảnh hưởng tích cực trong lĩnh vực lập pháp. Ở các nước này, Hiến pháp không trao cho người đứng đầu nhà nước những quyền hạn quan trọng mà người đó có thể độc lập thực hiện được. Các văn bản do người đứng đầu nhà nước ban hành thường được người đứng đầu Chính phủ và các Bộ trưởng hữu quan kiểm tra và đồng ý trước [25, tr 8]. Ngoài ra, sự hoạt động mạnh mẽ của các Chính phủ trên thế giới trong lĩnh vực lập pháp được giải thích không chỉ bởi lý do nêu trên, mà còn bởi Chính phủ luôn có trong tay lượng thông tin đầy đủ, trang bị kỹ thuật hiện đại và đội ngũ cán bộ, công chức, chuyên gia đông đảo. Do vậy, nhìn chung ở các nước trên thế giới, kể cả những nước có Quốc hội chuyên nghiệp với lịch sử lập pháp hàng trăm năm, có sự thừa nhận rộng rãi các chủ thể sáng kiến pháp luật thì cơ quan đề xuất sáng kiến pháp luật và trình nhiều dự án luật nhất vẫn là Chính phủ. Ở hầu hết các nước, Chính phủ là cơ quan trình dự án luật, trung bình chiếm tỷ lệ 80- 85%, có nước còn chiếm tới 95% [41, tr 141]. Ở Việt Nam, theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cùng với bản chất dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật, nên việc thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội được Hiến pháp, Luật ban hành VBQPPL hiện hành quy định có nhiều chủ thể có quyền tham gia vào hoạt động này. Điều 87 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội; đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Mặc dù luật quy định có nhiều chủ thể có quyền sáng kiến luật như trên, song trên thực tế Chính phủ vẫn là chủ thể chủ yếu, quan trọng nhất, có đến trên 90% các dự án luật, pháp lệnh là do Chính phủ kiến nghị và trực tiếp soạn thảo trình Quốc hội, UBTVQH. Thực tiễn lập pháp ở nước ta trong 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan