ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC
VAI TRß CñA C¸C Tæ CHøC PHI CHÝNH PHñ T¹I VIÖT NAM
TRONG VIÖC B¶O VÖ Vµ THóC §ÈY QUYÒN TRÎ EM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC
VAI TRß CñA C¸C Tæ CHøC PHI CHÝNH PHñ T¹I VIÖT NAM
TRONG VIÖC B¶O VÖ Vµ THóC §ÈY QUYÒN TRÎ EM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: 8380101.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÃ KHÁNH TÙNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Đình Đức
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN TRẺ EM ..........................................8
1.1.
Các khái niệm cơ bản ..................................................................................8
1.1.1. Trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em ..............................................8
1.1.2. Khái niệm “Tổ chức phi chính phủ” ...........................................................12
1.2.
Quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động của các
1.2.1.
Tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền
trẻ em ..........................................................................................................18
Vị trí của các Tổ chức phi chính phủ trong chính sách bảo vệ trẻ em
1.2.2.
1.2.3.
cuả Việt Nam ...............................................................................................19
Về đăng ký và tư cách pháp nhân ...............................................................22
Về hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ..........................................24
1.3.
1.3.1.
Cách thức hoạt động của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam
trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ....................................27
Bảo trợ trẻ em ..............................................................................................27
1.3.2. Tiếp cận dựa trên quyền ..............................................................................33
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................37
Chƣơng 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH
PHỦ TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN TRẺ EM ...38
2.1.
Thành quả của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam .......................38
2.1.1. Hỗ trợ vật chất đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ...............................40
2.1.2. Cung cấp dịch vụ cho trẻ em .......................................................................43
2.1.3. Nâng cao năng lực và tuyên truyền về pháp luật, quyền trẻ em .................45
2.1.4.
Vận động chính sách ...................................................................................47
2.1.5.
Giám sát việc thực thi quyền trẻ em của Nhà nước ....................................51
2.2.
Những khó khăn của các Tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam ............52
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
Rào cản pháp lý ...........................................................................................53
Rào cản về năng lực của các Tổ chức phi chính phủ ..................................60
Rào cản về nhận thức xã hội .......................................................................62
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................65
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
3.1.
TẠI VIỆT NAM PHÁT HUY TỐI ĐA VAI TRÒ BẢO VỆ VÀ
THÚC ĐẨY QUYỀN TRẺ EM ...............................................................66
Giải pháp khắc phục rào cản pháp lý ........................................................66
3.2. Giải pháp khắc phục rào cản về năng lực của đối tác ..............................69
Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74
PHỤ LỤC .................................................................................................................81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BKHĐT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
BLĐTBXH
Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội
BNG
Bộ Ngoại giao
BTC
Bộ Tài chính
COMINGO
The Committee for foreign Non-governmental Organization
Affairs/ Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài
CRC
Convention on the Rights of the Child/ Công ước Quốc tế về
Quyền trẻ em
CRnet
Mạng lưới gồm hơn 40 tổ chức phi Chính phủ trong nước, và có
quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức trong nước và quốc tế
CSO
Civil Society Organization/ Tổ chức xã hội dân sự
INGO
International Non-governmental Organization/ Tổ chức phi
chính phủ nước ngoài, Tổ chức phi chính phủ quốc tế
iSEE
Institute for studies of Society, Economy and Environmen/
Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường
LHQ
Liên Hợp Quốc
NGO
Non-governmental Organization/ Tổ chức phi chính phủ
PACCOM
Ban điều phối viện trợ nhân dân
PCPNN
Phi chính phủ nước ngoài
QLDA
Quản lý dự án
TNTG
Tầm nhìn Thế giới
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
Hình 1.1
Ngân sách theo nguồn tài trợ của tổ chức Cứu trợ trẻ em
Quốc tế năm 2016
Hình 1.2
Ngân sách theo nguồn tài trợ của tổ chức TNTG tại Việt
Nam năm 2017
Hình 1.3
Ngân sách theo nguồn tài trợ của Tổ chức Good Neighbors
Hình 2.1
Thời gian trung bình kể từ khi nộp hồ sơ hoàn chỉnh để phê
duyệt, theo phán ảnh các INGO tại các tỉnh Sơn La, Thanh
Hóa, Phú Thọ và Kon Tum
Hình 2.2
Trình độ học vấn của nhân viên trong tổ chức phi chính phủ
Quốc tế
Trang
29
30
30
54
60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, Việt
Nam đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt dành cho nhóm yếu thế này từ cách đây gần 6
thế kỷ. Dưới chế độ phong kiến đã có những bước pháp điển hóa các quy tắc bảo vệ
trẻ em. Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức đã đặt ra
nhiều điều kiện nền tảng để chăm sóc trẻ em. Mặc dù vẫn còn nặng nề tính trừng
phạt khắc nghiệt của thời kỳ Nho giáo, nhưng với những Điều luật như trẻ từ 15
tuổi trở xuống nếu phạm tội đi đày thì được chuộc bằng tiền, miễn tử hình đối với
trẻ từ 7 tuổi trở xuống, cấm mua bán trẻ từ 15 tuổi trở xuống, phạt nặng đối với
người ngược đãi trẻ em, cấp tiền cho người nhận nuôi dưỡng trẻ lạc…
Do hạn chế về cả nhận thức và thể chất, trẻ em phụ thuộc vào người giám hộ,
người chăm sóc, vì thế sự quan tâm của xã hội đối với trẻ em được hình thành dựa
vào nền tảng tình thương, lòng nhân đạo chứ không phải là nghĩa vụ bảo vệ quyền.
Đặc điểm này tạo ra một hệ lụy nguy hiểm, rằng trong những thời điểm như thiên
tai, chiến tranh, … trẻ em trở thành một trong những đối tượng chịu các ảnh hưởng
nặng nề nhất. Công ước về quyền trẻ em là Công ước nhân quyền được nhiều quốc
gia phê chuẩn nhất trong số những văn kiện quốc tế về quyền con người. Việt Nam
đã phê chuẩn Công ước này được hơn 25 năm và ý chí chính trị nhằm quyết tâm
thực hiện Công ước được thể hiện rõ với những cam kết quốc tế như Cam kết thực
hiện Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới “Về sự sống còn, bảo vệ và phát
triển trẻ em” (năm 1990) và Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ về “Một thế giới phù
hợp với trẻ em” (năm 2002). Năm 2013, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đã một lần nữa khẳng định quyền của trẻ em cũng như trách nhiệm
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Nhà nước, gia đình và xã hội. Luật Trẻ em
2016 có hiệu lực từ 1/6/2017 cũng là một bước tiến của pháp luật Việt Nam trong
việc thực thi, bảo đảm và thúc đẩy quyền trẻ em với những quy định tương đối đầy
đủ về quyền của trẻ em dựa trên 4 nhóm quyền của Công ước về quyền trẻ em (sau
1
đây viết tắt là CRC): Quyền được sống, quyền được bảo vệ, Quyền được phát triển
và Quyền được tham gia
Mặc dù nhận được sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ và
chính mỗi gia đình, tuy nhiên, trong bối cảnh điều kiện kinh tế và nhận thức còn hạn
chế, có không ít trẻ em Việt Nam vẫn phải sống cuộc sống thiếu thốn, là nạn nhân
của bạo hành, phân biệt đối xử, an toàn về tính mạng, về quyền bất khả xâm phạm
về cơ thể,… đặc biệt là ở những khu vực khó khăn về kinh tế, giao thông, thông
tin,… Những nơi mà quyền trẻ em vì nhiều lý do mà không được đáp ứng một cách
đầy đủ cũng chính là những địa bàn mà Nhà nước cần sự tham gia mạnh mẽ của xã
hội để phần nào bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trong đó, không thể không kể
đến vai trò của những tổ chức phi chính phủ (Sau đây viết tắt là NGO) hoạt động
trong lĩnh vực quyền trẻ em.
Tại Việt Nam, các NGOs cũng đã tích cực tham gia thúc đẩy việc thực hiện
quyền trẻ em trên rất nhiều các phương diện: Truyền thông nâng cao nhận thức, đào
tạo nghiệp vụ, tổ chức hoạt động chăm sóc sức khỏe, thăm khám, giáo dục, bảo vệ
trẻ em, vận động quyền, kêu gọi sự tham gia ý kiến của trẻ em trong các hoạt động
liên quan đến các em, đóng góp các nghiên cứu, ý kiến xây dựng luật và chính sách,
giám sát thực thi …. Đặc biệt là đối với những đối tượng ở vùng sâu vùng xa, có
hoàn cảnh khó khăn. NGOs ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và
chứng tỏ được vai trò trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em.
Hoạt động của các Tổ chức nhân đạo phi chính phủ thường được chính quyền
địa phương hoan nghênh và hợp tác, tuy nhiên, vì nhiều lý do, hoạt động của các
NGOs chỉ được chào đón khi thực hiện các hoạt động hỗ trợ vật chất và cung cấp
dịch vụ, đối với các hoạt động can thiệp, đôi khi vẫn còn những rào cản. Ngoài ra,
các NGOs tại Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn vì nhận thức của người dân về
quyền trẻ em, về vai trò của NGOs trong việc hỗ trợ trẻ thụ hưởng quyền của mình
tại địa phương hoặc từ các dịch vụ của tổ chức. Hệ thống pháp luật cũng chưa thống
nhất quy định về vai trò, quyền hạn trách nhiệm của các tổ chức phi chính phủ nên
sẽ tạo ra những khó khăn trong thực tế khi can thiệp nhằm hỗ trợ trẻ có hoàn cảnh đặc
2
biệt theo Luật trẻ em 2016. Chính vì vậy, đề tài “Vai trò của tổ chức phi chính phủ tại
Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em” rất cần thiết để khẳng định vai
trò của NGOs trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em, những khó khăn trong hoạt
động của NGOs cũng như cách khắc phục để hoạt động ngày càng hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền trẻ em là một trong những vấn đề kinh điển với rất nhiều những
nghiên cứu, các bài báo khoa học, báo cáo của các tổ chức, cơ quan, các chuyên gia.
Các nghiên cứu về lý thuyết chung về quyền con người trong đó hàm chứa quyền
trẻ em có thể kể đến: “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2015; “Hỏi – Đáp về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân” do PGS. TS. Vũ Công Giao chủ
biên, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2016.
Các nghiên cứu cụ thể, chuyên biệt hơn về quyền trẻ em, đặt quyền trẻ em
trong tư cách quyền của nhóm dễ bị tổn thương, có thể kể đến:
- Công trình “Quyền trẻ em”, Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 6-2000 tập trung vào vị trí của
quyền trẻ em trong hệ thống quyền con người, các quy định của pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em, nêu ra các biện pháp nhằm thực hiện quyền
trẻ em ở Việt Nam.
- Cuốn “Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương”, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Lao động xã hội, 2011, nghiên cứu và phân
tích về các quy định của luật quốc tế về quyền trẻ em, đặc biệt chú trọng phân tích
Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1948;
Ngoài ra, có thể kể đến các đề tài, báo cáo như: “Báo cáo phân tích tình hình
trẻ em ở Việt Nam 2010” của Quỹ nhi đồng LHQ (UNICEF), các đề tài “Cơ sở lý
luận và thực tiễn sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em” “Nghiên cứu và xây dựng mô hình bảo vệ trẻ em đa cấp ở Việt Nam” do
TS Nguyễn Hải Hữu, Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em thuộc Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội làm chủ nhiệm thực hiện trong các năm 2010, 2011, cuốn “Thích
3
ứng xã hội của các nhóm xã hội yêu thế ở nước ta hiện nay” của tác giả GS.TS Vũ
Dũng, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2012; đề tài “Nghiên cứu việc thực hiện
quyền trẻ em ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của các tác giả
Nguyễn Hữu Minh, Đặng Bích Thủy, Viện xã hội học thuộc Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam thực hiện năm 2014….
Đối với hoạt động của các NGO, các báo cáo thường niên và nghiên cứu của
các tổ chức là một nguồn tài liệu không thể thiếu. Dữ liệu tổng kết của Trung tâm
dữ liệu các Tổ chức phi chính phủ quốc tế và Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt
Nam cũng là nguồn dữ liệu vô cùng hữu ích, cụ thể phải kể đến các báo cáo của
Nhóm Công tác vì Quyền trẻ em như: “Giám sát và báo cáo về thực thi quyền trẻ
em”, “Khung pháp lý về thực thi quyền trẻ em”,… Ngoài ra, có thể kể đến các công
trình nghiên cứu được sử dụng với mục đích hướng dẫn cho cán bộ nhân viên tổ
chức cũng xây dựng kiến thức về hoạt động của NGO như “Phương pháp tiếp cận
dựa trên quyền trong phát triển & lập chương trình quyền trẻ em”, Tổ chức Plan tại
Việt Nam, 2011.
Bởi NGO Việt Nam và NGO quốc tế đều được các học giả ghi nhận là bộ
phận cấu thành xã hội dân sự tại Việt Nam nên một nguồn tham khảo rất có giá trị
là những nghiên cứu về xã hội dân sự, trong đó có thể kể đến:
- Báo cáo “Đời sống hiệp hội từ góc nhìn người dân” của Nhóm làm việc vì
sự tham gia của người dân, NXB Tri Thức, 2016 đề cập đến vai trò, khó khăn, thuận
lợi trong hoạt động của hiệp hội tại Việt Nam.
- “Đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam” của nhóm nghiên cứu Lê
Quang Bình, Nguyễn Thị Thu Nam, Phạm Thanh Trà, 2015 giúp xây dựng những
chỉ số định lượng về không gian xã hội dân sự của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các luận văn về vai trò của NGO với công tác bảo vệ quyền con
người nói chung như: “Tổ chức phi chính phủ nước ngoài và vấn đề bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam” của Lê Thị Thúy Hương, 2013; và các chủ đề cụ thể hơn
trong công tác bảo vệ quyền trẻ em như: “Hoạt động của các INGO trong lĩnh vực
giáo dục và chăm sóc trẻ em ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay” của Đỗ Thị Vân
4
Anh, 2010; cũng cung cấp khối lượng kiến thức không nhỏ về vai trò và hoạt động
của các tổ chức phi chính phủ. Các thông tin trên các báo, tạp chí cũng được sử
dụng để cập nhật thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, đề tài vai trò của các NGO trong việc bảo vệ và thúc
đẩy quyền trẻ em tại Việt Nam chưa thực sự được phát triển đầy đủ. Vì vậy, đề tài
nghiên cứu của luận văn này vẫn cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn sẽ là khẳng định vai trò, ý nghĩa của các NGO tại Việt
Nam hoạt động trong lĩnh vực quyền trẻ em. Chỉ ra được những thành công trong
thực tiễn và rào cản để phát huy tối đa hiệu quả NGOs tại Việt Nam trong lĩnh vực
này. Từ đó, luận văn chỉ ra những cách khắc phục các khó khăn. Mục tiêu lớn nhất
của luận văn là khẳng định được vai trò của các NGO trong công tác bảo vệ và thúc
đẩy quyền trẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, tìm hiểu những quy định về hoạt động của NGO trong bảo vệ
và thúc đẩy quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động và cơ sở lý luận của các NGO trong
lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em;
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp khắc phục những bất cập trong
quy định về hoạt động của NGO trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng vai trò của các
NGO trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn chỉ nghiên cứu quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động
của NGO tại Việt Nam, cũng như các chính sách đảm bảo quyền trẻ em Việt Nam.
5
Những phân tích về quyền trẻ em mang tính khái quát để làm tiền đề và tham chiếu
với hoạt động của NGO.
Về không gian, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về NGOs hoạt
động trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ở Việt Nam. Những phân tích
về quyền này của trẻ em ở các quốc gia khác chỉ mang tính khái quát để tham chiếu
với Việt Nam.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của NGO
trong lĩnh vực quyền trẻ em ở Việt trong mười năm trở lại đây.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
NGO là thành phần không thể thiếu trong công tác xã hội, vấn đề nhân quyền là
vấn đề liên ngành vì vậy luận văn ngoài áp dụng các kiến thức trong lĩnh vực pháp luật
sẽ sử dụng các nghiên cứu của ngành xã hội học và các ngành khoa học khác. Đề tài
được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của học thuyết MácLênin. Phương pháp luận này được sử dụng để định hướng cho việc lựa chọn, sử dụng
các phương pháp nghiên cứu và đưa ra những nhận định, đánh giá của đề tài.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra:
- Tai chương 1: Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu
hiện có, các văn kiện pháp lý quốc tế và của Việt Nam để làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về vai trò của NGO trong bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em ở nước ta hiện nay.
- Tại chương 2: Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các tài liệu,
báo cáo chuyên môn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội
dân sự để đánh giá Hành lang pháp lý của Việt Nam trong vấn đề điều chỉnh hoạt
động của NGOs trong lĩnh vực quyền trẻ em và thực tiễn hoạt động của NGO trong
lĩnh vực này
- Tại chương 3: Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các
quan điểm, giải pháp để NGOs tại Việt Nam phát huy tối đa vai trò bảo vệ và thúc
đẩy quyền trẻ em.
6. Tính mới và ý nghĩa khoa học, thực tiễn luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa về phương diện lý luận và thực
6
tiễn, bởi đây là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về hai vấn
đề: Vai trò của NGOs tại Việt Nam trong việc Bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em, và
những hướng khắc phục các tồn tại hiện nay trong hoạt động của NGOs tại Việt
Nam trong lĩnh vực quyền trẻ em.
Luận văn mang đến những ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
- Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là tài liệu tham khảo về quy định
của pháp luật về hoạt động của NGOs trong lĩnh vực quyền trẻ em.
- Các kết quả nghiên cứu trong luận văn cũng có thể trở thành tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức hữu quan trong quá trình nghiên cứu
để xây dựng những chính sách, pháp luật về về hoạt động của NGOs trong lĩnh
vực quyền trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của các Tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo
vệ và thúc đẩy quyền trẻ em
Chương 2. Thực tiễn hoạt động các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực bảo
vệ và thúc đẩy quyền trẻ em
Chương 3: Một số giải pháp để các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam phát
huy tối đa vai trò bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC TỔ CHỨC PHI
CHÍNH PHỦ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN TRẺ EM
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em
Tùy theo các góc độ tiếp cận của các ngành khoa học mà “trẻ em” được định
nghĩa khác nhau. Trong khoa học pháp lý, “trẻ em” là khái niệm được xác định theo
độ tuổi. Độ tuổi được xem là trẻ em ở mỗi quốc gia được quy định khác nhau.
Nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ở mối liên hệ của nguồn lực trong công tác
an sinh xã hội cũng như tình hình kinh tế xã hội của từng quốc gia đối với trẻ em.
Thậm chí trong luật pháp quốc tế, các quy định cũng có phần khác biệt.
Ví dụ, đối với các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, có thể kể đến Quỹ dân số
LHQ (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hay Tổ chức Giáo dục, Khoa học
và Văn hóa (UNESCO), các văn kiện của các tổ chức kể trên đều ghi nhận trẻ em là
những người dưới 15 tuổi. Nhưng với Công ước về quyền trẻ em (CRC) năm 1989,
điều 1 khẳng định: “trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi”. Mặc dù vậy, điều này
quy định mở, với ngôn ngữ không bắt buộc, thể hiện ở nội dung: “trừ trường hợp
pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Như vậy, các quốc gia với những quy định khác biệt về độ tuổi được công nhận là
“trẻ em” có thể dễ dàng chấp nhận tham gia CRC.
Pháp luật quốc tế đòi hỏi phải phân biệt khái niệm này với khái niệm “người
chưa thành niên”. Khoản a, điều 11, Các quy tắc của LHQ về bảo vệ người chưa
thành niên bị tước tự do 1990 quy định: “người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi”. Quy tắc Bắc Kinh (Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng
pháp luật với người chưa thành niên, 1985), Hướng dẫn Ri-át (Hướng dẫn của LHQ
về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên, 1990) cũng sử dụng khái niệm
này. Các văn kiện quốc tế này sử dụng khái niệm trẻ em, người chưa thành niên với
mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi họ phạm pháp.
8
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có hai thuật ngữ chỉ “trẻ em” theo tiêu
chuẩn của CRC. Thuật ngữ “trẻ em” là người dưới 16 tuổi được sử dụng trong Luật
trẻ em 2016 và thuật ngữ “người chưa thành niên” để chỉ những người dưới 18 tuổi
và được sử dụng trong rất nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao
động, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật hôn nhân và gia đình, Luật nghĩa vụ
quân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và nhiều văn
bản quy phạm pháp luật khác nhằm quy định cụ thể những chế định pháp luật dành
riêng cho người chưa thành niên trong nhiều từng lĩnh vực. Có thể thấy khái niệm
“người chưa thành niên” rộng hơn khái niệm “trẻ em, “người chưa thành niên” bao
gồm cả “trẻ em” và những người từ 16 tuổi đến 18 tuổi. Bộ luật” Hình sự 2015 đưa
ra những những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại điều 12, chỉ sử
dụng trực tiếp các mức độ tuổi cụ thể để điều chỉnh mà không dùng khái niệm
“người chưa thành niên phạm tội” như trước.
Phạm vi về không gian của luận văn là tại Việt Nam, một quốc gia thành
viên của CRC, và để bao quát được nhiều nhất những hoạt động của các tổ chức
NGO trong việc bảo vệ quyền trẻ em, “trẻ em” trong luận văn này có thể hiểu là
những người dưới 18 tuổi theo tiêu chuẩn của CRC.
Lần đầu tiên, “quyền trẻ em” được đề cập đến trong phong trào toàn cầu đầu
tiên về trẻ em do Eglantyne Jebb khởi xướng bằng việc hình thành Quỹ Save the
children (tiền thân của NGO Save the children ngày nay) năm 1919. Năm năm sau
đó, bà soạn thảo Tuyên ngôn về Quyền trẻ em được Hội quốc Liên thông qua [66].
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật quốc tế, “quyền trẻ em” được ghi nhận.
Trước thời điểm này, các điều khoản bảo vệ trẻ em trong các điều luật được xây
dựng dựa trên quan niệm trẻ em là đối tượng phụ thuộc đang nhận sự che chở, tình
thương của các chủ thể có liên quan [6, tr. 257-258]. Kể từ đây, quyền trẻ em trở
thành một nội dung của quyền con người.
Mặc dù từ thời điểm đó đến khi quyền trẻ em được bảo vệ bởi một Công ước
riêng đã mất đến gần 7 thập kỷ nhưng ngay từ khi quyền con người được nhắc đến
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948) và sau đó hai
9
công ước quan trọng nhất về quyền con người là Công ước về Quyền dân sự, chính
trị (ICDPR,1966) và Công ước về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICECSR, 1966)
đều nhắc đến nguyên tắc phổ quát của quyền con người. Như vậy đã có thể hiểu trẻ
em cũng là chủ thể bình đẳng với người trưởng thành trong việc hưởng tất cả các
quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế.
Thuật ngữ “bảo vệ và thúc đẩy” (protect and promote) là một thuật ngữ phổ
biến trong lĩnh vực quyền con người. Thuật ngữ này có thể được các tổ chức của
LHQ sử dụng để chỉ các hoạt động đảm bảo quyền con người nói chung.
“Bảo vệ quyền” là hoạt động có liên hệ với ba nghĩa vụ chính của Nhà nước
nhằm đảm bảo quyền con người theo pháp luật Nhân quyền quốc tế, bao gồm: Tôn
trọng (respect), bảo vệ (protect) và hỗ trợ/ thực thi (fulfill). Trong đó, “bảo vệ
quyền” mang ý nghĩa Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các cá nhân và nhóm khỏi các
vi phạm về quyền con người. Như vậy, hoạt động bảo vệ quyền con người tập trung
vào phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các vi phạm quyền con người.
Khoản 3, Điều 1, Hiến chương LHQ đã nêu một trong những mục đích của
LHQ là “thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng đối với quyền con người và các
quyền tự do cơ bản”. Lời nói đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền cũng thừa
nhận vai trò của quốc tế trong việc: “thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ
bản của con người thông qua truyền bá và giáo dục; cũng như thúc đẩy sự thừa nhận
và tuân thủ chung và hữu hiệu các quyền đó không chỉ với người dân nước mình mà
với cả các dân tộc ở các lãnh thổ thuộc quyền quản thác của nước mình, thông qua
các biện pháp tích cực, kể cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế”. Như vậy, “thúc
đẩy” được hiểu là các hoạt động truyền bá, giáo dục quyền con người thông qua các
biện pháp tích cực.
Việc bảo vệ quyền trẻ em không tách rời việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người nói chung, bởi lẽ quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em và đây chính là
việc bảo vệ quyền con người ở giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Tuy nhiên trẻ em sở
hữu những đặc điểm khác với người trưởng thành, vì vậy, việc bảo vệ quyền trẻ em
cũng phải có những điểm đặc trưng, bên cạnh những nguyên tắc phổ quát của quyền
con người, bao gồm bồn nguyên tắc sau:
10
- Trẻ em cũng là những con người: Nguyên tắc này xác định vị thế bình đẳng
của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể của quyền, phải được công nhận
và bảo vệ các quyền ngay từ giai đoạn thơ ấu;
- Không phân biệt đối xử: Tất cả trẻ em trên thế giới đều được hưởng các
quyền quy định tại CRC, bất kể sự phân biệt dựa trên cơ sở nào (dân tộc, chủng tộc,
giới tính, tôn giáo, ...);
- Lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em: Nguyên tắc này đòi hỏi trong mọi hoạt
động có liên quan đến trẻ em, nhà nước, các chủ thể khác, các bậc cha mẹ phải lấy
lợi ích của trẻ em làm mục tiêu đầu tiên;
- Tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo
rằng trẻ em thực sự là chủ thể của quyền. Nó đòi hỏi các chủ thể khác phải tôn trọng
các quyền tự do diễn đạt, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do lập hội và tự do tư tưởng
của trẻ em.
Ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ “quyền trẻ em” chưa bao giờ xuất hiện trong
thời kỳ phong kiến, tuy nhiên, pháp luật luôn có những quy định bảo vệ đối tượng là
trẻ em. Tư tưởng này được hoàn thiện nhất trong bộ Quốc triều hình luật triều Hậu
Lê – triều đại có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Có
thể kể đến nguyên tắc khoan hồng đối với người phạm tội là trẻ em, thể hiện ở điều
16 và điều 17 của bộ luật này, quy định “những người phạm tội…. từ 15 tuổi trở
xuống…. phạm tội lưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền”, “10 tuổi trở xuống…
phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội,… 7 tuổi trở xuống dù
phạm tử tội cũng không áp dụng hình phạt” (Điều 16) [25, tr. 207], hoặc điều luật
bảo vệ quyền của trẻ em mồ côi như điều 313: “… những trẻ nhỏ mồ côi, tự bán mình
mà không có ai bảo lĩnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng thảy
đều xử tội xuy, trượng như luật, đòi lại tiền trả cho người mua và hủy bỏ văn khế”, hay
bảo vệ trẻ lạc tại các điều 604: “Bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng
chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng, trái luật không cho người ta
nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc”, và điều 605: “Làm sự trái ngược
(lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80
11
trượng, đền tiền đền mạng 5 quan cho cha mẹ đứa trẻ chết” [25, tr. 261]. Tuy nhiên
những quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em tại thời điểm này chỉ hạn chế trong một
số lĩnh vực như pháp luật hình sự, các mối quan hệ hôn nhân gia đình và dựa trên
nền tảng đạo đức, mối quan hệ giữa người giám hộ và trẻ. Đây là một trong những
quan niệm phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia.
Vào ngày 20/02/1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia
thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em. Và phải đến Đại hội
Đảng lần thứ IX (2001), lần đầu tiên từ “quyền trẻ em” được dùng trong các văn
kiện của Đảng. Từ đó đến nay, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh
thần và nội dung của CRC vào luật pháp quốc gia, thể hiện qua việc ban hành và
sửa đổi các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến trẻ em.
1.1.2. Khái niệm “Tổ chức phi chính phủ”
Mặc dù các NGO có một lịch sử gắn bó chặt chẽ với việc thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền, tạo được vị trí quan trọng trong cộng đồng quốc tế, tuy nhiên, tới nay,
khái niệm tổ chức phi chính phủ (Non-governmental Organization - NGO) vẫn chưa
được thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, các tổ chức quốc tế và các chính phủ.
LHQ đưa ra khái niệm NGO từ sau năm 1945, với ý nghĩa “bất kì tổ chức
nào độc lập với sự điều phối của nhà nước, hoạt động không vì lợi nhuận, không
phải là một đảng chính trị hoặc một tổ chức tội phạm” [8, tr. 12]. Điều này thể hiện
rằng các NGO cần phải có vị trí trung lập với các quan điểm chính trị và độc lập với
chính phủ. Chính vì thế, trong bối cảnh Việt Nam có những tổ chức thuộc Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam mặc dù cũng hoạt động vì mục tiêu xã hội như Hội nông dân,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam giống với tổ chức xã hội và tổ chức phi chính phủ
nhưng lại là những tổ chức đại diện cho các tầng lớp cho xã hội và có vai trò trong
hệ thống chính trị.
Tại nguyên tắc thứ 12 của Nghị quyết 1996/31, Hội đồng Kinh tế Xã hội của
LHQ (ECOSOC) ghi nhận: “…. bất kì Tổ chức nào được thành lập không phải bởi
cơ quan chính phủ hoặc thỏa thuận liên chính phủ đều được coi là Tổ chức phi
chính phủ, … kể cả những tổ chức chấp nhận những thành viên được sắp xếp bởi
12
chính phủ, miễn là việc chấp nhận thành viên này không ảnh hưởng đến sự tự do
biểu đạt của tổ chức” [56]. Khái niệm này rộng và có độ bao trùm lớn nhưng chưa
thể hiện được bản chất. Với cách nhìn này, Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam cũng
là một tổ chức phi lợi nhuận. Bởi mặc dù có những thành viên trong Ban Chấp hành
từng tham gia vào bộ máy chính quyền hoặc được các cơ quan nhà nước đặc biệt
quan tâm nhưng theo những thông tin giới thiệu của Hội trên trang thông tin điện tử
và trang mạng xã hội của Hội, Hội bảo vệ quyền trẻ em được thành lập dựa trên
nguyện vọng của những cá nhân, tổ chức chung mục đích và độc lập với ngân sách
nhà nước. Tuy nhiên, thực tế, Hội bảo vệ quyền trẻ em lại có mối liên hệ rất chặt
chẽ với Bộ LĐTBXH, thậm chí điều 92 của Luật Trẻ em cũng quy định vai trò cụ
thể của Hội này, vì vậy tổ chức này không thể độc lập hoàn toàn với chính phủ.
Với phạm vi hoạt động rộng như các NGO, định nghĩa của Tổ chức Ngân
hàng Thế giới sử dụng biện pháp liệt kê những lĩnh vực mà các NGO hoạt động,
qua đó có thể hiểu NGO là “những tổ chức tư nhân theo đuổi các hoạt động nhằm
giảm bớt đau khổ, thúc đẩy lợi ích của người nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp
các dịch vụ xã hội cơ bản hoặc cam kết phát triển cộng đồng”. Theo cách hiểu rộng
hơn, NGO phải là các tổ chức phi lợi nhuận độc lập với chính phủ hoạt động vì mục
tiêu xã hội [61, tr. 13]. Khái niệm này nêu bật được những đặc trưng của NGO: phi
lợi nhuận, độc lập với chính phủ, hoạt động vì mục tiêu xã hội.
Trong quan hệ quốc tế, một số học giả cũng sử dụng khái niệm tương tự định
nghĩa của World Bank: “bất cứ một tổ chức xuyên quốc gia nào mà không được
thành lập bởi một nhà nước thì tổ chức đó là một tổ chức phi chính phủ”, như vậy,
những tổ chức nhân đạo và hỗ trợ, các nhóm nhân quyền, các nhóm vận động hành
lang, các nhà hoạt động môi trường, các tổ chức chuyên nghiệp, những phong trào
xã hội mới, thậm chí các tập đoàn xuyên quốc gia, các tổ chức tội phạm và khủng
bố, và các nhóm tôn giáo và dân tộc đều được xem là các tổ chức phi chính phủ.
Một số học giả sử dụng định nghĩa hẹp hơn: một NGO là bất kỳ một chủ
thể xuyên quốc gia nào hoạt động không vì lợi nhuận, không ủng hộ bạo lực, chấp
nhận những quy tắc về không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, và
13
- Xem thêm -