1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Luật tố tụng dân sự là một ngành luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam, cũng là
một trong những luật hình thức bao gồm hệ thống các quan hệ pháp luật điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự tại Tòa án:
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, quan hệ giữa những người tham
gia tố tụng với nhau và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia
tố tụng.
Luật tố tụng dân sự được hình thành nhằm giải quyết các tranh chấp, yêu cầu liên
quan đến các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội: quan hệ dân sự, quan hệ kinh
doanh – thương mại, quan hệ lao động và quan hệ hôn nhân – gia đình. Các quan hệ
này do luật nội dung là các luật dân sự, luật kinh doanh – thương mại, luật lao động và
luật hôn nhân – gia đình điều chỉnh, có điểm chung là hình thành dựa trên sự bình
đẳng, thỏa thuận, tự do, tự nguyện và quyền tự định đoạt của các đương sự. Quan hệ tố
tụng dân sự phát sinh khi có chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quyền, nghĩa vụ mà đáng ra phải thực hiện theo thỏa thuận, theo quy định của pháp
luật. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự những đặc điểm phản ánh
quan hệ pháp luật nội dung vẫn được giữ nguyên, đương sự được đặt vào vị trí trung
tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Để giải quyết vụ việc khách
quan, đúng quy định của pháp luật thì việc xác định tư cách của các đương sự, quyền
và nghĩa vụ của các đương sự, mối quan hệ giữa người tham gia tố tụng với cơ quan
tiến hành tố tụng, với người tiến hành tố tụng … được xem là vấn đề trọng tâm của
ngành luật tố tụng dân sự.
Thực hiện những chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ
quan tư pháp đã được đề ra trong các nghị quyết Trung ương mà đặc biệt là Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 1 năm 2002 của Đảng Cộng sản Việt Nam về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được các nghị quyết đưa ra là: “Tiếp tục
hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình
dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng
cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành
chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận
công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn.
2
Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải,
trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Bên cạnh đó,
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp 2013, thay thế Hiến pháp năm 1992. Hiến
pháp năm 2013 được đánh giá là tiến bộ và đã đạt được các mục đích, yêu cầu đặt ra là
thể chế hóa những đường lối, chính sách lớn của Đảng. Một trong những điểm mới
đánh dấu sự đổi mới trong tư duy, nhận thức, nội dung và kỹ thuật lập hiến là quy định
và phân biệt rõ ràng quyền con người và quyền cơ bản của công dân.
Bắt kịp với yêu cầu đổi mới, ngày 24 và 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật
dân sự thay thế cho Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự thay thế cho Bộ
luật số tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2011. Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã thể chế hóa
những quan điểm, đường lối về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp của Đảng, Hiến
pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật tố tụng trước đây. Đặc biệt các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 về uỷ quyền trong tố tụng dân sự đã thể hiện được đường lối cơ bản trong cải
cách tư pháp, đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền quyết
định và tự định đoạt, quyền nhờ người khác thay mặt tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
lợi của đương sự đã được Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận và có những quy
định khá cụ thể, chi tiết để bảo đảm thực hiện. Nếu đương sự vì một lý do nào đó như
già yếu, ốm đau, đi lại khó khăn do khoảng cách về địa lý, do ít kinh nghiệm hoặc hạn
chế về trình độ hiểu biết pháp luật mà không thể hoặc không muốn tự mình tham gia tố
tụng, thì có thể ủy quyền cho người khác (thường là người thân trong gia đình, người
có quan hệ trong công tác hoặc luật sư) thay mặt mình để tham gia giải quyết.
Xã hội ngày càng phát triển, quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp kéo
theo đó là những tranh chấp, yêu cầu về dân sự, kinh doanh – thương mại, lao động và
hôn nhân – gia đình. Trong thời gian hơn 10 năm áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã ghi nhận rất nhiều hạn chế, bất cập về ủy quyền
trong tố tụng dân sự mà bộ luật này mang lại. Trường hợp đương sự là người bị một
hoặc một số hạn chế về thể chất như đui, mù, câm, điếc, cụt cả hai tay; người bị tâm
thần … Nhiều vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đã gây nhiều tranh luận như người được
ủy quyền trong tố tụng dân sự có được ký đơn khởi kiện hay không; có được ủy quyền
về phần tài sản và cung cấp chứng cứ trong các vụ án ly hôn không, trong trường hợp
3
nào thì việc ủy quyền lại của pháp nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự được
coi là hợp lệ; thực hiện ủy quyền của dòng họ trong tố tụng dân sự thế nào cho đúng;
ngoài ra, đã có không ít trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị hủy
hoặc sửa do có sai sót về ủy quyền trong tố tụng dân sự như vi phạm về thời hạn ủy
quyền, vượt quá phạm vi ủy quyền, việc ủy quyền không đúng pháp luật, xác định
không đúng tư cách của đương sự và người đại diện theo ủy quyền của đương sự …
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mới được ban hành, theo dự kiến sẽ có hiệu lực
thi hành một phần từ ngày 01 tháng 7 năm 2016; trong đó có quy định liên quan đến
ủy quyền trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do thời gian áp dụng chưa lâu nên quy định
về ủy quyền trong tố tụng dân sự trong bộ luật này có thực sự hoàn thiện hơn, đã đáp
ứng được bao nhiêu và còn những hạn chế, bất cập gì khi áp dụng trên thực tiễn vẫn
còn là những dấu hỏi. Vì vậy, dựa trên những vấn đề lý luận cơ bản, cùng với sự so
sánh với luật thực định và thực tiễn áp dụng luật thực định, từ đó làm rõ ưu điểm, hạn
chế để đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ủy quyền trong tố tụng dân sự
là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Ủy quyền trong
tố tụng dân sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến chế định ủy quyền trong tố
tụng dân sự, như: Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về đại diện một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Lê Thị Minh năm 2010, Khóa luận tốt nghiệp “Người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Hồ Nguyên Bình năm 2010, Khóa
luận tốt nghiệp “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả
Nguyễn Thị Long năm 2011, Khóa luận tốt nghiệp “Chế định người đại diện của
đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Thị Thương
năm 2012; Luận văn thạc sỹ “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà năm 2012 … Ngoài ra còn các bài viết trên một số báo và
tạp chí, như: “Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét việc ủy quyền tham gia tố tụng” của
tác giả Vũ Thị Hòa trên Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2007, “Một số vấn đề về người
đại diện theo ủy quyền và đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác
giả Nguyễn Thị Hạnh trên Tạp chí nghề luật số 06/2010, “Một số vướng mắc trong
quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện”
của tác giả Nguyễn Văn Cường trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 02/2010, “Bàn về
quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo Điều
161 Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Tào Thị Huệ trên tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2010, “Các quy định về đối tượng nhận ủy quyền trong Bộ luật dân sự” của tác giả
4
Trần Đình Chi trên Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ I tháng 6/2014 …
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu khai thác dưới góc độ bảo đảm quyền
bảo vệ của đương sự hoặc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh về ủy
quyền trong tố tụng dân sự, chỉ ra một số vướng mắc nhất định khi thực hiện quy định
về đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng, chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện
và chuyên sâu về ủy quyền trong tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, các công trình nghiên
cứu ra đời khi chưa có Dự thảo sửa đổi BLTTDS và BLTTDS năm 2015 nên không có
được sự so sánh đối chiếu để thấy được những chuyển biến tích cực và những hạn chế
còn tồn tại của quy định ủy quyền trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu chuyên sâu các các vấn đề lý luận về ủy quyền trong tố tụng dân sự, thực trạng
quy định pháp luật mới được sửa đổi và thực tiễn áp dụng các quy định này trong pháp
luật hiện hành, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện là cần thiết.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn nghiên cứu về chế định ủy quyền trong TTDS được quy định trong
pháp luật Việt Nam hiện hành gồm BLTTDS năm 2015 và các văn bản pháp luật có
liên quan. Các quy định về ủy quyền trong TTDS cả các văn bản quy phạm pháp luật
từ trước cũng sẽ được đề cập với ý nghĩa để đối chiếu, so sánh làm sáng tỏ mục tiêu
nghiên cứu của đề tài.
Ủy quyền trong TTDS là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm vi
nghiên cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau và với
nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, luận văn tập trung
nghiên cứu vào những nội dung cơ bản như sau:
- Luận văn tập trung nghiên cứu về ủy quyền trong quá trình Tòa án giải quyết
VADS; không nghiên cứu ủy quyền trong quá trình Tòa án giải quyết việc dân sự, giải
quyết VADS theo thủ tục TTDS rút gọn và ủy quyền trong THADS.
- Trong phần nghiên cứu về khái niệm ủy quyền trong TTDS, mặc dù luận văn có
nghiên cứu ủy quyền trong TTDS dưới nhiều phương diện cụ thể khác nhau nhưng
luận văn có tập trung nghiên cứu sâu hơn về ủy quyền trong TTDS dưới phương diện
là một chế định pháp luật. Nghiên cứu vấn đề ủy quyền trong TTDS dưới góc độ pháp
luật có góc độ nghiên cứu rộng nhất, có khả năng bao quát được các nội dung cơ bản
của ủy quyền dưới các góc độ khác.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành và quy định pháp luật
mới được sửa đổi về ủy quyền trong tố tụng dân sự;
5
- Nêu rõ thực trạng áp dụng các quy định về ủy quyền trong tố tụng dân sự của
pháp luật hiện hành và dự đoán thực trạng áp dụng các quy định về ủy quyền trong tố
tụng dân sự của pháp luật mới sửa đổi;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện về mặt lập pháp cũng như về mặt
thi hành pháp luật về ủy quyền trong tố tụng dân sự.
5. CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
- Ủy quyền trong tố tụng dân sự là gì?
- Việc quy định ủy quyền trong tố tụng dân sự dựa trên cơ sở khoa học như thế
nào?
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến quy định và thực hiện ủy quyền trong tố tụng
dân sự?
- Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về ủy quyền trong tố tụng dân sự?
- Quy định của BLTTDS năm 2015 quy định về ủy quyền trong tố tụng dân sự
có những điểm nào khác so với BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)?
- Quy định của pháp luật về ủy quyền trong tố tụng dân sự được áp dụng như
thế nào trong thực tiễn?
- Quy định của pháp luật hiện hành có điểm nào hạn chế, bất cập so với yêu cầu
của thực tiễn đề ra?
- Có thể khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật
hiện hành không? khắc phục như thế nào?
6. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG ĐỂ THỰC HIỆN
LUẬN VĂN
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp
dụng trong đề tài này là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát: Để nắm vững cơ sở lý luận của
việc ủy quyền trong TTDS, đề tài đi sâu phân tích những khái niệm, bản chất của quan
hệ ủy quyền, mối liên hệ giữa ủy quyền trong dân sự và ủy quyền trong TTDS, khái
quát những nguyên tắc chung của việc ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ ủy quyền.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Bên cạnh chất lượng cuộc sống
ngày càng đi lên, các tranh chấp, yêu cầu về dân sự tại Tòa án ngày càng phức tạp,
việc ủy quyền tham gia tố tụng để giải quyết các yêu cầu của đương sự ngày càng
nhiều, phong phú về hình thức. BLTTDS, BLDS, các văn bản hướng dẫn liên quan
đến việc ủy quyền đặc biệt là các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC ra
đời nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết đó. Lấy thực tiễn đa dạng, phong phú để
6
chứng minh, bổ sung cho lý luận và ngược lại là một trong những phương pháp nghiên
cứu của đề tài này.
- Phương pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu các quy định
về ủy quyền, về đại diện theo ủy quyền trong BLTTDS năm 2004(sửa đổi, bổ sung
năm 2011), BLTTDS năm 2015; giữa BLTTDS với BLDS và với một số văn bản
hướng dẫn khác, so sánh các quy định hiện hành với các quy định trước đây về ủy
quyền trong TTDS để tìm ra những quy định phù hợp với thực tiễn cuộc sống, từ đó
việc kiến nghị sẽ hoàn thiện hơn.
7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Phân tích có hệ thống các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến chế định
ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- So sánh, đối chiếu quy định của pháp luật hiện hành và quy định của pháp luật
mới được sửa đổi liên quan đến chế định ủy quyền trong tố tụng dân sự;
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ủy quyền trong tố tụng
dân sự và rút ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật;
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các
quy định về ủy quyền trong tố tụng dân sự.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết
luận. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về ủy quyền trong TTDS.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ủy quyền
trong TTDS.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về ủy quyền
trong TTDS và một số kiến nghị.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA ỦY QUYỀN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm ủy quyền trong tố tụng dân sự
Để đưa ra khái niệm ủy quyền trong TTDS thì trước tiên cần làm rõ thuật ngữ tố
tụng dân sự.
Về mặt thuật ngữ, theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh: "tố tụng" là việc thưa
kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố
tụng (code deprocédure)"(1). Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì "Tố tụng" là việc
thưa kiện ở Tòa án.
Về mặt pháp lý, TTDS được ghép hai từ “tố tụng” và “dân sự”. “Tố tụng” là một
thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh (processus), được hiểu là một đường lối phải
tuân theo để đi đến chỗ thắng kiện. Ngoài ra, còn có một thuật ngữ khác tương đương
với thuật ngữ “tố tụng” là thuật ngữ “thủ tục”, có nguồn gốc từ tiếng Nhật Bản, được
hiểu là một thể thức phải làm để đạt được một kết quả nhất định(2). Có thể thấy, “thủ
tục” có nghĩa bao hàm và rộng hơn “tố tụng”, trình tự giải quyết vụ án tại Tòa án là
một phần nhỏ trong nghĩa của từ “thủ tục”. Ở các nước trên thế giới, chẳng hạn như
Anh thì các nhà nghiên cứu luật học quan niệm tố tụng (procedure) là những bước tiến
hành mang tính hình thức mà thông qua đó vụ kiện được giải quyết. Các nhà nghiên
cứu của Pháp thì cho rằng tố tụng (Procésdure) là toàn bộ những thể thức phải theo để
đệ trình một yêu cầu trước Thẩm phán(3). Dựa vào việc tính chất của từng loại vụ án
mà Tòa án giải quyết thì tố tụng lại được phân loại thành những loại tố tụng khác nhau
như tố tụng hình sự, TTDS, tố tụng hành chính. Như vậy, có thể thấy TTDS là trình tự,
thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải quyết một vụ kiện dân sự.
Ở Việt Nam, về nội hàm của khái niệm TTDS vẫn còn có những ý kiến trái
ngược nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự là một hoạt động của
TTDS(4). Ý kiến thứ hai cho rằng, thi hành án dân sự là một dạng của hoạt động hành
chính bởi thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành mà điều
1 Đào Duy Anh (1957), Từ điển Hán Việt, Trường Thi xuất bản, Sài Gòn, tr. 302.
2 Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật TTDS Việt Nam, Nxb Khai trí, Sài Gòn, tr. 3, 4.
3 Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình Luật dân sự tố tụng Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 11.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 11.
8
hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác, thi hành án dân
sự ở nước ta lại không do Tòa án - cơ quan tư pháp tổ chức. Ý kiến thứ ba cho rằng, thi
hành án là dạng hoạt động hành chính - tư pháp vì thi hành án dân sự là hoạt động
mang tính điều hành và chấp hành quyết định của Tòa án - cơ quan tư pháp(5). Tuy
nhiên, có thể thấy, TTDS chỉ là quá trình giải quyết VADS tại Tòa án vì giai đoạn thi
hành án dân sự quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc yêu cầu đã được giải quyết, các bên
trong quan hệ pháp luật không còn tư cách đương sự và nhiệm vụ của cơ quan thi hành
án, chấp hành viên là áp dụng bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế.
Như vậy, TTDS là trình tự, thủ tục được pháp luật quy định để Tòa án giải quyết
VADS do các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật yêu cầu. Trình tự,
thủ tục đó bao gồm: khởi kiện, yêu cầu và thụ lý giải quyết VADS, lập hồ sơ VADS,
hòa giải VADS, xét xử VADS theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, xét lạt bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm(6).
Trong quá trình giải quyết các VADS tại Tòa án, các đương sự, người đại diện
của đương sự vì những do khác nhau như do sức khỏe, công việc, thiếu kiến thức hiểu
biết pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng… mà họ không thể hoặc khó có thể tham
gia tố tụng tại Tòa án nên đã ủy cho cá nhân hoặc pháp nhân thay mặt mình tham gia
tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ủy quyền” có nghĩa là: “Giao quyền cho ai thay
mình”(7). Như vậy, theo nghĩa chung thì ủy quyền là việc người được ủy quyền nhân
danh người ủy quyền thực hiện một số quyền của người ủy quyền mà pháp luật quy
định cho họ. Ở đây cần phân biệt hai khái niệm “Ủy nhiệm” và “Ủy quyền”. Ủy nhiệm
là việc giao cho người khác được quyền làm những việc thuộc phạm vi trách nhiệm
của mình. Về mặt bản chất thì ủy nhiệm chính là việc thực hiện trách nhiệm thay cho
một người khi người đó có văn bản ủy nhiệm; về mặt phạm vi, nếu ủy quyền chỉ áp
dụng trong trường hợp cá thể nhất định khi người này ủy quyền cho người khác thực
hiện một số công việc trong phạm vi quyền của họ, thì ở ủy nhiệm là toàn bộ những
việc thuộc phạm vi trách nhiệm của một người được ủy nhiệm sang cho người khác
làm thay(8).
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, khái niệm ủy quyền trong TTDS cũng đã
5 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 10.
6 Bộ giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 12.
7 Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội,
tr. 1203
8 Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà
Nội, tr. 837.
9
được các nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ: là quan hệ pháp luật, là một hợp
đồng dân sự hay là một chế định pháp luật trong hệ thống pháp luật TTDS. Luận văn
cũng sẽ lần lượt đề cập ủy quyền trong TTDS dưới các góc độ trên, đồng thời đưa ra
khái niệm của từng góc độ. Tuy nhiên, như đã đề cập, Luận văn sẽ tập trung nghiên
cứu ủy quyền trong TTDS dưới góc độ là một chế định pháp luật.
* Ủy quyền trong TTDS dưới góc độ là một quan hệ pháp luật.
Khi hai bên thiết lập một quan hệ ủy quyền trong TTDS thì người được ủy quyền
(người đại diện theo ủy quyền) thay mặt người ủy quyền (người được đại diện) thực
hiện một số hành vi nhất định làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến lợi ích của
người ủy quyền trong phạm vi ủy quyền. Trong quan hệ này người được uỷ quyền có
nghĩa vụ thay mặt người ủy quyền thực hiện việc tham gia tố tụng tại Tòa án trong
phạm vi ủy quyền vì lợi ích của người ủy quyền.
Quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền trong TTDS là một quan
hệ pháp luật nên cũng mang các yếu tố cấu thành của một quan hệ pháp luật:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ ủy quyền trong TTDS bao gồm chủ thể ủy quyền
(người được đại diện) và chủ thể được ủy quyền (người đại diện theo ủy quyền).
- Về chủ thể ủy quyền: có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Để
thực hiện việc ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia TTDS tại Tòa án thì
chủ thể ủy quyền phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và
NLHVTTDS) để tham gia tố tụng tại Tòa án.
+ Chủ thể ủy quyền trong TTDS là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, nghĩa vụ
liên quan trực tiếp đến vụ án dân sự (đương sự trong VADS) hoặc người đại diện theo
pháp luật của đương sự. Các chủ thể trong TTDS bao gồm cơ quan, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Cơ quan, người tiến hành tố tụng bao gồm Tòa án,
Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền trong Tòa án, Viện kiểm sát được phân
công tiến hành hoạt động giải quyết vụ án dân sự. Những người tham gia tố tụng bao
gồm những người có quyền, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án và những người
tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, chỉ có người có quyền, nghĩa vụ liên quan trực tiếp
đến vụ án dân sự là các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan) hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự mới có thể ủy quyền cho
người khác tham gia tố tụng. Còn những người tiến hành tố tụng phải tự mình thực
hiện hoạt động tố tụng, có thể bị thay thế trong một số trường hợp(9). Người tham gia
9 Điều 46 đến 49 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) hoặc Điều 52 đến 54 BLTTDS năm 2015
10
tố tụng khác không được ủy quyền tham gia tố tụng vì họ là những người biết về vụ
án, có trình độ chuyên môn được Tòa án mời hoặc được tham gia tố tụng trực tiếp giúp
việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, khách quan.
- Về chủ thể được ủy quyền: có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tuy nhiên, vì phải
thực hiện nghĩa vụ là thay mặt chủ thể ủy quyền tham gia TTDS tại Tòa án nên chủ thể
được ủy quyền phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Cá nhân, pháp nhân có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và NLHVTTDS)
để tham gia tố tụng tại Tòa án. Theo đó, cá nhân phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên và
không bị mất năng lực hành vi dân sự. Còn đối với pháp nhân thì pháp nhân đó phải đủ
khả năng để thực hiện công việc được ủy quyền. Hay nói cách khác, pháp nhân là chủ
thể được ủy quyền phải có đăng ký kinh doanh hoặc trong nhiệm vụ, quyền hạn của
pháp nhân quy định rõ về việc có thẩm quyền dịch vụ tư vấn pháp lý; đại diện theo ủy
quyền trong hoặc ngoài tố tụng.
+ Cá nhân, pháp nhân không thuộc các trường hợp không được làm người đại
diện theo ủy quyền. Đây là trường hợp mà sự tham gia của các chủ thể này có thể tác
động đến những người tiến hành tố tụng, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết khách
quan vụ án nên họ không được tham gia với tư cách người đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định của pháp luật, các cá nhân, pháp nhân là Tòa án, Viện kiểm sát, Công
an và các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan đó hoặc họ đã tham gia tố tụng với
tư cách khác như người bảo vệ, người giám định, người phiên dịch, người làm chứng
trong cùng một vụ án. Về cơ quan thi hành án và chấp hành viên, dù không được pháp
luật quy định thuộc trong hợp không được làm người đại diện. Nhưng với tư cách là cơ
quan, cá nhân cho thi hành trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án thì họ cũng nên
đương nhiên không được làm người đại diện theo ủy quyền trừ trường hợp họ tham gia
tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại
diện theo pháp luật.
+ Đối với chủ thể được ủy quyền là pháp nhân thì chủ thể này phải tuân thủ các
quy định của pháp luật. Đó là, nếu pháp nhân được ủy quyền tham gia TTDS là công
ty trách nhiệm hữu hạn thì căn cứ vào điều lệ của công ty, giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp để xác định người đại diện theo pháp luật nhân danh công ty thực hiện
việc đại diện theo ủy quyền nếu công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật. Nếu
pháp nhân được ủy quyền tham gia TTDS là công ty hợp danh thì các thành viên trong
công ty hợp danh đều có thể nhân danh công ty thực hiện việc đại diện theo ủy quyền.
Nếu pháp nhân được ủy quyền tham gia TTDS là cơ quan thì người đại diện theo pháp
luật của cơ quan sẽ thay mặt cơ quan đó thực hiện việc đại diện theo ủy quyền.
11
Tuy nhiên, trong trường hợp nếu người đại diện theo pháp luật của pháp nhân vì
lý do nào đó không thể tham gia tố tụng tại Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ
TTDS của người được đại diện trong phạm vi ủy quyền thì người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân có được ủy quyền cho người khác không? Nếu được thì việc ủy
quyền lại này có bắt buộc phải có sự đồng ý của người được đại diện?
Về vấn đề này có nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền lại cho người khác nhưng phải có sự
đồng ý của người được ủy quyền. Cách hiểu thứ hai, việc người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân ủy quyền lại hay giao cho một người khác thực hiện là công việc
nội bộ của pháp nhân, không cần có sự đồng ý của người được đại diện.
Thiết nghĩ, việc đương sự được ủy quyền tham gia TTDS cho pháp nhân nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một cách nhanh chóng, thuận lợi và
hiệu quả, bởi vì pháp nhân sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm thực hiện công việc
ủy quyền. Về nguyên tắc, khi pháp nhân thực hiện việc đại diện theo ủy quyền trong
TTDS thì người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh pháp nhân thực hiện việc tham
gia TTDS tại Tòa án thay cho người được đại diện. Do đó, nếu người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân không thể thực hiện được việc đại diện theo ủy quyền trong
TTDS thì pháp nhân phải có trách nhiệm thực hiện việc đại diện theo ủy quyền trong
TTDS thông qua người đại diện theo ủy quyền hoặc các thành viên khác của pháp
nhân. Tuy nhiên, ủy quyền này là ủy quyền trong nội bộ của pháp nhân để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của pháp nhân nên không nhất thiết việc ủy quyền này phải có sự
đồng ý của người được đại diện.
Thứ hai, khách thể của quan hệ ủy quyền trong TTDS. Khách thể của quan hệ
pháp luật nói chung là một phạm trù pháp lý, là bộ phận cấu thành của quan hệ pháp
luật. Đó là cái mà các chủ thể của quan hệ pháp luật hướng tới, tác động vào. Quan hệ
ủy quyền trong TTDS có khách thể là hành vi của người đại diện theo ủy quyền thực
hiện, mà kết quả của nó không được thể hiện dưới dạng vật chất. Muốn xem xét hành
vi đó có được thực hiện đúng hay không phải căn cứ vào chính việc thực hiện hành vi
đó: khách thể là việc phải tham gia tố tụng thay mặt người được đại diện thì hành vi
tương ứng phải là tham gia tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tương ứng với địa
vị tố tụng của người được đại diện. Chính vì đánh giá mang tính định tính gây khó
khăn cho việc tính toán thù lao (nếu có) cho người đại diện theo ủy quyền. Trên thực
tế, tiền thù lao (nếu có) sẽ được định trước bởi những người đại diện theo ủy quyền là
Luật sư hoặc nhân viên của Công ty hoặc Văn phòng Luật, người được đại diện có
nghĩa vụ thanh toán khi kết thúc giai đoạn tố tụng: giai đoạn sơ thẩm, giai đoạn phúc
12
thẩm, không phụ thuộc vào kết quả giải quyết vụ án dân sự.
Thứ ba, nội dung của quan hệ ủy quyền trong TTDS là quyền và nghĩa vụ pháp
lý giữa các chủ thể. Theo đó, người đại diện theo ủy quyền có quyền yêu cầu người
được đại diện cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện nhằm thực hiện công việc ủy
quyền; có thể ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được người được đại diện cho phép
hoặc pháp luật có quy định; có quyền được hưởng thù lao, nếu có thỏa thuận; được
thanh toán chi phí khác. Người đại diện theo ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện việc tham
gia TTDS trong phạm vi ủy quyền như đã thỏa thuận; phải thông báo kết quả giải
quyết công việc và giấy tờ, phương tiện đã nhận từ người được đại diện; phải trả thù
lao cùng các chi phí khác theo thỏa thuận; chịu trách nhiệm pháp lý khi vượt quá hoặc
không thực hiện đúng thỏa thuận. Việc chịu trách nhiệm pháp lý sẽ giải quyết vấn đề
khi người đại diện theo ủy quyền thỏa thuận với đương sự có lợi ích đối lập, sử dụng
những quyền và nghĩa vụ được trao làm vụ án chuyển biến theo chiều hướng không
như mong muốn của người được đại diện.
Người được đại diện có quyền đôn đốc, giám sát việc thực hiện công việc của
người đại diện theo ủy quyền và có nghĩa vụ trả thù lao, chi phí khác theo thỏa thuận;
được bồi thường nếu bên được ủy quyền vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Như vậy, có thể định nghĩa: Ủy quyền trong TTDS là một quan hệ pháp luật mà
trong đó quan hệ giữa người được đại diện và người đại diện theo ủy quyền được các
quy phạm pháp luật điều chỉnh, theo đó các bên tham gia phải đáp ứng được những
điều kiện do pháp luật quy định, có những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm theo thỏa
thuận và quy định của pháp luật để người đại diện có nghĩa vụ thực hiện việc tham gia
TTDS tại Tòa án nhân danh người được đại điện trong phạm vi ủy quyền nhằm bảo để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trước Tòa án.
* Ủy quyền trong TTDS dưới góc độ là một hợp đồng
Bên cạnh hành vi pháp lý đơn phương và giao dịch dân sự có điều kiện, hợp
đồng là một trong những giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều
bên làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Ủy quyền trong TTDS
có đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dân sự. Hay nói cách khác hợp đồng ủy quyền
trong TTDS bao gồm các điều khoản của một hợp đồng dân sự. Cụ thể:
- Về chủ thể: Hợp đồng ủy quyền trong TTDS có sự tham gia của người được đại
diện và người đại diện theo ủy quyền. Các chủ thể này có thể là cá nhân, pháp nhân có
năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và NLHVTTDS) và những điều kiện nhất định
như đã phân tích ở trên. Hợp đồng dân sự không giới hạn số lượng chủ thể tham gia
vào một bên trong hợp đồng, hợp đồng ủy quyền trong TTDS cũng cho phép bên ủy
13
quyền hoặc và bên được ủy quyền là một hoặc nhiều người.
- Về đối tượng: Trên cơ sở hợp đồng ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền có
nghĩa vụ thực hiện việc tham gia tố tụng tại Tòa án trong phạm vi ủy quyền thay cho
người được đại diện. Việc thỏa thuận ủy quyền tham gia TTDS tại Tòa án không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Như vậy, sẽ không có
đối tượng của hợp đồng ủy quyền trong TTDS là: tham gia tố tụng trong vụ án hôn
nhân và gia đình (trừ trường hợp: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”(10)); tham gia tố
tụng cho hai đương sự mà họ có quyền, lợi ích đối lập …
- Về thời hạn: cũng như các hợp đồng dân sự khác, thời hạn trong hợp đồng ủy
quyền tham gia TTDS cũng rất đa dạng, tuy nhiên có thể phân loại thành hai dạng cơ
bản: theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận của các bên. Thời hạn ủy quyền
trong TTDS được bắt đầu là sự kết hợp của hai điều kiện: điều kiện cần là khi các
đương sự cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Khi đó, các bên
đương sự mới có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền, nghĩa vụ đại diện
cho mình; điều kiện đủ là các bên phải giao kết hợp đồng ủy quyền với nhau.
Hợp đồng ủy quyền thông thường, về nguyên tắc, sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm
giao kết. Đó là, khi các bên phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã được xác định từ
hợp đồng ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền trong TTDS phải được lập thành văn bản.
Tức là, nếu là văn bản thường, hợp đồng ủy quyền trong TTDS sẽ có hiệu lực tại thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản hợp đồng; nếu là văn bản có chứng nhận, chứng
thực, đăng ký hoặc xin phép sẽ có hiệu lực tại thời điểm văn bản hợp đồng được chứng
nhận, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép. Như đã đề cập, nếu chỉ có điều kiện này thì
hợp đồng ủy quyền trong TTDS chưa thể phát sinh hiệu lực do đối tượng của hợp
đồng chưa tồn tại. Nên cần thiết phải có sự kiện đương sự cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm, sau đó các bên mới có thể ký kết hợp đồng ủy quyền
với đối tượng là đại diện tham gia TTDS tại Tòa án.
Ngoài ra, nếu các bên không thỏa thuận thì theo quy định của pháp luật thời hạn
ủy quyền được tính đến thời điểm Tòa án giải quyết xong VADS (bản án, quyết định
của Tòa án giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật).
10 Khoản 2 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
14
- Về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên: khi các bên ký kết hợp đồng thì
người được đại diện và người đại diện theo ủy quyền có thể thỏa thuận về quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên như đã phân tích ở trên.
- Về phạm vi ủy quyền: người ủy quyền có thể ủy quyền toàn bộ việc tham gia
TTDS tại Tòa án hoặc có thể ủy quyền một phần việc tham gia TTDS tại Tòa án như
ủy quyền khởi kiện VADS, ủy quyền tham gia hòa giải, ủy quyền tham gia tranh tụng
tại phiên tòa…
- Về căn cứ chấm dứt: Theo quy định của pháp luật hợp đồng ủy quyền chấm dứt
theo thỏa thuận; thời hạn ủy quyền đã hết; công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
người được đại diện hoặc người đại diện theo ủy quyền đơn phương chấm dứt thực
hiện việc ủy quyền; Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được
đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại; Người đại diện mất năng lực
hành vi dân sự; Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
Hợp đồng ủy quyền có thể là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù. Nếu
người đại diện theo ủy quyền nhận thù lao thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có đền
bù. Nếu người đại diện theo ủy quyền không nhận thù lao mà thực hiện công việc ủy
quyền mang tính chất giúp đỡ, tương trợ người được đại diện thì đó là hợp đồng không
có đền bù.
Như vậy, hợp đồng ủy quyền trong TTDS chỉ phát sinh hiệu lực khi đảm bảo các
điều kiện sau đây:
- Chủ thể có năng lực pháp luật và năng lực hành vi TTDS phù hợp với việc đại
diện theo ủy quyền trong TTDS, theo đó các chủ thể phải đáp ứng các điều kiện như đã
phân tích;
- Chủ thể tham gia hợp đồng ủy quyền hoàn toàn phải xuất phát từ ý chí tự
nguyện: ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của mỗi con người mà
nội dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ.
Ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài dười một hình thức nhất định để các chủ thể
khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một giao dịch
dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí(11). Việc ủy quyền có dấu hiệu của việc lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, xác lập trong
tình trạng người được đại diện không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình,
nhầm lẫn hay giả tạo đều là biểu hiện của việc không thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí, sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu có yêu cầu;
11 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật dân sự, Nxb CAND, Hà Nội, tr. 138.
15
- Mục đích và nội dung ủy quyền tham gia TTDS tại Tòa án không vi phạm điều
cấm pháp luật và không trái đại đức xã hội: Mục đích của giao dịch ủy quyền là người
đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng, thực hiện một hoặc một số quyền và nghĩa vụ
tố tụng thay mặt người được đại diện. Mục đích đạt được kể từ khi người đại diện theo
ủy quyền tham gia tố tụng, thực hiện các quyền trong phạm vi được ủy quyền. Nếu
việc tham gia tố tụng, thực hiện các quyền của người đại diện theo ủy quyền bị gián
đoạn thì không được coi là mục đích đã đạt được. Vì khi giao kết hợp đồng, người
được đại diện luôn mong muốn người đại diện theo ủy quyền hoàn hành việc tham gia
tố tụng, tức là cho đến khi phiên tòa kết thúc hoặc khi bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật.
- Hình thức ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án bằng văn bản: đây là căn cứ để
Tòa án, Hội đồng xét xử xem xét về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy
quyền khi tham gia tố tụng dân sự.
Qua việc phân tích trên có thể hiểu: Hợp đồng ủy quyền trong TTDS là sự tự
nguyện thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện việc
tham gia TTDS tại Tòa án nhân danh bên ủy quyền trong phạm vi nội dung văn bản ủy
quyền trên cơ sở không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên ủy quyền trước Tòa án.
* Ủy quyền trong TTDS là một chế định pháp luật
Theo lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, “Chế định pháp luật là một tập
hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính chất
giống nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau”(12). Chế định pháp luật mang tính
chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại
thống nhất với nhau, chúng không tồn tại biệt lập. Tính chất chung của mỗi nhóm quan
hệ xã hội đòi hỏi phải có nhóm quy phạm pháp luật tương ứng để điều chỉnh vì thế mà
hình thành nên chế định pháp luật. Việc xác định đúng tính chất nhóm của quan hệ xã
hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành chế định pháp luật. Chế định
ủy quyền trong TTDS mang những đặc điểm chung của chế định pháp luật nhưng
đồng thời nó cũng có những đặc điểm riêng để phân biệt với các chế định khác. Cụ
thể:
- Chế định ủy quyền trong TTDS bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ phát sinh khi người đại diện theo ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện việc tham
12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, xb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 117.
16
gia TTDS tại Tòa án nhân danh người được đại diện trong phạm vi ủy quyền để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trước Tòa án.
Khi quan hệ ủy quyền trong TTDS được xác lập, không chỉ làm phát sinh quan
hệ giữa người được đại diện và người đại diện theo ủy quyền mà còn phát sinh quan hệ
giữa người đại diện theo ủy quyền với các chủ thể khác trong TTDS: cơ quan, người
tiến hành TTDS, đương sự khác và người tham gia TTDS khác.
Trong quan hệ giữa người đại diện theo ủy quyền với các chủ thể khác trong
TTDS thì người đại diện theo ủy quyền được thay mặt đương sự, người đại diện theo
pháp luật của đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự theo sự ủy quyền của đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự.
Hay nói cách khác, trong quan hệ với những chủ thể khác trong TTDS, người đại diện
theo ủy quyền có thể hoàn toàn như một đương sự mà họ đại diện và có toàn bộ quyền
và nghĩa vụ TTDS của đương sự mà họ đại diện hoặc họ chỉ được đại diện thực hiện
một phần quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Điều này
khác với đại diện theo pháp luật, họ được thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của người
được đại diện trong phạm vi mà mình đại diện. Vì vậy, dù những quan hệ phát sinh là
cố định nhưng nội dung quan hệ thay đổi theo từng trường hợp ủy quyền cụ thể. Vì
vậy, việc xác định quyền và nghĩa vụ TTDS của người đại diện theo ủy quyền sẽ phải
dựa vào giới hạn quyền, nghĩa vụ người được đại diện. Ví dụ: người đại diện theo ủy
quyền không được ủy quyền thỏa thuận với các đương sự khác về việc giải quyết vụ
án thì mặc dù quan hệ với các chủ thể khác vẫn tồn tại nhưng trừ phần quyền tự thỏa
thuận.
- Nội dung của chế định ủy quyền trong TTDS quy định về những vấn đề pháp lý
liên quan đến ủy quyền trong TTDS như chủ thể ủy quyền, chủ thể được ủy quyền và
các điều kiện đối với các chủ thể khi ủy quyền và khi được ủy quyền; phạm vi ủy
quyền; hình thức ủy quyền; thời hạn ủy quyền; thủ tục ủy quyền; căn cứ phát sinh và
chấm dứt đại diện theo ủy quyền; những trường hợp không được ủy quyền; quyền và
nghĩa vụ của người ủy quyền và người được ủy quyền; hậu quả pháp lý do người
không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện.
Như vậy, chế định ủy quyền trong TTDS là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ giữa người đại diện theo ủy quyền, người được đại diện, cơ quan,
người tiến hành tố tụng, đương sự khác và người tham gia tố tụng khác với nhau khi
quan hệ ủy quyền trong TTDS được xác lập nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người được đại diện trước Tòa án.
17
1.1.2. Đặc điểm ủy quyền trong tố tụng dân sự
- Việc ủy quyền trong TTDS dựa trên sự thỏa thuận của người được đại diện và
người đại diện theo ủy quyền.
Ủy quyền trong TTDS là một nhánh của ủy quyền nói chung được pháp luật dân
sự quy định. Nên ủy quyền trong TTDS cũng tuân theo những nguyên tắc chung của
luật dân sự là tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong việc thiết lập và thực hiện các
quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình
mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành quan hệ ủy quyền. Do
đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì người được đại diện mới
có thể giao quyền, nghĩa vụ TTDS của mình cho người đại diện và người đại diện theo
ủy quyền mới có thể nhận và thực hiện. Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình thành ủy
quyền trong TTDS phải là sự thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên.
Tuy nhiên, sự thỏa thuận ý chí, đặc biệt là trong TTDS chỉ có hiệu lực pháp luật
khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Lợi ích của các bên trong một
quan hệ dân sự được đặt lên hàng đầu, mặt khác cần xem xét đến lợi ích của người
khác, lợi ích chung của xã hội, trật tự công cộng và lợi ích của Nhà nước. Bởi vì con
người trong một xã hội là tổng hòa của các mối quan hệ: với người thân trong gia đình,
bạn bè, cộng đồng … Nếu sự tự thỏa thuận là vô hạn thì sẽ có nguy cơ trở thành
phương tiện để bóc lột, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật … Như vậy, sự can
thiệp của nhà nước vào quan hệ ủy quyền trong TTDS là cần thiết. Nhưng Nhà nước
không tham gia vào sự thỏa thuận mà chỉ đưa ra những nguyên tắc chung, khung pháp
lý để các bên buộc phải thỏa thuận phù hợp với lợi ích của người khác, lợi ích chung
của xã hội, của Nhà nước; buộc các bên phải thực hiện theo đúng nội dung mà họ đã
thỏa thuận.
- Ủy quyền trong TTDS làm phát sinh việc người đại diện theo ủy quyền có các
quyền và nghĩa vụ TTDS của người được đại diện trong phạm vi ủy quyền
“Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh
và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là người được đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”(13). Đại diện
có thể được phân loại thành: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, trong
đại diện theo ủy quyền có đại diện theo ủy quyền trong TTDS. Đại diện theo pháp luật
là trường hợp phát sinh trên cơ sở quyết định của Tòa án, theo điều lệ của pháp nhân
hoặc theo quy định của pháp luật nên phạm vi đại diện, quyền và nghĩa vụ của các bên
13 Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 hoặc Khoản 1 Điều 139 BLDS năm 2005
18
do Tòa án quyết định, theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của pháp nhân.
Còn theo ủy quyền, quan hệ được xác lập theo ý chí của hai bên mà biểu hiện ra bên
ngoài bằng một hợp đồng ủy quyền hoặc một giấy ủy quyền. Hai bên tự thỏa thuận về
nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo
ủy quyền. Trong TTDS, các bên trng quan hệ ủy quyền sẽ thỏa thuận về việc người đại
diện nhân danh, vì lợi ích của người được đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án. Theo
đó, người được đại diện có thể ủy quyền toàn bộ hoặc một phần quyền và nghĩa vụ
TTDS của mình cho người đại diện. Như vậy, người đại diện theo ủy quyền chỉ được
thực hiện quyền, nghĩa vụ của người được đại diện trong phạm vi thỏa thuận.
Trên thực tế, không phải trong bất cứ trường hợp nào khi thay mặt người được
đại diện tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền cũng có thể thực hiện quyền,
nghĩa vụ TTDS dù đã được thỏa thuận. Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện
hay tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án… ý kiến của người được đại diện
là đương sự “gốc” được đặt lên hàng đầu, ý kiến của người đại diện theo ủy quyền
phải được kiểm chứng, xác nhận bởi người được đại diện. Lý giải cho việc pháp luật
không cấm nhưng bị hạn chế thực hiện là để bảo vệ cho lợi ích hợp pháp của đương
sự, đương sự phải là người tự quyết định chứ không phải thông qua một người khác,
tránh rủi ro cho phán quyết của Tòa án trong trường hợp ý kiến của người đại diện
theo ủy quyền và người được đại diện không đồng nhất.
- Ủy quyền trong TTDS làm phát sinh việc người được đại diện có thể không trực
tiếp tham gia TTDS nhưng tiếp nhận trực tiếp kết quả của quá trình tố tụng.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc
cơ bản của luật TTDS. Để thực hiện được nguyên tắc này Tòa án phải tạo điều kiện
tham gia tố tụng tối đa cho đương sự: hướng dẫn, giải thích để đương sự biết, hiểu và
thực hiện cho đúng. Về phía đương sự phải tự mình tích cực đến Tòa án đúng thời
gian, địa điểm theo giấy triệu tập; thực hiện quyền khởi kiện song song với cung cấp
chứng cứ chứng minh, nộp tạm ứng lệ phí, án phí Tòa án; tham gia các phiên hòa giải;
tham gia phiên tòa; nêu quan điểm, ý kiến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp … Vì rất
nhiều lý do khách quan, chủ quan khác nhau, đương sự có thể gặp khó khăn trong việc
tự mình tham gia tố tụng mặc dù ý chí của họ mong muốn vụ án được giải quyết nhanh
chóng, khách quan, đúng thời hạn. Những trường hợp như vậy là rất phổ biến, việc cho
phép đương sự được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng là giải pháp tạo điều
kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác là đương sự trong TTDS tham gia
vào hoạt động tố tụng một cách thuận lợi. Qua ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền
sẽ tham gia một phần hoặc toàn bộ quá trình tố tụng thay mặt người được đại diện.
19
Quyền, nghĩa vụ TTDS được người được đại diện thực hiện gián tiếp thông qua người
đại diện theo ủy quyền, hiệu lực của việc thực hiện tương đương với thực hiện trực
tiếp.
Như vậy, người đại diện theo ủy quyền như một cầu nối trung gian của người
được đại diện nhưng cầu nối này không phải chịu tác động từ bản án, quyết định của
Tòa án (trừ trường hợp họ cũng là một bên đương sự). Vì như đã đề cập, quan hệ ủy
quyền được xác lập sẽ làm phát sinh quan hệ giữa người đại diện theo ủy quyền với
người được đại diện, với người tiến hành tố tụng, với đương sự khác và với người
tham gia tố tụng khác. Trừ quan hệ với người được đại diện, người đại diện luôn nhân
danh và vì lợi ích của người được đại diện chứ không phải nhân danh họ trong các mối
quan hệ khác. Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật sẽ tác động vào
đối tượng là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền, lợi ích liên quan chứ không bao
gồm người đại diện theo ủy quyền.
Trong trường hợp người đại diện theo ủy quyền là một bên đương sự, họ cũng
phải nhận kết quả trực tiếp từ hoạt động tố tụng. Trước hết, quan hệ này cần thỏa mãn
điều kiện quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong cùng một vụ án không đối lập nhau, vì
nếu họ thay mặt người khác thỏa thuận với chính mình để giải quyết vụ án thì nguyên
tắc cơ bản về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự bị vi phạm. Sau đó, cần
tách biệt hai mối quan hệ, trong khi nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện,
người đại diện theo ủy quyền là một bên đương sự vẫn tham gia tố tụng nhân danh và
vì lợi ích của chính mình. Như vậy, đối với phần quyết định, phán quyết tác động đến
chính họ, họ vẫn phải thực hiện; còn đối với phần tác động đến người mà họ nhận ủy
quyền thì người được đại diện sẽ phải thực hiện.
1.1.3. Ý nghĩa của ủy quyền trong tố tụng dân sự
1.1.3.1. Ý nghĩa về chính trị - xã hội
Thứ nhất, ủy quyền trong TTDS là thực hiện chức năng trợ giúp xã hội
Ủy quyền trong TTDS là quy định nhằm bảo đảm quyền con người, bảo đảm sự
bình đẳng của công dân trước pháp luật. Qua đó, đương sự có nhiều hơn một phương
thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khi tham gia TTDS. Không thể phủ nhận ủy
quyền trong TTDS được thực hiện dựa trên sự chủ động của bên được đại diện là
đương sự trong VADS, ở khía cạnh nào đó ủy quyền trong TTDS là quan hệ pháp luật
dân sự có tính đền bù do người đại diện theo ủy quyền có thể nhận được thù lao sau
khi thực hiện công việc từ người được đại diện. Nhưng dù là có sự thỏa thuận giữa các
bên trong quan hệ pháp luật, có thể có thù lao nhưng không thể phủ nhận chức năng
trợ giúp xã hội. Sự trợ giúp thể hiện những khía cạnh khác nhau: Một là, người đại
20
diện thường là người am hiểu còn người được đại diện không biết hoặc hiểu không rõ
về pháp luật, đặc biệt là pháp luật về TTDS; Hai là, người được đại diện có thể không
tham gia tố tụng, không phải do không am hiểu pháp luật mà do những lý do khách
quan, chủ quan khác mà không thể tự mình tham gia tố tụng; Ba là, dù là có thù lao thì
việc được thay mặt tham gia tố tụng đã giúp ích rất nhiều cho những người được đại
diện “e ngại” tham gia tố tụng.
Thứ hai, ủy quyền trong TTDS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người
dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật TTDS nói riêng.
Để hiểu và áp dụng các quy định pháp luật nói chung và TTDS nói riêng cần có
thời gian học tập, nghiên cứu và thực hành. Đa phần các đương sự, nếu không có khái
niệm cơ bản về TTDS thì đều hiểu hoạt động này như thủ tục hành chính mà Tòa án là
cơ quan hành chính nhà nước, Thẩm phán và thư ký Tòa án là những người ra mệnh
lệnh, còn đương sự phải tuân thủ; không biết địa vị tố tụng cũng như quyền và nghĩa
vụ của họ đến đâu. Đây là một trong những nguyên nhân khiến quá trình giải quyết vụ
án gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời gian tố tụng. Nếu đương sự ủy quyền cho một cá
nhân, pháp nhân am hiểu pháp luật sẽ có tác động tích cực do họ vận dụng có hiệu quả
những quyền, nghĩa vụ của đương sự, chủ động thu thập tài liệu, chứng cứ, đưa ra
những yêu cầu phù hợp với quy định của pháp luật, hợp tác với Tòa án khi được yêu
cầu ... Khi thực hiện những hoạt động trên, người đại diện theo ủy quyền luôn có trao
đổi với người được đại diện, tác động làm người đó biết được phần nào quyền, nghĩa
vụ của họ trong TTDS. Khi họ tự tham gia tố tụng ở giai đoạn sau hay trong vụ án
khác, họ sẽ vận dụng lại những hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình. Qua đó nâng
cao ý thức pháp luật của những đương sự trong TTDS và của người dân nói chung.
1.1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
- Thứ nhất, ủy quyền trong TTDS góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Mục đích của TTDS là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức và lợi ích của nhà nước. Muốn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình
thì đương sự phải tham gia tố tụng trước Tòa án hay nói cách khác là phải thực hiện
các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình thì mới bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mặc dù đương sự, người đại diện theo pháp luật
của đương sự là người có NLHVTTDS, có thể tự mình tham gia tố tụng trước Tòa án
nhưng do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế hoặc vì một lý do khách quan, chủ
quan nào đó mà không tham gia tố tụng được khi đó đương sự, người đại diện theo
pháp luật sẽ ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích cho
- Xem thêm -