Ứng dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn Địa lý ở trường THPT”.
1
MỤC LỤ
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................3
B. NỘI DUNG.....................................................................................................................6
Chương I. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC........................................6
1. Vật chất.......................................................................................................................6
1.1. Định nghĩa vật chất..............................................................................................6
1.2. Các đặc tính của vật chất..............................................................................6
1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của
vật chất.........................................................................................................................6
1.2.2. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.................7
1.2.3.
Tính thống nhất vật chất của thế giới........................................................9
2. Ý thức.........................................................................................................................9
2.1.
Kết cấu của ý thức.............................................................................................9
2.2. Nguồn gốc của ý thức.......................................................................................10
2.2.1.
Nguồn gốc tự nhiên..................................................................................10
2.2.2.
Nguồn gốc xã hội.....................................................................................10
2.2.3. Bản chất của ý thức....................................................................................13
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức..................................................................14
3.1. Vai trò quyết định của vật chất với ý thức......................................................14
3.2.Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất......................................................15
3.3.Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức….
…………………………………………………………………16
2
Chương 2. ỨNG DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC VÀO VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BỘ MÔN ĐỊA LÝ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG........................................................................17
1. Thực tế khách quan quyết định phương pháp dạy học.........................................17
1.1.
Mối quan hệ vật chất và ý thức trong hoạt động dạy học..............................17
1.2.
Nhân tố ý thức trong hoạt động dạy học........................................................19
1.3.
Vai trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong lịch sử
dạy học Địa ở nhà trường nước ta............................................................................19
1.4.
Ý thức có sự tác động trở lại...........................................................................22
Chương III. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÝ
Ở TRƯỜNG THPT..........................................................................................................23
1. NHÂN TỐ VẬT CHẤT........................................................................................24
1.1.
Thực tế khách quan.........................................................................................24
1.1.1.
Điều kiện kinh tế - xã hội của trường THPT Ngô Gia Tự......................24
1.1.2.
Trình độ, đặc điểm tâm sinh lý học sinh của trường...............................24
1.2.
Quy luật khách quan.......................................................................................25
1.3.
Nhân tố ý thức.................................................................................................25
1.3.1.
Mục tiêu và nội dung dạy học môn Địa lý..............................................19
1.3.2.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Địa lý ở trường THPT
Ngô Gia Tự............................................................................................................20
1.3.2.1. Phương pháp giảng dạy truyền thống và sử dụng thiết bị...................20
1.3.2.2. Phương pháp tích cực...........................................................................20
1.3.2.3. Phương pháp dạy học theo nhóm.........................................................21
KẾT LUẬN.........................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................23
3
1.
A. LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đào tạo con người luôn là chiến lược quan trọng nhất để phát triển đất nước,
hiện nay chúng ta đang sống trong thời kì đất nước hội nhập, với rất nhiều cơ hội cũng
như vô vàn thách thức đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và các ban ngành đoàn thể. Đối
với ngành giáo dục, vấn đề càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ, giáo
dục Việt Nam lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề: phải nhanh chóng vươn lên, đáp ứng
những yêu cầu đó của xã hội. Bởi theo xu thế thời đại, trong đà tiến của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, với sự hình thành nền kinh tế tri thức giáo dục chính là
một lực lượng sản xuất góp phần thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển. Con
người do nhà trường đào tạo ra phải đảm đương nhiệm vụ của người lao động tự chủ,
có trình độ khoa học kĩ thuật và nhiệt tình cống hiến để đưa đất nước tiến nhanh trên
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội
dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) nói
chung, trong đó có đổi mới PPDH môn Địa lý luôn được các nhà khoa học giáo dục
đầu ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói, đây là
một bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy, vấn đề này đã được Đảng,
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Việc đổi mới phương pháp trong dạy học nói chung, trong dạy môn Địa lý ở
trường THPT nói riêng là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên đổi mới thế nào cho phù hợp
và đạt hiệu quả cao lại là một bài toán không hề dễ đặt ra cho ngành Giáo dục nói
chung và cho những giáo viên phụ trách bộ môn Địa lý ở trường THPT nói riêng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chế độ nào, nhà trường ấy”1.Đổi mới, không có nghĩa là
thấy những nước phát triển họ đổi mới có hiệu quả là ta bắt chước làm theo “thấy
người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào” mà không chú ý đến tình hình thực tế
của nước nhà, trường nhà. Cụ thể hơn, muốn đổi mới phương pháp giảng dạy cần chú
1Nguyễn Đức Ân, luận án phó tiến sĩ “Giảng văn ở trường Phổ thông trung học (lịch sử và triển vọng)”, 1995
4
ý đến cơ sở vật chất, ý thức dạy và học của thầy và trò, tiềm năng của nhà trường, xã
hội...
Khi tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong bộ môn
Triết học, bản thân nhận thấy ngành Giáo dục chúng ta nên định hướng, tập huấn cho
quí thầy cô ở các vùng, miền cụ thể khác nhau trên mọi miền tổ quốc hiểu và quán
triệt tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học nói chung và phương pháp dạy và học
bộ môn Địa lý ở nhà trường THPT nói riêng sao cho phù hợp với điều kiện khách
quan của từng trường. Xuất phát từ mong muốn này, bản thân xin đi vào nghiên cứu
đề tài: “Ứng dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào việc đổi mới
phương pháp giảng dạy bộ môn Địa lý ở trường THPT”.
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình tìm hiểu bản thân tìm được tài liệu:
Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, liên hệ với việc học
tập của sinh viên hiện nay"2. Tiểu luận đã chỉ ra được mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó vận dụng vào việc học tập của sinh viên hiện nay và đưa ra một số giải
pháp cho việc học tập của sinh viên.
Bùi Minh Khánh,“Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất – ý thức và ý nghĩa của
nó đối với nước ta hiện nay”3.Bài viết đã nhấn mạnh mối quan hệ và sự tác động qua
lại giữa vật chất - ý thức. Từ đó đưa ra những ví dụ cụ thể của Đảng, nhà nước ta
trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc dành
độc lập tự do và đi lên xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
“Tổ chức dạy học hợp tác (Cooperrative learning)” của PGS.Ts Nguyễn Thị
Hồng Nam. Tài liệu hướng dẫn khá chi tiết, cụ thể về cách thức tổ chức dạy học hợp
tác.
Bài viết: “Dạy học theo nhóm nhỏ - lí luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Thị
Kim Dung, Trung tâm Giáo dục học – Viện NCSP. Bài viết nêu rõ ưu – khuyết điểm,
cách thức tổ chức và hoạt động nhóm.
2 doc.org/document/142375-moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-va-y-thuc-lien-he-voi-viec-hoc-tap-cuasinh-vien.htm
3 http://kenhsinhvien.vn/topic/moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-y-thuc-va-y-nghia-cua-no-doi-voi-nuocta-hien-nay.376578/
5
Ngoài ra, bản thân còn tìm đọc được một số bài viết có liên quan trên các trang
mạng. Tuy nhiên, dường như tất cả những bài viết bản thân nêu trên, các tác giả đưa ra
những đề xuất, phương pháp giảng dạy mà không hề chú ý đến điều kiện, cơ sở vật
chất của nhà trường khi ứng dụng những phương pháp dạy học đó vào giảng dạy cụ
thể.
3.
Phạm vi nghiên cứu
Do bản thân còn nhiều hạn chế về mọi mặt khách quan và chủ quan nên bài
viết chỉ xin đi vào làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó vận
dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, kết hợp với kinh nghiệm thực tế khi đi thực
tập đề ra một số phương pháp giảng dạy bộ môn Địa lý ở nhà trường THPT.
4.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.
Mục đích nghiên cứu
Bài viết có thể là tư liệu để quý thầy cô gần xa có thể ứng dụng vào việc giảng
dạy bộ môn Địa lý ở trường THPT nói riêng, ứng dụng vào việc đổi mới phương pháp
dạy học nói chung.
4.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài viết mong muốn làm sáng tỏ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó đề
ra một số những vận dụng cụ thể vào việc giảng dạy bộ môn Địa lý ở trường THPT.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng phối hợp các phương pháp,
trong đó có các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp thu thập tư liệu, thông tin từ giáo trình bài giảng là chính. Ngoài
ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp khái quát hóa,… để sắp
xếp thành một đề tài hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, đề tài cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học liên quan đề làm phong phú và sâu sắc hơn.
6
A. NỘI DUNG
Chương I. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo Lênin định nghĩa:" Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giá ".
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên
ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại
khách quan. Vật chất không phải là lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó, trái
lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ thể, và do đó
các các đối tượng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để
gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết được, hiểu được và nắm bắt sự vật này.
Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để,
nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào các dạng
cụ thể của vật chất trong giới vi mô. Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy
nghĩ và hành động.
1.2. Các đặc tính của vật chất
1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật
chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến đổi nói
chung chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian. Ăngghen cho rằng vận
động là một phương thức tồn tại vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm tất cả
mọi sự thay đổi trong moi quá trình diễn ra trong vũ trụ. Vận động có 5 hình thức vận
động chính là cơ - hoá - lý - sinh - xã hội. Các hình thức vận động này có mối quan hệ
7
chặt chẽ với nhau, một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với
những hình thức vận động khác.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài vật
chất. Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó nó được bảo toàn
cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận
động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác
thay thế.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng, nhưng điều đó không loại
trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, không có nó thì không có sự
phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng.
1.2.2. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình thức
kết cấu, có độ dài ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của các
sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng còn thời gian phản ánh
thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một
trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của quá trình vật chất, tính tách
biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của các
sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động,
Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động. Không gian
và thời gian tồn tại khách quan, nó không phải bất biến, không thể đứng ngoài vật
chất, không có không gian trống rỗng, mà nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất
vận động.
1.2.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, còn duy vật
thì ngược lại. Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là những dạng cụ thể của
vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, lịch sử
8
phát triển và đều phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới vật chất, do đó
nó tồn tại vĩnh cửu, không do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó, không
có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi là chuyển hoá lẫn nhau, là
nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. Ý thức
2.1. Kết cấu của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC) khẳng định rằng ý
thức là đặc tính và là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con
người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng
qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức, tình
cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, vì sự
hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận
thức và cải biến giới tự nhiên.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà chủ nghĩa duy tâm coi nó là một thực
thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân mình, tự khẳng định
cái tôi riêng biệt tách rời xã hội. Trái lại CNDVBC tự ý thức là ý thức hướng về nhận
thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới
khách quan con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó là sự nhận thức
mình như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy có các hành vi đạo đức và vị
trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con
người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội
đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con người tự ý thức
bản thân.
2.2. Nguồn gốc của ý thức
2.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất
hiện con người và bộ óc. Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và
Trái Đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động
9
ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ não người.
Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não, bộ não là khí
quản của ý thức. Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn.
2.2.2. Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con người
dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp quan hệ xã hội.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự
nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con người. Nhờ nó mà con
người và xã hội loài người mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn
tại cơ bản đầu tiên của con người, đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người với
nhau trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh
nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu "cần phải nói với nhau một
cái gì". Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư
duy, với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư tưởng con người có khả năng biểu hiện thành
hiện thực trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động tới giác quan của con người và
gây ra cảm giác. Nhờ có nó mà con người có thể giao tiếp, trao đổi, truyền đạt kinh
nghiệm cho nhau, thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội, và ngược
lại.
2.2.3. Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản ánh,
sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài, là biểu thị nội dung
được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính của nó
quy định mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy khách quan làm tiền đề, bị nó quy
định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, trong hoạt động sáng tạo cải biến và
thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động
10
đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động
nguyên xi mà gắn liền với cải biến, quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá trình
xử lý thông tin.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời, không có
phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của sáng tạo.
Đó là mối quan hệ biện chứng giữa thu nhận xử lý thông tin, là sự thống nhất mặt
khách quan chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của con người.
Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Ý thức trước hết
là nhận thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở thế giới
khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội. Do đó ý thức xã
hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó. Ý
thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội, bản tính xã hội của ý thức
cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính
năng động chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức
trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
3.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1.
Vai trò quyết định của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con
người. Các Mác đã chỉ ra rằng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất đã được chuyển vào
bộ óc con người và được cải biến trong đó”.
Biểu hiện của mối quan hệ này trong đời sống xã hội là tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội (lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực tinh thần). Cụ thể là nhân tố vật
chất (điều kiện khách quan, quy luật khách quan) quyết định nhân tố tinh thần (tư
tưởng, đường lối, quan điểm, lý luận, đường lối chính sách, mục tiêu, phương pháp,
biện pháp, giải pháp,… ). Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau:
11
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: không có vật chất thì sẽ
không có ý thức (có thực mới vực được đạo, có bột mới gột nên hồ,…)
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: nội dung của ý thức mang tính
khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: bản chất sáng tạo và bản chất
xã hội của ý thức cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
3.2.
Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật
chất phát triển. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của các quá trình vật chất.
Tự bản thân ý thức không thể có sức mạnh để tác động vào vật chất mà phải
thông quan hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức quyết định sự thành công hay
thất bại của con người trong thực tiễn. Vì mọi hoạt động của con người, đặc biệt là
hoạt động thực tiễn, đều được diễn ra dưới sự chỉ đạo của ý thức.
3.3.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn
trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động, chủ quan, nghĩa là cấn phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức.
Thứ ba, chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ.
Thứ tư, khi giải thích bất kì một hiện tượng xã hội nào đều phải tính đến cả
những điều kiện vật chất lẫn những nhân tố tinh thần, phải tính đến cả những điều
kiện khách quan lẫn những nhân tố chủ quan, phải tính đến vật chất và ý thức.
12
Chương 2. ỨNG DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC VÀO VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BỘ MÔN ĐỊA
LÝ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.
Thực tế khách quan quyết định phương pháp dạy học
1.1.
Mối quan hệ vật chất và ý thức trong hoạt động dạy học
Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố vật chất là thực tế khách quan, quy luật khách
quan trong miền hoạt động của con người.
Thực tế khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số yếu tố cơ bản sau:
Điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương nơi diễn ra hoạt động dạy học; cơ sở vật chất,
trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy học; trình độ tâm sinh lý của học
sinh,…
Ở đây, người viết xin được tập trung làm rõ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ
dùng dạy học và trình độ tâm sinh lý của học sinh, bởi đây là những yếu tố có ảnh
hưởng quyết định hơn cả đến việc đổi mới, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
Cơ sở vật chất của trường học là tất cả các phương tiện vật chất được giáo viên
và học sinh sử dụng nhằm thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục, giảng dạy.
Khác với trước kia, nhà trường chỉ lấy việc dạy chữ làm mục đích chủ yếu, nhà trường
chỉ là một hệ thống phòng học. Ngày nay, mục đích đó đã thay đổi, tất yếu nhà trường
phải có một cấu trúc tương ứng. Trường lớp là bộ phận quan trọng của cơ sở vật chất
nhà trường, đó là tập hợp những tòa nhà, mặt bằng, không gian… nơi thực hiện quy
trình công nghệ của hoạt động giáo dục đào tạo.
Cái cốt lõi của cơ sở vật chất trường học chính là thiết bị dạy học. Nhận định về
thiết bị dạy học, V.P.Golov viết: “Phương tiện dạy học là một trong những điều kiện
quan trọng nhất để thực hiện nội dung giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh
trong quá trình dạy học”. Thiết bị dạy học là công cụ lao động của người giáo viên; là
công cụ nhận thức của học sinh như N.M.Sacmaep đã nói: “Đối với học sinh, thiết bị
dạy học là công cụ mà nhờ đó các em hiểu biết được thế giới xung quanh chúng”.
Chính vì vậy, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đổi mới giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới nội dung chương
13
trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc nâng
cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.
Quy luật khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số quy luật: quy luật
nhận thức, quy luật tâm lý, quy luật xã hội,…
Ta biết rằng, bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của
học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Lênin đã xác định con đường biện chứng
của nhận thức là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu
tượng lại đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận
thức hiện thực khách quan.” Đối với học sinh phổ thông, quá trình nhận thức có đặc
điểm riêng: Từ chỗ quan sát và tri giác trực tiếp để hình thành các biểu tượng và khái
niệm khoa học; học sinh tri giác các hình ảnh của các vật và các hiện tượng, lúc này
hiện tượng thực tiễn đã được trừu tượng hóa một bước, để thực hiện con đường này
cần trang bị cho nhà trường mô hình, bản đồ, tranh ảnh, các phương tiện nghe nhìn;
học sinh nhận thức được hiện thực xung quanh qua ngôn ngữ và kí hiệu, để thực hiện
con đường này cần có sách vở, báo chí, biểu đồ.
Những hiện tượng tâm lý về các mặt nhận thức như cảm giác, tri giác, biểu
tượng, ký ức, tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ, chú ý, về mặt tình cảm và xúc cảm, say
mê, xúc động, về mặt ý chí và hành động, kỹ năng kỹ xảo, lý tưởng, niềm tin… là
những hiện tượng tâm lý thường xuyên xảy ra trong quá trình dạy học. Những quy
luật tâm lý đóng vai trò quan trọng, cơ bản trong việc xây dựng các quy tắc về dạy
học, đặc biệt là phương pháp dạy và học.
Trong quá trình giáo dục, xảy ra những mối quan hệ xã hội như quan hệ giữa
thầy và trò, giữa trò và trò, giữa thầy và thầy, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể
này với tập thể kia. Các mối quan hệ đó chịu sự chi phối của những quy luật xã hội và
đương nhiên nó chi phối lại sự vận động quá trình giáo dục.
1.2.
Nhân tố ý thức trong hoạt động dạy học
Nhân tố ý thức trong hoạt động thực tiễn của con người là tri thức, tình cảm, ý
chí, lý tưởng của con người (chủ thể hoạt động). Trong hoạt động dạy học, nhân tố ý
14
thức bao gồm: mục tiêu của hoạt động dạy học; phương hướng, chủ trương của hoạt
động dạy học; phương pháp dạy học; cách thức tổ chức dạy học,…
1.3.
Vai trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong lịch sử dạy
học Địa lý ở nhà trường nước ta
Thực tế khách quan nói chung và cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nói riêng là một
trong những điều kiện quan trọng trong thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông..
Tuy nhiên trong lịch sử giáo dục nước ta, vấn đề cơ sở vật chất kĩ thuật của công
tác giáo dục, mặc dù là không thể thiếu nhưng chưa được xem là một trong những vấn
đề cơ bản, ngang hàng với những vấn đề mục tiêu, nội dung, phương pháp,… Sở dĩ
như vậy là vì từ thời xa xưa, hễ có thầy có trò và một ít giấy bút để viết là có thể tổ
chức được công việc giáo dục; nội dung và phương pháp giáo dục là ở thầy, còn chỗ
học có thể là trong nhà, ngoài sân, một mái chùa…Về sau, với sự phát triển của xã
hội, nhu cầu về cơ sở vật chất kĩ thuật cho công tác giáo dục tăng lên không ngừng.
Ngày nay, cơ sở vật chất kĩ thuật còn mở ra những khả năng đưa đến những thay đổi
lớn trong phương pháp giáo dục.
Bên cạnh đó, chúng ta đang sống trong thế giới tràn ngập thông tin, học sinh thời
nay dễ dàng tiếp cận với những nguồn tri thức mới, phong phú, ngoài trường học nên
đặc điểm tâm sinh lý cũng có nhiều thay đổi so với thế hệ học trò ngày trước. Điều
này cũng có tác động quan trọng đến việc đổi mới và lựa chọn phương pháp dạy học
thích hợp. Tất cả đó đều thể hiện rõ vai trò quyết định của nhân tố vật chất đến nhân tố
ý thức trong hoạt động dạy học.
Hiện nay, sự đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường THPT không còn mang
tính chất tự phát ở một số giáo viên có năng lực và tâm huyết với nghề mà đã trở
thành nghĩa vụ công dân của mọi thế hệ giáo viên. Mục tiêu của giáo dục nước ta là
“nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, luật giáo dục cũng
nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”.
15
Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở vật chất, trường lớp ở các địa phương
trong cả nước cũng có nhiều thay đổi khác trước, tuy nhiên vẫn còn tình trạng không
đồng đều giữa các địa phương nên việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lý nói riêng ở các địa phương cụ thể,
các trường cụ thể cũng khác nhau.
Bên cạnh đó, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT không thể không
chú trọng đến đặc điểm trí tuệ và lối sống của lứa tuổi học sinh từ 16 đến 18 này. Họ
là thế hệ thanh niên có hoài bão, được nuôi dưỡng và phát triển khá toàn diện về thể
chất và tinh thần. Thế hệ học sinh THPT có vốn văn hóa phong phú, có đầu óc phê
phán và biết gắn cuộc sống cá nhân với tương lai và xu thế phát triển của đất nước và
thời đại. Họ là những người trẻ tuổi có ý chí và muốn hòa mình vào thử thách. Đó là
những điều kiện tốt thuộc nhân tố “vật chất” để thực hiện việc đổi mới phương pháp
lên lớp của giáo viên tương thích với cách học của học sinh THPT.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng phương pháp dạy học Địa lý, chúng ta mắc
phải một số khó khăn hạn chế.
Một là, thực tế cơ sở vật chất của nhiều trường phổ thông hiện nay ở nước ta còn
nghèo nàn, thiếu thốn, không thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” với những máy
vi tính, Projector… rất hiện đại nhưng cũng rất tốn kém. Bên cạnh đó, thực tế sĩ số
lớp học bình quân ở các trường phổ thông ít gì cũng từ 35 đến 45 học sinh nên giáo
viên không thể tổ chức thuyết trình hay seminar theo yêu cầu của “phương pháp dạy
học mới” được. Giáo viên không thể nào kiểm soát nổi buổi thuyết trình hay seminar
với mấy chục học sinh một cách toàn diện và chu đáo (đó là chưa nói đến yêu cầu của
giáo viên phổ thông là phải tìm hiểu nhằm phân loại học sinh yếu, kém để từ đó có
phương án bồi dưỡng kèm cặp thêm cho các em).
Hai là, có một thực tế mà giáo viên dạy Địa lý ở phổ thông ai cũng sợ là nếu áp
dụng “phương pháp dạy học mới” sẽ bị “cháy giáo án” do áp lực thời gian và chương
trình dạy. Để tổ chức một buổi thuyết trình hay seminar theo yêu cầu đổi mới là dạy
học tương tác, lấy người học làm trung tâm, ngoài việc lớp học phải được trang bị đầy
đủ những thiết bị dạy học cần thiết (bàn ghế nhỏ, gọn dễ di chuyển, máy chiếu, máy vi
16
tính…) hay sĩ số học sinh vừa phải thì vấn đề thời gian là một trong những vấn đề cực
kì quan trọng. Thế nhưng, thực tế thì thời lượng phân bổ cho chương trình dạy Địa ở
phổ thông đã được Bộ Giáo dục quy định rất rõ ràng nên nếu áp dụng theo “phương
pháp dạy học mới” người dạy sẽ không thể theo đúng theo tiến độ.
Ba là, cũng có số ít giáo viên muốn áp dụng “phương pháp mới” nhưng lại rất lo
lắng vì bị thêm một áp lực nữa đó là sợ ảnh hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp cuối cấp
của học sinh khi chọn môn này. Có thể nói hiện nay, tuy nhiều nơi buộc giáo viên phải
dạy Địa lý theo “phương pháp mới” trong khi quy trình chấm thi môn Địa lý gần như
không có thay đổi gì (nếu không muốn nói là vẫn giữ nguyên theo phương pháp dạy
học cũ). Tức là, kết quả học tập chung của học sinh vẫn được thực hiện trên cơ sở lấy
điểm bình quân kiểm tra và thi cuối học kì, cuối năm là chủ yếu.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép,
ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa
phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã
thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen
suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ
tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở.
1.4.
Ý thức có sự tác động trở lại
Về sự tác động trở lại của nhân tố ý thức với nhân tố vật chất trong định hướng
đổi mới phương pháp dạy học Địa lý nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học nói
chung là một công việc cần nghiên cứu, thống kê, tìm hiểu công phu và khoa học. Ta
biết rằng thực tế khách quan và quy luật khách quan thể hiện nội dung cũng như
phương pháp dạy học, cho nên sự thay đổi về chương trình và phương pháp cũng sẽ
làm thay đổi thực tế khách quan và quy luật khách quan. Trong khuôn khổ bài viết
nhỏ này, người viết xin chỉ tập trung vào vai trò của quyết định của nhân tố vật chất
với nhân tố ý thức trong việc định hướng đổi mới phương pháp, lựa chọn phương
pháp giảng dạy môn Địa lý ở trường THPT.
17
Chương III. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA
LÝ Ở TRƯỜNG THPT
Việc thay đổi hay triển khai, áp dụng vào thực tế dạy học một “phương pháp
mới” nào đó theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trước hết, phải nhìn thẳng
vào thực tế và hoàn cảnh mỗi trường, mỗi vùng, miền… xem có thể áp dụng “phương
pháp mới” được hay không? Như đã nói, thực tế hiện nay ở nước ta, ngoài một số
trường đại học trọng điểm có cơ sở vật chất tương đối hiện đại (có thể áp dụng
“phương pháp dạy học mới” nào đó từ mô hình của các nước có nền giáo dục tiên
tiến) thì hầu hết trường và lớp học của chúng ta đều rất khó khăn, thiếu thốn. Việc các
“nhà phương pháp” cứ máy móc yêu cầu giáo viên phải áp dụng “phương pháp mới”
vào dạy học Địa lý như hiện nay là rất không nên. Học hỏi, tiếp thu những thành tựu,
phương pháp dạy học của bạn bè thế giới là cần thiết nhưng không nên rập khuôn theo
họ. Không thể nói rằng nước ngoài họ làm vậy, chúng ta cứ áp dụng theo là sẽ thành
công. Tại sao chúng ta không nhìn thẳng vào một thực tế là đất nước ta còn nghèo, cơ
sở vật chất, trường lớp cho con em chúng ta học còn thiếu thốn mà đề ra một phương
pháp dạy học nào đó cho phù hợp? Sao chúng ta không học theo “phương pháp” của
cha ông ta ngày xưa đã dạy là “liệu cơm gắp mắm” hay “nhập gia tùy tục”?
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của vật
chất với ý thức, nhưng để nghiên cứu đầy đủ về mối quan hệ này trên phương diện
rộng cần có sự nghiên cứu công phu và khoa học, ở đây, người viết chỉ tìm hiểu sự tác
động của nhân tố vật chất đến việc đổi mới phương pháp dạy học môn Địa lý ở trường
THPT (trường THPT Ngô Gia Tự, Q,8, Tp.HCM) mà người viết đã tham gia giảng
dạy.
1. NHÂN TỐ VẬT CHẤT
1.1.
Thực tế khách quan
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội của trường THPT Ngô Gia Tự
Trường được thành lập năm 1964, trên một khu đất đai khá rộng lớn (khoảng 1
ha). Cho đến nay trường đã đi vào hoạt động được 52 năm. Với qui mô 1 trệt 3 lầu,
18
Trường có 41 phòng học, 4 phòng vi tính mỗi phòng 45 máy nối mạng, các phòng
chức năng: 1 phòng TN Hóa, 1 phòng TH Lý, 1 phòng TH Sinh, 1 phòng TH Điện,…
Hiện nay, nhà trường đã và đang cố gắng trang bị những thiết bị hiện đại để ứng dụng
vào việc dạy và học ngày một nâng cao chất lượng học sinh hơn nữa.
Trong đó, nhóm thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học môn
Địa lý gồm có các thiết bị nghe nhìn, máy chiếu được lắp đặt tại các phòng nghe nhìn
của trường THPT Ngô Gia Tự. Nếu giáo viên muốn sử dụng những thiết bị này phải
đăng kí trước một tuần, và đến giờ học phải di chuyển cả lớp đến một trong các phòng
này, nên nhìn chung, việc đổi mới phương pháp dạy học Địa còn nhiều khó khăn khi
áp dụng thiết bị dạy học…
1.1.2. Trình độ, đặc điểm tâm sinh lý học sinh của trường
Học sinh có những đặc điểm của vùng ven: mộc mạc, chân chất, sớm tiếp thu cái
mới và dễ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu.
Trình độ học vấn chưa thể so sánh với vùng nội thành như quận 1, quận 3, quận
5… nhưng đang có chiều hướng tiến triển nhanh về số lượng và chất lượng.
1.2.
Quy luật khách quan
Nhóm các quy luật khách quan tác động đến hoạt động dạy học ở trường THPT
Ngô Gia Tự cũng không nằm ngoài những quy luật khách quan chi phối hoạt động
dạy học nói chung. Bản thân các quy luật phát huy tác dụng không phụ thuộc vào ý
muốn con người, không phải vì lợi ích của con người. Nhưng con người lại có thể vận
dụng các quy luật đó để phục vụ lợi ích của mình. Vận dụng quy luật là trên cơ sở
hiểu biết quy luật, hoặc không hành động trái với quy luật, hoặc tác động tới các điều
kiện phát huy tác dụng của quy luật để làm cho quy luật đó hoạt động nếu tác dụng
của nó có lợi, hoặc không hoạt động nếu tác dụng của nó có hại cho lợi ích của con
người. Có nghĩa là, xét đến cùng, con người không thể làm trái quy luật, làm trái quy
luật nhất thiết sẽ thất bại. Con người vận dụng các quy luật để dự đoán, dự kiến những
việc sẽ xảy ra, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, quy tắc, phương pháp, biện pháp hành
động phù hợp.
19
1.3.
Nhân tố ý thức
Căn cứ vào thực tế khách quan và quy luật khách quan, nhà trường đã đưa ra
mục tiêu cụ thể cho trường mình là: “Phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, tạo uy tín
cho nhà trường và trang bị cho học sinh có đủ khối lượng kiến thức cần thiết trong cấp
học THPT và các bậc học cao hơn. Tạo môi trường học tập thân thiện, tránh áp lực
cho giáo viên trong quá trình giảng dạy và học sinh trong quá trình học tập”.
Như chúng ta biết, nhân tố vật chất có vai trò quyết định đối với nhân tố ý thức,
nên với từng trường học cụ thể cần căn cứ vào thực tế khách quan và quy luật khách
quan cụ thể của nhà trường để đưa ra những mục tiêu, nội dung dạy học từng môn học
phù hợp, từ đó có những định hướng đổi mới và lựa chọn phương pháp thích hợp với
đặc điểm riêng của nhà trường. Từ mục tiêu chung nói trên, và từ sự hiểu biết về vai
trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức, người viết cũng xin đề xuất
mục tiêu và một số phương pháp, biện pháp dạy học môn Địa lý tại trường THPT.
1.3.1. Mục tiêu và nội dung dạy học môn Địa lý
Không có mục tiêu xác định, dù có phương pháp tốt thì “mũi tên phương pháp”
sẽ bay vô hướng trong không gian. Hệ thống phương pháp dạy học môn Địa lý có hiệu
lực hay không là tùy thuộc vào mục tiêu có chính xác, cụ thể hay không. Điều cần lưu
ý trong đổi mới phương pháp dạy học Địa lý ở THPT hiện nay là phải tìm cách để học
sinh cũng quan tâm và thấm nhuần mục tiêu môn Địa lý trong chương trình cấp học.
Mục tiêu của dạy học Địa lý ngày nay không chỉ nhằm mục đích truyền thụ một
khối lượng kiến thức, rèn luyện một số kĩ năng, giáo dục một số phẩm chất bằng con
đường áp đặt từ giáo viên và học sinh chỉ là một con người thụ động. Dạy học Địa lý
bây giờ nhằm mục tiêu cao nhất là giúp học sinh có thể chủ động tự học dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
Đổi mới dạy học phải gắn liền với đổi mới nội dung. Nội dung dạy học môn Địa
lý là nhằm trau dồi năng lực văn kể từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường cho tới lúc ra
đời phải biết xoay xở “lúc phải nói, phải viết thì đó là trước những cảnh ngộ và sự cần
thiết diễn tả những điều xa lạ vô cùng với sách vở, nhà trường”.
20
1.3.2.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Địa lý ở trường THPT Ngô
Gia Tự
Vấn đề phương pháp dạy học nổi lên như một yêu cầu cấp thiết bởi dạy như cũ
thì không những việc dạy không hay, mà sự đào tạo cũng không hay. Dạy học Địa
phải là một quá trình liên kết nhiều khâu: dạy cách đọc bản đồ, dạy cách xác định vị
trí của từng khu vực hay từng quốc gia, dạy đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, các định hướng để phát triển kinh tế,..
Đặc biệt là mỗi môn lại có nhưng phương pháp giảng dạy đặc trưng riêng. Ở đây,
người viết chỉ đề cập đến những phương pháp chung nhất của môn này, đó là phương
pháp tổng hợp. Bởi vì, phương pháp mới không phải là cái gì xa lạ, mà chính là biết
phối hợp tốt giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại.
1.3.2.1.
Phương pháp giảng dạy truyền thống và sử dụng thiết bị
Với điều kiện và tình hình học sinh của trường hiện nay, phương pháp giảng dạy
truyền thống (phương pháp thuyết giảng) trong đó người giáo viên vẫn đóng vai trò
chủ đạo truyền bá kiến thức, kết hợp với sử dụng thiết bị giảng dạy hiện đại (giáo án
điện tử). Việc sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh, âm thanh sinh động làm
cho người học dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập của học
sinh. Thông qua bài giảng điện tử, giáo viên có nhiều thời lượng để đặt các câu hỏi gợi
mở, tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học.
1.3.2.2.
Phương pháp tích cực
Đối với môn Địa lý ở trường THPT Ngô Gia Tự thì phương pháp dạy học tích
cực chưa được sử dụng thường xuyên, tuy nhiên với đặc điểm của học sinh trường
vùng ven thì phương pháp này tin rằng sẽ phát huy hiệu quả cao nhất. Dưới sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh sẽ biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, tự mình khám
phá kiến thức mới.
- Xem thêm -