Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ử dụng kiến thức liên môn trng giảng dạy lịch sử ở trường thpt nông cống i...

Tài liệu ử dụng kiến thức liên môn trng giảng dạy lịch sử ở trường thpt nông cống i

.DOC
18
62
145

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG I SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG I Người thực hiện: Lê Trạc Ninh Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử THANH HOÁ, NĂM 2019 1 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ”. Ở những mức độ khác nhau. Nếu Văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng yêu quý hơn con người, dân tộc Việt nam thì thông qua Lịch sử, các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là cả một xã hội loài người. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng trong việc hình thành, bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy, so với các môn học khác thì môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đối với thế hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống. Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ thuật”. Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, nhưng hiện nay, việc dạy học Lịch sử nói chung và ở trường THPT Nông Cống I nói riêng chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa 2 tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề. Từ thực trạng của trường THPT Nông Cống I, trực tiếp giảng dạy cả ba khối lớp, tôi mạnh dạn chọn giải pháp “Sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT Nông Cống I” để giảng dạy môn lịch sử một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử mà học sinh vẫn cho là khô khan. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm khẳng định quan niệm đúng đắn, khoa học về sự cần thiết của việc dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Trên cơ sở đó nêu cách thức tổ chức dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT, phù hợp với điều kiện của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử. 1.3. Đối tương nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình tổ chức dạy học tích hợp kiến thức liên môn thuộc nô ̣i dung Lịch sử 10, 11, 12 THPT(chương trình cơ bản) áp dụng trong giảng dạy môn lịch sử trên lớp. Đề tài tập trung minh họa qua một bài học cụ thể, từ đó làm cơ sở để áp dụng sâu rộng cho toàn bộ quá trình dạy học tích hợp kiến thức liên môn của cả chương trình môn lịch sử THPT tại trường THPT Nông Cống I. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài chủ yếu vận dụng những phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo dục. Bao gồm: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc, phân tích các loại tài liệu… - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: dự giờ, khảo sát, phỏng vấn, trao đổi… - Dạy thử nghiệm trên lớp. 3 - Phương pháp thực nghiệm sư phạm (TNSP): Trên cơ sở kết quả thu được từ thực nghiệm rút ra kết luận về tính khả thi của đề tài. - Phương pháp thống kê: tập hợp và xử lý các số liệu thu được qua thực tế, qua thực nghiệm, qua kết quả học tập. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận. - Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. - Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này” Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng. 2.2. Thực trạng vấn đề Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm 4 được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó việc giảng dạy của người thầy có tác động trực tiếp và quan trọng nhất. Phương pháp dạy học truyền thống vẫn đang được sử dụng chiếm ưu thế. Đối với giáo viên Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, tôi tiến hành khảo sát về tổ chức dạy học trong giờ học môn Lịch sử đối với 20 giáo viên các trường THPT trên địa bàn huyê ̣n Nông Cống và các đồng nghiệp, bạn bè cùng dạy môn lịch sử ở các huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, cũng như nhiều tỉnh khác, kết quả thu được thể hiện như sau: Đa phần (80%) giáo viên chủ yếu sử dụng thời gian để dạy hết kiến thức lịch sử trong một bài dạy đã được quy định…chỉ có (20%) giáo viên sử dụng thường xuyên sử dụng kiến thức liên môn để vận dụng vào quá trình giảng dạy của minh. Qua trao đổi trực tiếp với một số giáo viên tôi nhận được ý kiến: Cô giáo Lương Thị Nhất (Trường THPT Nông Cống 1) cho rằng: “Dạy học tích hợp kiến thức liên môn làm cho giờ học sinh động, không khí thoải mái, tạo hứng khởi cho các em học sinh”. Còn cô Lê Thị Hồng (Trường THPT Nông Cống III) thì khẳng định: “Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn là biến giờ học lịch sử khô khan thành một giờ tham quan thực tế”. Một bạn đồng nghiệp của tôi dạy tại một trường THPT ở Hà Tĩnh thì cho rằng: “ Dạy học tích hợp kiến thức liên môn đối với bộ môn lịch sử là làm cho những những trận đánh, những chiến công trong quá khứ của lịch sử dân tộc giống như một bộ phim quay chậm, đưa ta trở về với quá khứ lúc đấy”. Đối với học sinh Qua tiếp xúc trực tiếp và trao đổi với học sinh trường THPT Nông Cống 1 tôi thu nhận kết quả thực tế là: Các em cho rằng, dạy học tích hợp kiến thức liên môn đối với bộ môn lịch sử là rất bổ ích, vì không khí học tập thoải mái, giờ học sinh động, không còn khô khan với những năm-tháng, số liệu, giúp các em hiểu bài và nắm bài ngay tại lớp, có thể liên kết để nhớ được các sự kiện rất lâu. 5 Từ kết quả khảo sát trên ta có thể thấy: Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch 2.3. Một số nội dung tích hơp cụ thể: 2.3.1 Tích hơp với môn Ngữ Văn: Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết để thu hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới. Để tạo nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức văn học vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Văn học và Lịch Sử có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng, như khi học tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu mà nhân dân phải gánh chịu, hiểu được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc biệt hiểu và thông cảm sâu sắc cho tình cảnh người nông dân Việt Nam, làm việc cực nhọc “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ sống, mà ta nghĩ là bằng ngôn từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục, những đắng cay mà người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng khó tìm thấy một ngôn từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418 – 1428) hơn những lời thơ của Nguyễn Trãi: Đánh một trận sạch không kình ngạc, Đánh hai trận tan tác chim muông 6 Cơn gió to trút sạch lá khô Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ ( Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi) Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng trong bài “Chiến thắng Chi Lăng Xương Giang” (1427) - lịch sử 10. Đối với bài: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống thời Lí (1075 – 1077) - lịch sử 10 Giáo viên có thể sử dụng thơ ca để minh họa nhấn mạnh bài “ Thơ thần” của Lý Thường Kiệt: “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” Giáo viên cần đọc minh họa khổ thơ trên và phân tích cho học sinh thấy bài thơ đã có tác dụng một phần làm cho quân giặc càng thêm hoang mang lo sợ, mặt khác còn động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ . Khi giảng dạy về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giáo viên có thể trích dẫn các câu thơ trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi: “…Ngày 18 trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày 20 trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày 25, Bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày 28, Thưpng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn …Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước… Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật…” Hay trong bài ngữ văn : “Hoàng Lê Nhất thống chí” Giáo viên có thể sử dụng nội dung một phần kiến thức ở bài đó để làm nổi bật nên tinh thần chiến đấu quật cường của nghĩa quân Tây Sơn: 7 Trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (1789) được thể hiện qua hình ảnh của người anh hùng áo vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân tộc “Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phẩn Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu Thống….với thắng lợi lẫy lừng đó không thể không nhắc đến công lao to lớn của Quang Trung –Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ông là công chúa Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau : “Mà nay áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình” Khi dạy bài : “Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ 1858 – 1873” (sử 11), mô tả về hoàn cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kì, chúng ta có thể trích dẫn bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu trong bài “Chạy Tây” và bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”: “Tan chợ chợt nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay Bỏ nhà lũ trẻ lơ thơ chạy Mất tổ đàn chim dáo dác bay…” (Chạy Tây) Hay : “…Ngoài cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngoài Trong tay cầm một ngọn tầm vông chưa mài, sắm dao tu nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong dạy đạo kia Gươm đep dùng bẵng lưỡi dao phay chém rớt đầu quan hai nọ…” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” 8 Thì học sinh sẽ hình dung được ngay về hoàn cảnh của phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ. Khi giáo viên giảng dạy “ Phong trào cách mạng 1930 – 1935, phần Xô viết Nghệ - Tĩnh “ ( Lịch sử 12) Để minh họa cho sự nổi dạy mạnh mẽ của nhân dân Nghệ - Tĩnh, giáo viên sử dụng bài thơ: “ Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước Nọ Thanh Chương tiếp bước bước lên Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi Không có lẽ ta ngồi chịu chết Phải cùng nhau kiên quyết một phen…” Dạy bài 16: “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945” (lịch sử 12), ta có thể nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng khắp các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích: “ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy Nước non ơi hết thảy vùng lên Bắc, Trung, Nam khắp ba miền Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…” Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận xét được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mainhf đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các em đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử - Là động lực chính đưa cách mạng đến thành công. Chẳng hạn khi dạy bài 20: “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm lược kết thúc” (Lịch sử 12) sau khi khái quát về kết quả của chiến dịch Điện Biên phủ, ta có thể trích dẫn mấy câu thơ của Tố Hữu như sau: “… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt 9 Máu trộn bùn non Gan không núng, chí không mòn…”. Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức của các em. Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” ta trích câu thơ: “Chín năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Nhìn chung có rất nhiều kiến thức đẻ vận dụng văn học trong giảng dạy bộ môn Lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một trích đoạn nhằm giúp học sinh có thể nêu ra một kết luận khái quát cụ thể hóa một vấn đề hây một sự kiện lịch sử đã được học. Như vậy ta thấy rằng: Sử dụng tích hợp kiến thức văn học trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình. 2.3.1 Tích hơp với kiến thức hội họa, tranh ảnh. Không những môn Lịch sử chỉ gần gủi trong nội dung kiến thức với môn Ngữ văn mà còn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức hội họa. Đây là một phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học Lịch Sử, giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt áp dụng vào giảng các bài tìm hiểu về văn hóa xã hội các thời kỳ lịch sử. Ví dụ như bài “Phong trào văn hóa phục hưng” Giáo viên có thể đưa ra những tranh, ảnh thể hiện hiện nội dung của phong trào văn hóa Phục Hưng, sau đó sẽ giải thích về những nội dung được thể hiện trong tranh. Cuối cùng, đặt một số câu hỏi giúp học sinh nhận thức vấn đề và rút ra kết luận cần thiết. 10 Đối với việc tích hợp môn Lịch sử với hội họa, ta có thể đưa ra hai nội dung: * Sử dụng hình ảnh minh họa trong việc giảng dạy các tiết, các phần về “ Văn hóa các thời kỳ lịch sử”. Ở mảng này, tập trung vào việc cho học sinh xem các tranh, ảnh về nền văn hóa các triều đại phong kiến của các nước và của Việt nam và đưa ra các câu hỏi cho học sinh thảo luận: Ví dụ: Khi dạy bài 11: Tây Âu hậu kì trung đại – phần 3: “ Phong trào văn hóa Phục hưng” ( Lịch sử 10): Giáo viên có thể hỏi học sinh: Qua các tác phẩm của mình, các tác giả thời Phục hưng muốn nói lên điều gì?... Hay trong bài 8: “Sự hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á ” (Lịch sử 10). Chỉ học sinh xem các hình ảnh: Đền tháp Bô-no-bu-đua (Inđô-nê-xi-a); Chùa tháp Pa-Gan (Mi-an-ma); Đền tháp Ăng-co-vát (Căm pu chia); Thạt Luổng ( Lào)… để học sinh thấy được trình độ kiến trúc thế kỷ X – XVIII. Qua đó thấy được lịch sử phát triển của các triều đại phong kiến thời đó. Chúng ta có thể cho các em xem các bức tranh, ảnh chụp các đền, chùa, tượng phật, đồ gốm cổ, phân tích cho các em thấy những nét kiến trúc, nét hoa văn khác nhau qua các thời kỳ để các em hiểu được quá trình phát triển của lịch sử đất nước và hiểu được giá trị của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. * Sử dụng tranh ảnh trong giảng dạy các bài về các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa: Cho các em xem tranh, ảnh minh họa, từ đó các em cảm nhận được về chiến tranh, về quyền lực của các tổ chức, các triều đại… Ví dụ khi dạy Bài 35: “Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng thuộc địa” ( Lịch sử 10 ) Cho học sinh xem bức tranh “ Tranh đương thời nói về quyền lực của các tổ chức độc quyền ở Mĩ” (Chú ý các chữ viết trên mình mãng sà: Monopoly – Độc quyền ) để thấy rõ chế độ độc quyền đã ảnh hưởng lớn đến kinh tế, chính trị của nước Mĩ và khu vực như thế nào. Và giúp học sinh hiểu được đây chính 11 là nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực, thuộc địa, gây được sự tò mò, sáng tạo của học sinh… Bài 36: “ Sự ra đời và tình cảnh của giai cấp vô sản công nghiệp” ( Lịch sử 10): Cho học sinh xem bức ảnh “ Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh thảo luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ em? Liên hệ với trẻ em ngày nay, công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời liên hệ ngay ở địa phương: Một số trẻ em chưa đến tuổi lao động cũng đã bỏ học đi làm và bị bóc lột sức lao động mà không biết. Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh tác phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn học, hội họa làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối với các môn học khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa học khác rất nhiều điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan của nhiều phương án xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà một chuyên môn hẹp khó nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối tượng mà chúng có quan hệ là những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa học khác tính chính xác và tầm rộng của sự khái quát, đồng thời Lịch sử có thể hoàn thành nghĩa vụ của mình bằng cách xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với các tài liệu và tránh những khái quát không có cơ sở vững chắc”. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Khi thực hiện giảng dạy tích hợp kiến thức môn lịch sử với các bộ môn Ngữ văn, hội họa, tranh ảnh ở trường THPT Nông Cống I, bước đầu đã thu được kết quả nhất định. Để kiểm tra kết quả của việc giảng dạy tích hợp bộ môn Lịch sử, tôi đã tổ chức lấy ý kiến của học sinh các khối lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy về hứng thú học bộ môn lịch sử. 12 - Kết quả thu đươc qua các tiết thực nghiêm: ̣ Số lượng học sinh tham gia gồm các lớp tối đang trực tiếp giảng dạy năm học 2018 – 2019 gồm: + Khối 10: các lớp 10B5, 10B6, 10B7 (125 học sinh) . + Khối 11: các lớp 11C1, 11C2, 11C3, 11C4, 11C5, 11C6 (214 học sinh). + Khối 12: các lớp 12A3, 12A4, 12A5, 12A9, (174 học sinh) Tiết dạy bằng phương pháp truyền thống Sĩ số Thái độ hứng thú Sĩ số Thái độ hứng thú Khả năng sử dụng tư Khả năng lĩnh hội liệu 513 210 (40,9%) 210 (40,9%) Tiết dạy bằng phương pháp tích hợp liên môn kiến thức 210 (40,9%) Khả năng sử dụng tài Khả năng lĩnh hội liệu kiến thức 513 386 (75,2,%) 386 (75,2%) 386 (75,2%) Điều này được chứng minh trong kết quả học tập bộ môn lịch sử Học kì I, năm học 2018 – 2019, mà tôi trực tiếp giảng dạy như sau: Khối 10: Lớp Sĩ số 10B5 45 10B6 42 10B7 38 Tổng 125 Loại Giỏi 2 Loại Khá 12 Loại TB 26 Loại Yếu 4 Loại Kém 1 (4,44%) 10 (26,77%) 24 (57,78%) 8 (8,89%) 0 (2,22%) 0 (23,81%) 1 (57,14%) 8 (19,05%) 23 (0%) 6 (0%) 0 (60,53%) (15,79%) (0%) (2,63%) (21,05%) 13 44 57 10 1 (10,4%) (35,2%) (45,6%) (8%) (0,8%) Loại Giỏi 5 Loại Khá 14 Loại TB 13 Loại Yếu 2 Loại Kém 0 (14,71%) 23 (41,18%) 13 (38,24%) 1 (5,88%) 0 (0%) 0 (62,16%) 31 (35,14%) 11 (2,7%) 1 (0%) 0 (0%) 0 (2,33%) 11 (0%) 4 (0%) 0 Khối 11: Lớp Sĩ số 11C1 34 11C2 37 11C3 43 11C4 37 (72,09%) 9 (25,58%) 13 13 11C5 38 11C6 25 Tổng 214 (24,32%) 6 (35,14%) 16 (29,73%) 14 (10,81%) 2 (0%) 0 (15,79%) 15 (42,11%) 10 (36,84%) 0 (5,26%) 0 (0%) 0 (60%) 89 (40%) 77 (0%) 40 (0%) 8 (0%) 0 (41,58%) (36,0%) (18,69%) (3,73%) (0%) Loại Giỏi 33 Loại Khá 18 Loại TB 1 Loại Yếu 0 Loại Kém 0 (63,46%) 18 (39,62%) 25 (1,92%) 5 (0%) 0 (0%) 0 (37,5%) 21 (52,08%) 19 (10,42%) 4 (0%) 1 (0%) 0 (8,89%) 0 (2,22%) 0 (0%) 0 (0%) 10 (0%) 1 (0%) Khối 12: Lớp Sĩ số 12A3 52 12A4 48 12A5 45 12A9 29 Tổng 174 (46,67%) 27 (42,22%) 2 (93,1%) 99 (6,9%) 64 0 (56,8%) (36,8%) (5,74%) (0,57%) (Kết quả trên được sử dụng chứng thực bằng số liệu thúc tế tổng kết học kì I năm học 2018 – 2019 của trường THPT Nông Cống I, trên mạng vnedu.vn) Ngoài việc sử dụng phương pháp thống kê qua phiếu đánh giá để phân tích kết quả thực nghiệm tôi còn thu thập kết quả thông qua quan sát cùng với thu thập ý kiến nhận xét của giáo viên và học sinh tham gia thực nghiệm. Hầu như tất cả các giáo viên tham gia thực nghiệm đều khẳng định các biện pháp tổ chức tích hợp, liên môn trong bộ môn lịch sử là rất cần thiết, được sử dụng mang lại hiệu quả về nhiều mặt. Điều dễ nhận thấy nhất là hứng thú học tập của học sinh tăng lên rõ rệt, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh trong các tiết học. Từ chỗ thụ động, tiếp thu kiến thức một chiều khi tham gia tích cực trong giờ học. Học sinh inh trở nên năng động, tự tin, không khí tiết học sôi nổi, các em tích cực nghiên cứu tài liệu, tham gia xây dựng bài học làm cho quan hệ giữa học sinh – học sinh và giáo viên – học sinh trở nên gần gũi, thân thiện hơn. 14 Trên cơ sở nắm vững yêu cầu, xác định các biện pháp, thao tác sư phạm tổ chức dạy học tích hợp – liên môn trong giờ học bộ môn Lịch sử ; đồng thời tiến hành thực nghiệm sư phạm bước đầu tôi thu được kết quả khả quan. Vì vâ ̣y đây là cơ sở để tôi mạnh dạn tổ chức nhiều tiết học sử dụng kiến thức tích hợp liên môn vào năm học 2018 – 2019 và các năm học tiếp theo. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thầy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào, không phải phần nào cũng thực hiện được. Tuy nhiên qua thực tế dạy học ở trường THPT Nông Cống I, theo ý kiến chủ quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học Sử như hiện nay, không chỉ đổi mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy nghĩ của mọi người, của xã hội về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con người. Hơn nữa, để cải thiện chất lượng dạy và học môn Sử hiện nay không phải chỉ có giáo viên cố gắng mà học sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập. Thử hỏi giáo viên dạy hay, tiết học sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không học bài, không chuẩn bị bài, không đọc sách giáo khoa, vậy thì kết quả sẽ như thế nào? Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy - học môn Sử cũng như chất lượng giáo dục cần có sự quan tâm của tất cả mọi người và toàn xã hội. 3.2. Kiến nghị Để tiến tới việc dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường, cần: - Trước hết cần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn học để dần tiến tới thực hiện tích hợp môn học theo hướng chung của nhiều nước. - Thiết kế lại nội dung chương trình - sách giáo khoa các môn học theo hướng tích hợp. - Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được yêu cầu học tập tích hợp. 15 - Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ mục tiêu đến nội dung, phương pháp để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên khi thực hiện chương trình tích hợp. - Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh giá theo hướng tích hợp. - Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn học. - Tiếp tục khai thác nghiên cứu thử nghiệm nội dung tích hợp theo các phương án khác nhau để có thể triển khai quan điểm tiếp cận tích hợp. Trên đây là những đề xuất của tôi trong việc tích hợp kiến thức liên môn vào giảng dạy bộ môn Lịch sử trong trường THPT Nông Cống I. Đồng thời mạnh dạn đưa ra một số nội dung giảng dạy ở một số bài trong chương trình lịch sử cấp THPT đã được áp dụng có hiệu quả ở trường THPT Nông Cống I trong năm học 2018 - 2019. Tôi hy vọng rằng : Những vấn đề tôi đưa ra trong sáng kiến này sẽ góp phần giúp cho các thầy cô giáo có được những định hướng trong việc tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy không những bộ môn Lịch sử mà với các bộ môn khác, không chỉ ở môn Ngữ văn, hội họa, tranh ảnh mà còn ở các môn khác nữa. Đồng thời cũng giúp cho các em có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử. Đề tài trên đây là đóng góp nhỏ của cá nhân tôi vào phương pháp dạy học tích hơp – liên môn,, từ đó góp phần nhằm nâng cao chất lương dạy – học của bộ môn Lịch sử. Với thời gian có hạn, sẽ còn những thiếu sót, vì vậy tôi kính mong đươc sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của hội đồng khoa học để đề tài đươc hoàn thiện và có tính thực tiễn sâu sắc. Tôi xin chân thành cảm ơn. Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị Thanh hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019 Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viết, không sao chép nội dung của người khác. 16 Lê Trạc Ninh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lịch sử 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 2. Lịch sử 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 3. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 10 (2006) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội. 4. Lịch sử 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 17 5. Lịch sử 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 6. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 11 (2007) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội. 7. Lịch sử 12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 8. Lịch sử 12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 9. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 12 (2008) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội. 10. Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Lịch sử 12, Bộ giáo dục và đào tạo(2009), nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. 11. Ngữ văn 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 12. Ngữ văn 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 13. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 2, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Hoạt động dạy học, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức (2001) Nxb. GD - Hà Nội. 15. Luật giáo dục, ( 2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học (2000), Nxb. Đà Nẵng 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất