Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tvefile.2014 05 28.4275787987...

Tài liệu Tvefile.2014 05 28.4275787987

.PDF
116
254
87

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN VIỆT HÀ THỰC TRẠNG HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐÀO TẠC CÔNG NHÂN LÀNH NGHỀ CHO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI ĐẾN NĂM 2010 LUẬN ÁN THẠC SĨ HÀ NỘI, 1998 LỜI CÁM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Ngọc Bảo – Phó giáo sư – Phó tiến sĩ Giáo dục học, đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các Thầy Cô Khoa Tâm lý – Giáo dục Đại học Sư phạm Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, lãnh đạo Ban Tài chính – Quản trị Tỉnh ủy, các trường dạy nghề, các doanh nghiệp Đồng Nai và bạn bè thân hữu đã quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này. Biên Hòa, ngày 21 tháng 12 năm 1998 Người thực hiện: Trần Việt Hà 1 MỤC LỤC LỜI CÁM ƠN .............................................................................................................. 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài:............................................................................................................4 2. Mục đích nghiên cứu: .....................................................................................................4 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: .............................................................................5 4. Phạm vi nghiên cứu: .......................................................................................................5 5. Giả thuyết khoa học:.......................................................................................................5 6. Nhiệm vụ nghiên cứu:.....................................................................................................5 7. Phương pháp nghiên cứu: ..............................................................................................6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC, ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN LÀNH NGHỀ VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHU CÔNG NGHIỆP. ..... 7 1.1. Lý luận chung về nhân lực và đào tạo công nhân lành nghề: ..................................7 1.1.1. Một số khái niệm, danh từ, thuật ngữ cơ bản thường gặp. ......................................7 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế- xã hội của nguồn nhân lực và công tác dạy nghề. ......................10 1.1.3. Hiệu qủa của công tác dạy nghề và nhu cầu ngày càng lớn của đội ngũ công nhân lành nghề: ........................................................................................................................12 1.1.4. Chính sách phát triển nguồn nhân lực và đào tạo công nhân kỹ thuật ở một số nước trên thế giới: [18,37]...............................................................................................17 1.1.5. Điểm qua tình hình đào tạo công nhân ở Việt Nam.[2l ,04]..................................21 1.1.6. Một sô lý thuyết về công nghệ đào tạo công nhân có thể ứng dụng vào hoàn cảnh dạy nghề nước ta: ....................................................................................................24 1.2. Lý luận chung về khu công nghiệp tập trung :[9]...................................................27 1.2.1. Khái niệm: .............................................................................................................27 1.2.2. Vai trò, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của khu công nghiệp: ...........................28 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động các khu công nghiệp : .....................................30 1.2.4. Yêu cầu về nhân lực và đội ngũ công nhân cho các khu công nghiệp: .................30 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀC TẠO CÔNG NHÂN LÀNH NGHỀ Ở ĐỒNG NAI ................................................................................................ 32 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và thực trạng đào tạo công nhân lành nghề; ..............32 2.1.1. Đặc điểm địa lý - kính tế xã hội tỉnh Đồng Nai: ....................................................32 2.1.2. Tình hình đặc điểm ngành dạy nghề Đồng Nai: ....................................................37 2.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng chất lượng dạy nghề:...................................................40 2.2. Đánh giá thực trạng và những đổi mới (1990 -1998). .............................................43 2 2.2.1. Về tư duy đào tạo nghề nghiệp : ............................................................................43 2.2.2. Đánh giá mục tiêu và kết quả của quá trình đào tạo : ............................................45 2.2.3. Nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo : .........................................53 2.2.4. Quản lý trường dạy nghề và cơ sở vật chất kỹ thuật - đào tạo: .............................55 2.2.5. Đội ngũ giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý và ngành nghề đào tạo:....................60 2.2.6. Đầu tư đào tạo công nhân lành nghề: ....................................................................64 2.2.7. Động cơ tìm việc làm và quản lý, sử dụng đội ngũ công nhân: ............................66 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN LÀNH NGHỀ CHO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN NĂM 2010 Ở ĐỒNG NAI .............................. 71 3.1. Một số quan điểm định hướng chiến lược đào tạo: ................................................71 3.1.1. Định hướng cơ bản về chiến lược giáo dạc - đào tạo: ...........................................71 3.1.2. Định hướng mục tiêu đào tạo công nhân lành nghề ở Đồng Nai : ........................72 3.1.3. Định hướng tổ chức và quản lý ngành dạy nghề Đồng Nai: .................................75 3.1.4. Chính sách đầu tư cho đào tạo công nhân lành nghề của Tỉnh: ............................78 3.1.5. Thử tìm một mô hình "trường trung học nghề": ....................................................82 3.2. Những giải pháp và kiến nghị:..................................................................................87 3.2.1. Lựa chọn chính sách phát triển nguồn nhân lực phù hợp cho Tỉnh:......................87 3.2.2. Giải pháp cơ băn thực hiện mục tiêu đào tạo công nhân lành nghề: .....................88 3.2.3. Công tác tổ chức và quản lý ngành dạy nghề Đông Nai. ......................................90 3.2.4. Đầu tư cho đào tạo công nhân lành nghề của Tỉnh:...............................................92 3.2.5. Một số giải pháp quản lý vĩ mô khác:....................................................................96 KẾT LUẬN............................................................................................................... 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 104 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 107 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Trong thời đại ngày nay, nguồn nhân lực được đánh giá là sức mạnh siêu quốc gia, có tính quyết định trong cạnh tranh kinh tế và thiết lập trật tự kinh tế thế giới mới. Quá trình đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ công nhân lành nghề chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cải cách kinh tế - xã hội ở Việt Nam.Vì vậy, Đại hội Đảng cộng sản lần thứ VIII đã xác định mục tiêu "Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoa..." và chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp là: "...điều chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lý nhằm đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng các trình độ vào các ngành nghề khác nhau, đặc biệt bảo đảm được nhân lực cho các ngành mũi nhọn và các chương trình kinh tế- xã hội trọng điểm, tăng nhanh tỷ trọng đào tạo ngành nghề mới dưới bậc đại học". Đồng Nai là một vùng kinh tế trọng điểm với tiềm năng, ưu thế về qui mô, chất lượng các ngành công nghiệp phát triển năng động của cả nước. Trong vài năm trở lại đây tỉnh Đồng Nai phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp tập trung. Chính vì vậy, vấn đề nhân lực, trong đó lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề đang là một nhu cầu bức thiết và là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nayvà tương lai. Trong khi đó, các trường dạy nghề của Tỉnh còn nhiều bất cập trước yêu cầu ngày càng lớn của thị trường sức lao động. Các trường dạy nghề chưa có sự chuẩn bị tốt để đi vào cơ chế thị trường , chuẩn bị cho bước phát ưiển mới của kinh tế xã hội và các khu công nghiệp. Từ những vấn đề trên đã đặt ra yêu cầu bức bách của việc nghiên cứu thực trạng và tìm ra những giải pháp định hướng hữu hiệu nhằm hoàn thiện công tác đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề của Tỉnh.Vì những lý do trên, Tác giả chọn đề tài "Thực trạng hiện nay và phương hướng đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp Đồng Nai đến năm 2010" để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu: Xác định thực trạng đào tạo công nhân lành nghề của Tỉnh để hoạch định một số phương hướng khả thi đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp ở Đồng Nai 4 đến năm 2010, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác đào tạo công nhân lành nghề. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và phương hướng đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp Đồng Nai. 4. Phạm vi nghiên cứu: - Đề tài nghiên cứu được giới hạn ương phạm vi: Tổ chức quản lý vĩ mô, đề ra các chủ trương chính sách của địa phương trong đào tạo công nhân lành nghề. - Cơ sở nghiên cứu tại 3 trường dạy nghề chính quy của Tỉnh và 4 khu công nghiệp điển hình tại Đồng Nai. 5. Giả thuyết khoa học: Đào tạo công nhân lành nghề ở Đồng Nai đang bị khủng hoảng nhiều mặt: về cơ chế quản lý, qui mô, chất lượng, cơ cấu, đầu tư, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, vv... còn yếu kém. Nếu nghiên cứu phường hưổng đúng dấn sẽ có thể giúp giải quyết tình hình trên, qua đó góp phần thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoa đất nước. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về đào tạo nhân lực, đào tạo công nhân kỹ thuật, lành nghề và tổ chức khu công nghiệp tập trung. - Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân tình trạng yếu kém của công tác - đào tạo công nhân lành nghề ở Đồng Nai. - Đề xuất phương hướng đào tạo công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp đến 5 năm 2010 ở Đồng Nai. 7. Phương pháp nghiên cứu: Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Đồng thời quán triệt các quan điểm: Hệ thống- cấu trúc- lịch sử- lôgích và thực tiễn trong nghiên cứu. Do luận án đề cập nhiều vấn đề liên quan đến xã hội học giáo dục, các lý thuyết về kinh tế học giáo dục, quản lý hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và thực tiễn cuộc sống nên tác giả sử dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích và tổng hợp lý thuyết, điều tra (điều tra cơ bản, điều tra trưng cầu ý kiến), nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm giáo dục. Ngoài ra kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: Toán thống kê nhằm sử lý các tài liệu thu được vv... 6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC, ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN LÀNH NGHỀ VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KHU CÔNG NGHIỆP. 1.1. Lý luận chung về nhân lực và đào tạo công nhân lành nghề: 1.1.1. Một số khái niệm, danh từ, thuật ngữ cơ bản thường gặp. 1.1.1.1. Nhân lực (người lao động), người thợ và thợ lành nghề: [16,9] Trong sản xuất có 3 yếu tố cơ bản: Công cụ lao động, đối tượng lao động và người lao động. Trong các yếu tố này thì người lao động là cơ bản nhất. Người lao động sản xuất bao gồm: Các nhà nghiên cứu, kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên và người thợ. Người thợ biến các ý đồ của kỹ sư, kỹ thuật viên thành hiện thực. Thiếu kỹ sư, kỹ thuật viên sẽ không có kỹ thuật hiện đại, nhưng nếu không có công nhân thì không có sản xuất. Trong sản xuất hiện nay chúng ta cần 2 loại thợ: "Công nhân kỹ thuật" - Là loại thợ chuyên sản xuất ra hàng loạt hoặc làm các công việc đơn giản không đòi hỏi tình độ lành nghề cao lắm, thời gian đào tạo tương đối ngắn đã có thể làm ra sản phẩm đơn giản. "Công nhân lành nghề " - Là loại thợ giữ vị trí quyết định trong nhiều mặt của sản xuất như điều khiển, sửa chữa các máy móc tinh vi phức tạp về điện, điện tử, quang học, cơ khí, chế tạo khuôn, đồ gá, dụng cụ, vv… Họ có trình độ nghề nghiệp tinh thông, có đủ kinh nghiệm để giải quyết được khó khăn mắc mứu trong phạm vi nghề và dìu dắt thợ mới. Số lượng thợ này thường không nhiều nhưng không thể thiếu trong sản xuất. Tuy nhiên muốn đạt đến trình độ lành nghề phải có quá trình rèn luyện một thời gian dài. 1.1.1.2. Nghề nghiệp, ngành sản xuất và chuyên môn:[16,56] Nghề nghiệp là một hình thức hoạt động nhất định, đòi hỏi một số lý thuyết chuyên môn đặc biệt và các kỹ năng, kỹ xảo thực tế để thực hiện các kiến thức lý thuyết đó. Nghề nghiệp biểu thị bằng sự phân công lao động, các công việc được thực hiện và phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm chế tạo , các điều kiện lao động của một ngành sản xuất nhất định. 7 Việc phân chia các ngành sản xuất, phụ thuộc vào 3 yếu tố: - Công cụ và phương tiện lao động. - Tính chất của đối tượng lao động. - Tổ chức quá trình sản xuất. Căn cứ vào các yếu tố trên, người ta phân chia ra các ngành nghề cơ khí, xây đựng, mỏ, dệt, hóa chất, vận tải, vv....Như vậy danh từ ngành có nội dung chung, trong ngành có nhiều nghề khác nhau như: ngành cơ khí có các nghề: tiện, nguội, phay, bào, mài, vv... Chuyên môn được coi là một môi trường hoạt động nghề nghiệp có hạn chê và công nhân của lĩnh vực hoại động này chỉ sử dụng mội số công cụ nhất định, thực hiện những chức năng nhất định của quá tình sản xuất. Ví dụ trong nghề nguội có những chuyên môn như: nguội dụng cụ, nguội sửa chữa máy, nguội đồ gá, nguội lắp ráp, nguội lắp đặt đường ống, nguội sửa chữa ô tô, vv... Như vậy cũng là nghề nguội nhưng chuyên môn thì khác nhau. 1.1.1.3.Trình độ nghề nghiệp của công nhân Là các kiến thức, năng lực về một chuyên môn nhất định, có phối hợp với các điều kiện tổ chức và kỹ thuật cụ thể để tiến hành quá trình lao động. Trình độ nghề nghiệp được xác định bởi 3 yếu tố: Kiến thức, kỹ xảo và kỹ năng lao động.[16,57] - Kiến thức là hệ thống các tri thức bao gồm những khái quát lý luận như thuật ngữ, khái niệm, cổng thức, quy luật, tư tưởng học thuyết khoa học, những lý luận khoa học và kỹ thuật liên quan đến nghề nghiệp, nó có thể định hướng ứng dụng một cách nhanh chóng, phù hợp với các tình huống nghề nghiệp. Khối lượng kiến thức của người thợ được xác định bởi trình độ hiểu biết tổng hợp về kỹ thuật cơ bản của nghề, về khoa học kỹ thuật, về trình độ văn hóa phổ thông và một phần hiểu biết về kinh tế và quản lý sản xuất. - Kỹ xảo lao động là hành động có ý thức mà từng động tác riêng biệt của nó đã trở thành tự động hóa do được luyện tập. Có 3 loại kỹ xảo chính là: Kỹ xảo vận động, kỹ xảo nhận biết, kỹ xảo định hướng. Ở kỹ xảo vận động (kỹ xảo cơ giới) người ta chú ý tự động hoá những thành 8 phần di chuyển, cầm nắm nhất định. Các kỹ xảo định hướng (kỹ xảo trí óc) là những hành động bộ phận đã được tự động hoa tạo khả năng định hướng nhanh chóng, thành thạo và chính xác để tiến hành những tính toán trong hành động như: Chọn đúng công cụ cần thiết, nhận ra các nguyên nhân sai sót, xác định hợp lý tiến trình công việc, tổ chức lao động thích hợp, kiểm tra vật liệu sản phẩm, vv... Các kỹ xảo nhận biết (kỹ xảo cảm giác) là tự động hóa chính xác hoạt động của các giác quan, tạo khả năng cho người thợ tác động có hiệu qủa đến kết qua lao động và có những biện pháp cần thiết để thực hiện công việc tiện lợi mà không gặp những khổ khăn đặc biệt, tốn ít thời gian như: Xác định nhanh chóng các số đo trên dụng cụ đo lường, chỉ cần nghe tiếng động cơ đã hiểu được tình trạng của máy, vv... - Kỹ năng lao động là năng lực của người thợ biết sử dụng một cách tự giác, có mục đích và sáng tạo những kiến thức và kỹ xảo đã có vào điều kiện khác nhau trong sản xuất. Kỹ năng tưởng tượng, thiết kế, sáng tạo giúp cho công nhân khi đọc bản vẽ có thể hình dung nhanh chóng cái máy, chi tiết hoặc phôi liệu thực tế sẽ như thế nào; kỹ năng quan sát, ghi nhớ, phân tích phê phán,vv...tạo điều kiện để công nhân giải quyết thành công các nhiệm vụ sản xuất. Trình độ nghề nghiệp của người công nhân thông thường được xác định bởi tiêu chuẩn kỹ thuật và được biểu hiện bằng bậc thợ của họ. 1.1.1.4 Công nhân lành nghề: Không phải cứ công nhân làm việc lâu năm là coi như lành nghề, còn công nhân mới thì không phải là lành nghề. Định nghĩa có tính chất nguyên tắc của Mác về lao động lành nghề là lao động giản đơn đem lũy thừa lên số mũ n lần. Nhiều người làm công lác nghiên cứu và dạy nghề cho rằng: Công nhân lành nghề là những người được đào tạo có kiến thức rộng và thành thạo một nghề trong mội lĩnh vực nhất định. Họ có trình độ kỹ thuật chung rộng, không bị giới hạn bởi một nghề chuyên môn hẹp nào, có khả năng làm việc ở bất kỳ một xí nghiệp nào trong cùng ngành. Người công nhân lành nghề có những kinh nghiệm nhanh chóng giải quyết khó khăn trong sản xuất, thích ứng những yêu cầu mới của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất. Yêu cầu cơ bản đối với người công nhân lành nghề là: [15,236] 9 - về chính trị, tư tưởng: Kiên định giữ vững nền độc lập dân tộc, yêu quê hương, giác ngộ giai cáp, phấn đâu cho lý tưởng XHCN. Có tinh thần công dân và giàu lòng nhân nghĩa. Có nếp sống lao động văn minh, sáng tạo, thích nghi và có hiệu qua để làm giàu cho mình và cho doanh nghiệp. - Về học vấn: Có trình độ tương đương phổ thông trung học toàn phần. - Về nghề nghiệp: Có kiến thức chuyên môn hoàn chỉnh, tay nghề diện rộng và chuyên sâu một nghề, hiểu biết quản lý kinh tế - công nghệ nhất định để tham gia nhiều mặt vào quá trình sản xuất và làm chủ được kỹ thuật - công nghệ hiện đại, say mê nghề nghiệp và có sức khỏe tốt. Theo nghị quyết của 2 tổ chức quốc tế là: MOT (Tổ chức lao động Quốc tế) và UNESCO (Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Quốc tế) thì việc dạy nghề không thông qua trường dạy nghề chính quy chỉ gọi là dạy nghề đơn thuần, còn đào tạo công nhân lành nghề thông qua các trường dạy nghề chính qui gọi là giáo dục kỹ thuật - nghề nghiệp. Theo nghị quyết này thì giáo dục kỹ thuật - nghề nghiệp phải tiến xa hơn dạy nghề đơn giản, có nghĩa là không những ừuyền thụ cho học sinh nắm vững tay nghề và kiến thức lý thuyết mà còn đảm bảo cho họ đạt trình độ văn hoá phổ thông trung học toàn phần. 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế- xã hội của nguồn nhân lực và công tác dạy nghề. 1.1.2.1. Về nguồn nhân lực: "Quá trình phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hóa làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh", đòi hỏi: Thứ nhất, tăng mức tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người. Thứ hai là sự phát triển người. Những nghiên cứu trên thế giới gần đây cho thấy chỉ có một phần nhỏ sự tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích bởi yếu tố đầu vào là nguồn vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với chất lượng lực lượng lao động - trình độ giáo dục, sức khỏe và mức sống. Yếu tố cốt lối của hệ thống sản xuất hiện đại là thông tin và tri thức. Trí tuệ trở thành động lực phát triển tiến bộ xã hội. Khoa học và công nghệ là nền tảng tạo ra bước tăng trưởng kinh tế - xã hội mới, khác biệt về chất lượng so với trước đây. Như vậy, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội lấy con người là trung tâm là yêu cầu 10 khách quan của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư cho con người là đầu tư cơ bản nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong phạm vi một quốc gia hay một đơn vị sản xuất, nguồn nhân lực - vốn người - có ý nghĩa quyết định trực tiếp thúc đẩy tiến bộ. Garry Becker người Mỹ dược giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 khẳng định: " Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục". Lịch sử các nền kinh tế trên thế giới cho thấy không có một nước giàu nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt mức phổ cập giáo dục phổ thông. Muốn thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh phải tăng hiệu qua giáo dục để nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát hiện bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đồng thời đảm bảo các chính sách kinh tế thích hợp và nâng cao trình độ quản lý hiện đại. 1.1.2.2. Về công tác dạy nghề : Công tác dạy nghề cho mọi người để họ lao động sản xuất luôn là một yếu tố quan trọng trong việc tái sản xuất sức lao động, vì thế dạy nghề là một điều kiện bắt buộc để phát triển nền sản xuất xã hội. Việc tăng qui mô và chất lượng dạy nghề trong giai đoạn hiện nay một mặt qiải quyết tình trạng thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động kỹ thuật lành nghề một cách nghiêm trọng. Mặt khác, giải quyết tình trạng về trình độ nghề nghiệp nói chung của đội ngữ công nhân chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu tiến bộ khoa học công nghệ của sự chuyển đổi nền kinh tế thị trường với nhịp độ cao. Đồng thời đáp ứng nhu cầu học nghề rất lớn của đông đảo người lao động, từ nay đến năm 2010. Đầu tư cho công tác giáo dục kỹ thuật - nghề nghiệp là dầu tư chiều sâu trên bình diện rộng để xây dựng một lực lượng sản xuất mới - đội ngũ công nhân lành nghề - lớn mạnh về số và chất lượng ngay từ khi chưa có nền đại công nghiệp tương đối phát triển ở nước ta. Việc phát huy tiềm lực khoa học - kỹ thuật hiện có và việc áp dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ thông qua qua trình dạy nghề phải là biện pháp hàng đầu để nâng cao năng suất lao động xã hội,chết lượng sản phẩm và hiệu qua kinh tế - xã hội. Việc làm này là đòi hỏi cấp bách,có tầm chiến lược đối với công tác quản lý và tổ chức thực hiện quá trình dạy nghề, phát triển đội ngũ công nhân, từ cấp nhà nước đến các cơ sở sản 11 xuất và các trường dạy nghề chuyên nghiệp. Từ lâu, nhiều nhà kinh tế học tư sản đã thừa nhận rằng, sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật chủ yếu được xác định bởi những thành tựu đạt được trong lĩnh vực dạy nghề. Đó chính là nguyên nhân thực sự khiến các giới kinh doanh ở các nước TBCN rất quan tâm tới công tác dạy nghề. Ngành dạy nghề được xem như một lĩnh vực đặc biệt có khả năng đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ. C.Mác cho rằng, công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần cần thiết: "Một là: Giáo dục trí tuệ. Hai là: Giáo dục thể lực như trong các trường thể dục thể thao và bằng cách huấn luyện quân sự. Ba là: Dạy kỹ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững được những nguyên lý cở bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ sản xuất đơn giản nhất ".[19,13] Phát triển và bổ sung lý luận dạy nghề của C.Mác, Lênin và các nhà khoa học mác xít đã đưa ra những nguyên tắc và luận điểm làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa công tác dạy nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở phướng pháp luận khoa học để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những vấn đề nói trên... Tóm lại, sự cất cánh của một nước gắn chặt với chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là phát triển giáo đục, trong đó dạy nghề là một đòi hỏi cấp bách có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực sẽ quyết định thắng lợi cải cách kinh tế ở nước ta. 1.1.3. Hiệu qủa của công tác dạy nghề và nhu cầu ngày càng lớn của đội ngũ công nhân lành nghề: 1.1.3.1. Hiệu qủa của công tác dạy nghề: Hiệu qủa của công tác dạy nghề là tỷ số giữa kết qua hữu ích mà ngành dạy nghề đạt được và các khoản chi phí cho việc duy trì hoạt động của ngành. Để hiểu rõ thực chất hiệu qủa công tác dạy nghề phải xác định được mối quan hệ giữa dạy nghề và hiệu qua lao động của người công nhân.[19,158] Tiêu chuẩn để đánh gía kết qua hữu ích của ngành dạy nghề là chất lượng đào tạo người công nhân. Người công nhân sau khi đào tạo có đáp ứng trình độ nghề nghiệp của họ đối với sản xuất, công nghệ và các chuẩn mực đạo đức xã hội hiệu nay hay không và ỏ mức độ nào. Chi phí xã hội đào tạo công nhân gồm: Toàn bộ chi phí trực tiếp của nhà nước duy 12 trì các trường dạy nghề, cơ sở dạy nghề, gồm: xây dựng, thiết bị, sữa chữa và bảo quản thường xuyên, học bổng cho cán bộ giáo viên học sinh,... Chi tiêu của các công ty, nhà máy, xí nghiệp vào thực tập sản xuất của học sinh, tập sự của công nhân, đào tạo bồi dưỡng công nhân, các hình thức đào tạo khác hoặc đóng góp kinh phí cho các trường dạy nghề. Ngoài những chi phí xã hội trực tiếp trên, một bộ phận quan trọng trong thu nhập của gia đình có học sinh học nghề cũng sẽ được chi trong qúa trình đào tạo. Nguồn chi này thuộc ngân sách gia đình như mua sắm sách giáo khoa, ăn mặc, ở, học phí,vv... Hiện nay người ta coi chi phí đào tạo nghề không phải là phần hao phí mà là khoản đầu tư dài hạn cần thiết cho công tác này. Tiêu chuẩn chung để đánh giá hiệu qua lao động của người công nhân là mức tăng sản phẩm thặng dư cho xã hội nhờ một hình thức đào tạo nghề nào đó. Phướng pháp này còn nhiều nhược điểm nhưng hiện nay là phương pháp duy nhất đang được chấp nhận, để đánh gia hiệu qua của công tác giáo dục. Xét về mặt định tính thì hiệu qủa của công tác dạy nghề còn thể hiện bằng kết quả về mặt xã hội. Những khía cạnh xã hội có ý nghĩa quan trọng và cần lưu ý khi xác định hiệu quả công tác dạy nghề, bởi vì hiệu qủa đó cũng như hiệu qủa công tác giáo dục nói chung phải qui về hiệu qủa kinh tế. Việc xác định hiệu qủa kinh tế - xã hội của công tác dạy nghề đang gặp khó khăn vì kết qua của công lác này phần lớn mang tính chất tương đối. Về vấn đề này C.Mác đã nói: "Việc xác định khối lượng lao động cần phải bỏ ra để thu được một kết qủa nhất định chẳng qua cũng chỉ là phỏng đoán như chính bản thân kết qủa"(C.Mác, ph.Ăng Ghen, toàn tập, tập 26). Tuy nhiên các nhà kinh tế học giáo dục đã nêu ra một số hướng xác định hiệu qủa công tác dạy nghề như sau:[19,155] Hướng thứ nhất - ở cấp độ toàn ngành: Xác định hiệu quả đối với nền kinh tế quốc dân bằng cách xác định mối quan hệ kinh tế giữa công tác dạy nghề và mức tăng tổng sản phẩm xã hội hay của thu nhập quốc dân. Theo hướng này phải xem xét mối quan hệ giữa ba mặt: Nhu cầu của xã hội về đào tạo nghề; Năng lực thực tế của nền kinh tế, vốn đầu tư cho sự phát triển ngành dạy nghề và tiêu chuẩn sư phạm đối với quá trình đào tạo nghề nghiệp. Hướng thứ hai: Xác hiệu quả công tác dạy nghề trên cơ sở nghiên cứu các biện 13 pháp sử dụng hợp lý các nguồn lao động , vật tư và tài chính mà xã hội đã dành cho sự phát triển ngành nghề. Tức là xem xét các biện pháp quản lý các nguồn vốn vật chất ở trường dạy nghề để đạt được sự hợp lý về các nguyên tắc quản lý kinh tế Sư phạm và hiệu qủa tổng hợp từ những nguồn vốn vật chất của trường dạy nghề như: - Đội ngũ học sinh, đây là đối tượng giáo dục nghề đồng thời là vốn lao động dự trữ của xã hội mà nhà trường có trách nhiệm quản lý. - Đội ngũ giáo viên, công nhân viên sư phạm, đây là lực lượng giáo dục của nhà trường đồng thời lại là bộ phận đội ngũ lao động trong nền kinh tế. - Cơ sở vật chất - sư phạm của trường học, đây là phương tiện giáo dục xét từ khía cạnh vật chất, đồng thời lại là bộ phận trong nguồn vốn cố định của nhà nước. - Vốn tài chính của nhà trường: Nhà nước cấp để chi vào các công tác sư phạm như hành chính phí, học bổng, ... Nguồn tiền mặt lớn đo thành quả của lao động sản xuất, hợp đồng đào tạo, ... hoặc do quĩ tín dụng cho vay để mua vật tư thiết bị dạy nghề. Hướng nghiên cứu này cố ý nghĩa thực tiễn, vì vậy phải có hệ thống chỉ tiêu, định mức hiệu quá phù hợp. Không có định mức như: Thời gian hoàn vốn, các hệ số phát triển công tác dạy nghề,... thì rất khó xác định chính xác hiệu quả dạy nghề và sử dụng đội ngũ công nhân sau khi tốt nghiệp. Hướng thứ ba: Xác định vai trò kinh tế - xã hội và những ưu điểm của các loại trường dạy nghề, các hình thức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề cho công nhân trực tiếp trong sản xuất. Mức tăng thu nhập quốc dân nhờ trình độ kỹ thuật nghề nghiệp và nhân cách của đội ngũ công nhân.Vì vậy cần phải xác định rõ ảnh hưởng của trình độ đào tạo đốn hiệu suất lao động, tới sự giảm hư hỏng, chi phí kỹ thuật và mức tăng tiền lương cho công nhân có trình độ khác nhau. Hướng nghiên cứu này sẽ xác định mục tiêu và hình thức đào tạo nào trong điều kiện hiện nay là hợp lý và có hiệu quả nhất. Mỗi hướng xác định hiệu quả dạy nghề nêu trên đều đi đôi với một hệ thống phướng pháp đo lường, đánh giá hiệu quả nhất định. Đồng thời phải tính toán được các 14 nhân tố, các quá trình kinh tế gắn liền với công tác dạy nghề. Việc đánh giá hiệu quả dạy nghề sẽ cho phép: Thứ nhất, xác định được phương án đào tạo công nhân lành nghề một cách kinh tế nhất; Thứ hai, thực hiện được chính sách thống nhất quản lý vĩ mô ngành dạy nghề; Thứ ba, đánh giá hiệu qua các hình thức đào tạo công nhân theo một tiêu chuẩn chung, thống nhất; Cuối cùng, tạo ra khả năng sử dụng hợp lý hơn đội ngũ công nhân lành nghề và khuyến khích động viên cán bộ, giáo viên dạy nghề. Việc xem xét hiệu qủa kinh tế - xã hội của công tác dạy nghề là công cụ tối cần thiết để tìm kiếm những khả năng nâng cao tác dụng của công tác này đối với nền kinh tế. 1.1.3.2. Nhu cầu ngày càng lớn của đội ngũ công nhân lành nghề: Những năm gần đây số trường dạy nghề ở nước ta giảm. Hàng năm khoảng một triệu thanh niên đến tuổi lao động chỉ có khoảng 20% học các trường dạy nghề. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường làm tàng thêm số lượng người thất nghiệp, số lượng giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề cũng không tăng. Giáo viên trung học chuyên nghiệp khoảng từ 9,6 đến 9,7 ngàn người, giáo viên dạy nghề dao động trong khoảng từ 6,0 đến 6,1 ngàn người. Tỷ lệ học sính so với giáo viên dạy nghề là 32,3/1, sự thiếu hụt giáo viên dạy nghề rất nghiêm trọng. Ngành dạy nghề đang phấn đấu nâng dần tỷ lệ lao động được dạy nghề từ 12,6% hiện nay lên 22-25% vào năm 2000 và 60% vào năm 2020. Người công nhân lành nghề ngày nay không chỉ nắm vững các kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải có thêm yêu cầu mới về tư duy, văn hóa công nghiệp, tầm hiểu biết kỹ thuật rộng và trình độ học vấn cao... nhằm phát huy cao độ tính chủ động sáng tạo, thích ứng nhanh các điều kiện làm việc luôn thay đổi, nhạy bén trong việc làm chủ công nghệ. Vì vậy, việc phát triển các trường trung học nghề, các trung tâm dạy nghề chất lượng cao, đào tạo và ứng dụng công nghệ mỏi đang là nhu cầu khách quan để nâng cao trình độ nghề nghiệp người công nhân cho qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Theo kết qua điều tra lao động - việc làm 1996 -1997 của Trung tâm thông tin - thống kê lao động và xã hội thì năm 1997 lực lượng lao động của cả nước là 36.296.942 người, tăng 1,2% so với năm l996 và chiếm 79,80% so tổng số độ tuổi lao động. Khu vực thành thị có 7.333.112 người, tăng 7,24% so với năm 1996 và chiếm 20,20% so tổng số. Ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động có xu hướng giảm đần cả về qui mô và tỷ trọng, 15 nhưng tốc độ giảm còn qua chậm. Lực lượng lao động thành thị đang tăng đáng kể về tương đối và tuyệt đối. Sự gia tăng này do tác động của quá trình phát triển đô thị hóa và di chuyển lao động tự do từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Sự phát triển nhanh của lực lượng lao động ở khu vực thành thị đang gây sức ép lớn về nhu cầu đào tạo và việc làm, làm nẩy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp [25,231]. Theo Bộ LĐ-TB-XH, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta vẫn còn cao và có xu hướng gia tăng: Năm 1996 là 5,88%, năm 1997: 6,01%, năm 1998 ước có trên 3 triệu người thất nghiệp cần việc làm ( thất nghiệp hữu hình tích cực ), trong đó 1,2 triệu người đến tuổi lao động không tiếp tục đi học, 1,8 triệu người chưa giải quyết được việc làm năm 1997 chuyển sang và 30 vạn lao động mất việc làm do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nưổc. Năm 1998 cả nước giải quyết khoảng 1,3-1,5 triệu lao động có việc làm tuy nhiên chỉ có 12,6% lao động cả nước đã qua đào tạo, riêng lao động nông thôn, miền núi, tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 2%. Về cơ cấu lao động hiện nay ở nước ta tỷ lệ lao động giữa đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là 1; 1,5; 3,5 trong khi cớ cấu này ở các nước trong khu vực là 1;5;20. Nếu theo cơ cấu của các nước trong vực thì từ nay tói năm 2000 ngành dạy nghề cần có kế hoạch đào tạo 4,5 triệu lao động. Chỉ tính riêng cáekhu công nghiệp ỏ Đồng Nai - TP Hồ Chí Minh đến năm 2000 cần khoảng 600 nghìn công nhân. Mâu thuẫn giữa việc làm và lao động được đào tạo đang diễn ra gay gắt. Thiếu lao động có trình độ nghề nghiệp cao lại vừa thừa lao động có trình độ thấp. Đến năm 2020, nếu không đưa được tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên 20% ( với khu vực nông thôn ) và 75% (với khu vực thành thị ) thì chất lượng lao động nước ta sẽ càng tụt hậu [18,164] so với các nước trong khu vực. Như vậy, hệ thống dạy nghề đã vượt ra ngoài phạm vi các chức năng kinh tế đơn thuần. Nó đang có nhu cầu ngày càng lớn và tác động đến hàng loạt các khía cạnh xã hội để hình thành cơ cấu lao động mới, thực hiện chức năng đặc biệt quan trọng là đào tạo người lao động có lý tưởng, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cho qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 16 1.1.4. Chính sách phát triển nguồn nhân lực và đào tạo công nhân kỹ thuật ở một số nước trên thế giới: [18,37] Chính sách phát triển nguồn nhân lực được lồng ghép vào các chính sách phát triển mỗi quốc gia và trở thành yếu tố quyết định sự thành công, phát triển kinh tế - xã hội. Xu thế chung về mục tiêu phát triển nguồn nhân lực trên thế giỏi hiện nay là lấy con người làm trung tâm, đảm bảo sự phù hợp tối ưu giữa nguồn nhân lực được giáo dục, đào tạo và nhu cầu của sự phát triển. 1.1.4.1. Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước Châu Âu: Hoa Kỳ: Người Mỹ có chính sách đón trước nhu cầu nguồn nhân lực ngày càng tăng của qúa trình công nghiệp hóa. Chi phí cho giáo dục của Hoa kỳ hàng năm tăng liên tục, 1991 đã đạt tỷ lệ 7% GDR Tỷ lệ học sinh so với giáo viên là 20/1 (tiểu học) , 15/1 (trung học) và 10/1 ( giáo dục bậc cao). Trung tâm hệ thống giáo dục Hoa Kỳ là bậc đại học, chú trọng chọn lọc nhân tài và thực hiện các chức năng nghiên cứu. Hệ thống các trường cao đẳng đào tạo 2 bậc giáo dục cơ bản và đào tạo tay nghề cho công nhân phát triển rất mạnh. Hơn 200 năm phát triển, giáo dục Hoa Kỳ đã đi được bước dài góp phần đưa đất nước tới vị trí siêu cường. Hoa Kỳ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học và thu hút chất xám từ các nước khác, họ cho rằng chỉ có người nào vượt qua giáo dục phổ thông đổ uốn toi bậc dại học thì mới cần được đầu tư và bồi dưỡng. Các công ty cũng chú ý phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nhân công. Tuy nhiên dạy nghề của Hoa Kỳ nhiều năm qua bộc lộ nhiều nhược điểm, chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật thua kém Đức, Nhật Bản và nhiều nước Châu Âu. Nhà xã hội học MêRiOai cho rằng: "Tiền đề nhiều thành tựu của Nhật Bản là thợ của họ giỏi hớn thợ của Mỹ nhiều". Nhật Bản: Những thập niên cuối của thế kỷ XX nền kinh tế Nhật phát triển như vũ bão, chiếm 10% nền kinh tế thế giới. Chìa khóa mỏ "cánh cửa thần kỳ " đó là giáo dục. Từ lâu Nhật Bản đã chú trọng đến các ngành khoa học, công nghệ hữu ích và chỉ có con đường tiếp thu kỹ thuật hiện đại họ mới có thể theo kịp các nước phương Tây. Nền giáo dục Nhật 17 Bản đặt trên nền tảng vững chắc là kết hợp xu thế hướng ngoại tới nền tri thức văn hóa cao, phong phú của phương Tây với truyền thống chăm chỉ lâu đời của nước Nhật. Từ thời Minh Trị, chính phủ đã chi các khoản tiền rất lớn cho giáo dục, họ mời các chuyên gia giáo dục nước ngoài và đặc biệt chú trọng giáo dục gia đình, dạy nghề từ các công ty. Người Nhật cho rằng thời kỳ đầu phát triển đất nước chưa cần những nhà khoa học tài năng mà trước hết cần tiếp thu vốn tri thức từ phương Tây. Cho nên chỉ cần một số rất ít nhà kỹ thuật lài năng và những nhà quản lý có khả năng điều hành công việc xung quanh một lực lượng đông đảo các kỹ thuật viên, công nhân lành nghề nắm vững kỹ thuật mới, có nghiệp vụ kinh doanh tiếp thị và quản lý tài chính. Mục tiêu của họ là thừa hưởng những thành qua, triển khai, ứng dụng những phát minh khoa học kỹ thuật mới. Nền giáo dục mang tính thực dụng cao, chú trọng giáo dục chuyên nghiệp phát triển ngành nghề, đội ngũ lao động có kiến thức phổ thông biết tiếp thu và sử dụng các công nghệ nhập khẩu, coi trọng giáo dục đạo đức, kỷ luật lao động. Nền giáo dục toàn diện này đã tạo cho xã hội Nhật có đội ngũ lao động đủ phẩm chất bước vào thời kỳ tăng trưởng cao sau chiến tranh. Các công ty Nhật đã tìm ra mô hình quản lý theo kiểu ủy thác làm tăng số lượng và chất lượng công nhân, khơi dậy sự nhiệt tình và hết lòng vì công ty của người làm công. Mô hình này đã được nhiều công ty lớn trên thế giđi ứng dụng. Nước Nhật có nền giáo dục bậc thấp tốt nhất thế giđi, nhờ đó lực lượng lao động của họ có trình độ tay nghề cao. Từ nhiều thập kỷ qua, Nhật Bản đã khai thác và sử dụng tốt "nguồn vốn người" trong quá trình sản xuất tạo ra lợi thế cạnh tranh áp đảo so với các lợi thế khác như tài nguyên và vốn. Đội ngũ nhân công đặc biệt là công nhân lành nghề đông đảo và đồng đều theo kiểu Nhật đã làm tăng mức năng xuất lao động và xã hội nhanh chóng. Một số nước thuộc liên minh Châu Âu ( EU): Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao là yếu tố tạo nên sự thành công của EU về khả năng cạnh tranh đối với các nước tư bản khác. Sự quan tâm của toàn xã hội đối với giáo dục ở các nước Châu Âu rất cao. Mức đầu tư ngân sách cho giáo dục ở các nước này khoảng 5-6% tổng thu nhập quốc dân, thậm chí Thụy Điển ở mức 7,4%. Tỷ lệ học sinh trên một giáo viên đại mức lý tưởng, ví dụ, đối với bậc tiểu học ở Đức là 14, Pháp 12, Thụy Điển 9, Hà Lan 18, Anh 22... Mục tiêu giáo dục ở các nước EU là đáp ứng nhu cầu phát triển của lĩnh vực công 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan