Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự việt nam

.PDF
102
112
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ THU HÀ T¦¥NG TRî T¦ PH¸P TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ THU HÀ T¦¥NG TRî T¦ PH¸P TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận tốt nghiệp đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Thu Hà MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢƠNG TRỢ TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..............................................................................................................7 1.1. Khái niệm , đặc điểm và ý nghĩa của tƣơng trơ ̣ tƣ pháp trong tố tụng hình sự .................................................................................................7 1.1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự ......................................7 1.1.2. Đặc điểm của tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự ...............................13 1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung chính của tƣơng trợ tƣ pháp trong tố tụng hình sự ...............................................................................................15 1.2.1. Cơ sở pháp lý của tương trơ ̣ tư pháp trong tố tu ̣ng hình sự ........................15 1.2.2. Nguyên tắc của tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự ............................18 1.2.3. Thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp ....................................................21 1.3. Pháp luật của một số khu vực và quốc gia trên thế về tƣơng trơ ̣ tƣ pháp trong tố tụng hình sự .......................................................................23 1.3.1. Pháp luật của ASEAN về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự.............23 1.3.2. Quy định của pháp luật một số nước về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự .................................................................................................27 Chƣơng 2: QUY ĐINH CỦ A PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌ NH SƢ̣ VIỆT ̣ NAM VỀ TƢƠNG TRỢ TƢ PHÁP VÀ THƢ̣C TIỄN THI HÀ NH .....34 2.1. Tƣơng trơ ̣ tƣ pháp về hình sự trong các Điều ƣớc Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia .......................................................................34 2.1.1. Tương trợ tư pháp về hình sự trong các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết và tham gia thời kỳ từ năm 1975 đến trước năm 1992 ...............................34 2.1.2. Tương trợ tư pháp về hình sự trong các Điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia thời kỳ từ năm 1992 đến khi bộ luật tố tụng hình sự 2003 ra đời..............................................................................36 2.1.3. Thực trạng kí kết và tham gia các hiệp định, điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay ...........................38 2.2. Các quy định về tƣơng trợ tƣ pháp trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành..............................................................................41 2.2.1. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 ....................41 2.2.2. Quy định trong Luật tương trợ tư pháp Việt Nam năm 2007 .....................45 2.3. Thư ̣c tiễn tương trơ ̣ tư pháp trong t ố tụng hin ̀ h sư ̣ ở Viêṭ Nam hiêṇ nay ......................................................................................................54 2.3.1. Thực trạng thực hiện tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự nước ta hiện nay .......................................................................................................55 2.3.2. Những khó khăn vư ớng mắc khi thực hiện tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự .................................................................................................59 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG CHẤT LƢỢNG TƢƠNG TRỢ TƢ PHÁP VỀ HÌ NH SƢ̣ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................68 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp.............................................................................68 3.2. Những điểm mới trong quy định về tƣơng trợ tƣ pháp của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so với Bộ luật tố tụng 2003 ..................................72 3.3. Hoàn thiện pháp luật về tƣơng trợ tƣ pháp trong tố tụng hình sự.......76 3.4. Các giải pháp nâng cao hi ệu quả hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp trong tố tụng hình sự .................................................................................82 KẾT LUẬN ..............................................................................................................87 DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO ...............................................................89 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 2 CQĐT Cơ quan điều tra 3 ĐƯQT Điều ước Quốc tế 4 TAND Tòa án nhân dân 5 THTT Tiến hành tố tụng 6 TTTP Tương trợ tư pháp 7 TNHS Trách nhiệm hình sự 8 TTHS Tố tụng hình sự 9 VAHS Vụ án hình sự 10 VKSND Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. Danh mục các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự của Việt Nam tính đến T6/2016 40 Bảng 2.2. Tổng số yêu cầu TTTP của nước ngoài tới Việt Nam 55 Bảng 2.3. Thống kê số yêu cầu TTTP của các nước gửi tới Việt Nam từ năm 2011- 2015 56 Bảng 2.4. Tổng số yêu cầu TTTP của Việt Nam cho nước ngoài giai đoạn 2011-2015 58 Bảng 2.5. Thống kê số yêu cầu TTTP của Việt Nam gửi tới các nước từ năm 2011- 2015 58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng nhiều thành tựu và cơ hội to lớn để phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế cũng phát sinh nhiều nguy cơ, thách thức lớn đối với các quốc gia như bất ổn chính trị, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tệ nạn xã hội... trong đó có tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, đe dọa đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như hòa bình và an ninh quốc tế. Theo thống kê của INTERPOL, hàng năm trên thế giới xảy ra hơn 700 vụ khủng bố, làm trên 7.000 người chết và khoảng 12.000 người bị thương [93]. Các loại tội phạm hình sự nguy hiểm, tội phạm kinh tế, hoạt động băng nhóm tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày càng tăng gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, phức tạp đối với an ninh, trật tự của nhiều quốc gia trên thế giới. Không ngoài xu thế chung của thế giới, sau khi gia nhập WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi để phát triển đất nước, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức lớn đối với nền kinh tế, văn hóa, xã hội, chủ quyền và an ninh quốc gia trong đó có tình hình tội phạm quốc tế, xuyên quốc gia ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Trước diễn biến tình hình tội phạm trong nước và thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường liên kết, hợp tác đồng bộ và toàn diện bằng tất cả các biện pháp chính trị, pháp luật, kinh tế, an ninh... từ bình diện khu vực, liên khu vực và toàn cầu nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [33, tr.16]. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế đã cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, trong đó đề ra yêu cầu tăng cường hội nhập quốc 1 tế sâu rộng trong nhiều lĩnh vực.Tăng cường hợp tác quốc tế là một trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp, được quy định tại các nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tại Việt Nam hiện nay, tương trợ tư pháp về hình sự được thực hiện theo quy định của Luật tương trợ tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và các điều ước quốc tế (ĐƯQT) đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động hợp tác quốc tế nói chung, hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự nói riêng, nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và tăng cường hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như theo các hiệp định tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tương trợ tư pháp về hình sự là một lĩnh vực hoạt động có nhiều điểm mới đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại Việt Nam. Mặc dù, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và mới đây là BLTTHS năm 2015 đã quy định về hợp tác quốc tế (phần thứ 8) và Luật tương trợ tư pháp năm 2007 đã có một chương quy định về tương trợ tư pháp về hình sự, nhưng đây mới chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc, nhiều nội dung chưa được cụ thể hóa nên gặp khó khăn trong quá trình áp dụng. Công tác rà soát, đánh giá thực thi các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký với các nước (đặc biệt là các nước XHCN trước đây) để từ đó rút ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện và đề ra các giải pháp giải quyết chưa thực sự được chú trọng thực hiện. Trách nhiệm phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các ngành trong công tác đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định tương trợ tư pháp vẫn là vấn đề cần được củng cố và tăng cường.Thời gian thực hiện các ủy thác tư pháp trong tố tụng hình sự còn dài (nhiều trường hợp kéo dài hàng năm) không đáp ứng yêu cầu về thời gian xét xử trong nước, làm ảnh hưởng đến quá trình tố tụng. 2 Ở góc độ lý luận, cho đến nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự hình sự nhưng các công trình này mới chỉ nghiên cứu ở một số phạm vi nhất định, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam. Từ những lý do mang tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn như trên, tôi đã chọn vấn đề: “Tương trợ tư pháp trong Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kể từ khi Luật tương trợ tư pháp năm 2007 ban hành và có hiệu lực, ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề về hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự. Các công trình đó là: Sách chuyên khảo “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình sự quốc tế” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí làm Chủ biên; GS.TS Nguyễn Bá Diến (2002), Giáo trình công pháp quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Các đề tài nghiên cứu khoa học về tương trợ tư pháp như:Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng pháp lệnh tương trợ tư pháp quốc tế" (Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2000); “Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Việt Nam”, PGS, TS. Trần Phương Đạt, Ths. Nguyễn Đức Phúc, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2010; “Tương trợ tư pháp hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh, Ths. Nguyễn Văn Mạnh, CN. Phạm Văn Công, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2009; “Hoạt động Interpol trong thực hiện tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam”, Ths. Chử Văn Dũng, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2010; “Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Quốc Cường, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2008; Tăng cường hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp hình sự trong điều kiện hội nhập quốc tế, Nguyễn Viết Sách, Tạp chí Công an nhân dân năm 2004; Tuy nhiên, những công trình khoa học này được nghiên cứu trên phạm vi và góc độ khác nhau, xuất phát từ mục đích nghiên cứu khác nhau về tương trợ tư pháp hình sự 3 nhưng chưa có công trình nào tập trung đi sâu nghiên cứu về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài luận văn là không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Làm rõ nhận thức về cơ sở lý luận và thực tiễn tương trơ ̣ tư ph áp trong tố tụng hình sự, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tương trơ ̣ tư pháp . - Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Làm sáng tỏ khái niệm tương trơ ̣ tư pháp trong tố tu ̣ng hin ̀ h sự , các hình thức tương trơ ̣ tự pháp trong tố tụng hình sự. - Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tương trơ ̣ tư pháp ở Việt Nam. - Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về tương trơ ̣ tư pháp trong tố tu ̣ng hiǹ h sự của một số nước trên thế giới. - Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tương trơ ̣ tự pháp và thực tiễn tương trơ ̣ tư pháp trong tố tụng hình sự ở nước ta. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về tương trơ ̣ tư pháp trong tố tụng hình sự , các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tương trơ ̣ tư pháp và thực tiễn tương trơ ̣ tư pháp trong tố tụng hình sự của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Luận văn nghiên cứu đề tài này dưới góc độ luật tố tụng hình sự . Nghiên cứu quy đinh ̣ của BLTTHS 2015 và Luật tương trợ tư pháp v ề tương trợ tư pháp (về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, có nghiên cứu so sánh với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và quy định của một số nước trên thế giới,... cũng như thực tiễn áp dụng trong 5 năm từ 2011 đến năm 2015, từ đó đề 4 ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này. 5. Cơ sở lý luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cƣ́u Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, về chính sách hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về tương trơ ̣ tư pháp trong đ ấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo tổng kết, số liệu về tương trơ ̣ tư pháp của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển chế định tương trợ tư pháp hình sự. Trong khi thực hiện đề tài, các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học... đã được sử dụng để làm sáng tỏ cơ sở và những nguyên tắc của tương trợ tư pháp, so sánh với quy định của các quốc gia trên thế giới từ đó làm sang tỏ nội dung của tương trợ tư pháp trong luật TTHS VN, phân tích được những nguyên nhân hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật để từ đó đưa ra những ý kiến nhằm hoàn thiện PL TTHS về tương trợ tư pháp. 6. Nhƣ̃ng đóng góp mới của đề tài Với mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên Luận văn có những đóng góp mới sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tương trơ ̣ tư pháp trong tố tụng hình .sự - Phân tích làm rõ thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tương trơ ̣ tư pháp và thực tiễn áp dụng ở nước ta. - Nghiên cứu, so sánh các quy định của pháp luật tố tụng hình sự của nước ta về tương trơ ̣ tư pháp với những quy định tương ứng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự. 5 - Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tương trơ ̣ tư pháp . 7. Kế t cấ u của luâ ̣n văn Ngoài phần mở đầu, kế t luâ ̣n và danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo , đề tài được kết cấ u thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tương trợ tư pháp trong Tố tụng hình sự. Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢƠNG TRỢ TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của tƣơng trơ ̣ tƣ pháp trong tố tu ̣ng hình sự 1.1.1. Khái niệm tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Trong quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia được xem là nguyên tắc tối cao và bất khả xâm phạm. Điều đó dẫn đến hệ quả là quyền lực của một quốc gia chấm dứt tại biên giới nước đó. Do vậy, khi giải quyết một vụ án có yếu tố nước ngoài, quốc gia không thể trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng như thu thập, xác minh chứng cứ, tong đạt giấy tờ, tài liệu tố tụng, truy tìm, bắt giữ người khác phạm tội mà phải yêu cầu sự hợp tác, tương trợ của các quốc gia khác. Thủ tục đó được gọi là tương trợ tư pháp giữa các nước trong giải quyết vụ án hình sự. Xét về mặt lý luận, quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình để thực hiện mọi hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp và quản lý cần thiết đối với các cơ quan, tổ chức, công dân của mình trên mọi phương tiện, đặc biệt là quyền tài phán. Khi toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại thụ lý giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài đó, thì các cơ quan này không chỉ căn cứ vào pháp luật của nước mình, điều ước mà nước đó là thành viên, trong nhiều trường hợp còn phải dựa vào sự phối hợp, giúp đỡ của các toà án, các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài liên quan trong quá trình tiến hành một số hành vi tố tụng riêng biệt cần thiết cho việc giải quyết các vụ việc cụ thể đó. Nhưng quốc gia khó có thể thực hiện thành công quyền tài phán đó của mình đối với các cơ quan, tổ chức, công dân của mình trong phạm vi lãnh thổ nước khác, nếu không có sự cho phép, sự tương trợ tư pháp cần thiết (có thể là tống đạt giấy tờ, tiến hành thu thập chứng cứ, thực hiện các uỷ thác điều tra hình sự, …) của các cơ quan hữu quan nước ngoài. Hoạt động tương trợ tư pháp (Mutual Assistance in Juridical Matters) trên thế giới từ xưa đến nay đều do thực tiễn cuộc sống phong phú của 7 các quốc gia đặt ra trong từng thời kỳ lịch sử. Từ những hoạt động hợp tác sơ khai xuất phát từ nhu cầu cụ thể của từng vùng lãnh thổ, hệ thống pháp luật quốc tế được xây dựng và đến nay đã trở thành một công cụ chung để các quốc gia có thể sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình cũng như hỗ trợ các nước khác vì hòa bình và thịnh vượng chung. Tương trợ tư pháp giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động tố tụng của mỗi quốc gia và trong quy định của luật hình sự quốc tế. Để hỗ trợ cho việc thực thi pháp luật hình sự trong nước, các chính phủ hợp tác với nhau trong việc chuyển giao tội phạm và hàng loạt các biện pháp khác liên quan đến hoạt động điều tra tội phạm và thu thập, cung cấp chứng cứ. Hiệp định tương trợ tư pháp sớm nhất được biết đến là Hiệp ước hòa bình giữa người Ai Cập và người Hittite vào khoảng năm 1280 trước Công nguyên. Bản hiệp ước đó được khắc lên những bức tường của một ngôi đền ở Karnak, Ai Cập, ngày nay vẫn còn được lưu lại ở đó [2, tr.319]. Từ đó đến nay, lịch sử đã ghi nhận việc các quốc gia tiếp tục ký kết các văn bản pháp lý để giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh chống tội phạm và phát triển đất nước. Căn cứ vào phạm vi, mức độ quan hệ giữa các quốc gia với nhau, xuất phát từ nhu cầu các vấn đề cần có tương trợ tư pháp, trên cơ sở phù hợp với tính chất và khả năng thực tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các nước đưa ra những học thuyết, quan niệm, các cơ sở lý luận tương ứng về tương trợ tư pháp của mình trong quan hệ quốc tế. Trong các giao dịch dân sự, kinh tế - thương mại hàng ngày giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước khác nhau với các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước sở tại đã làm phát sinh không ít vụ hình sự và tội phạm đang có sự giao lưu, xen kẽ và đồng hành với sự phát triển quan hệ kinh tế, xã hội giữa các nước đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, phạm vi, mức độ, trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp phần lớn lại phụ thuộc vào ý chí chủ quyền của các quốc gia được yêu cầu. Xét về mặt này trên phương diện quốc tế, thì tương trợ tư pháp còn được hiểu như một biểu hiện cụ thể của chủ quyền quốc gia và các quốc gia khác phải hết sức tôn 8 trọng, không được ép buộc hoặc áp đặt để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào. Chính vì vậy, các nước có các quy định khác nhau về tương trợ tư pháp để khẳng định rõ nội dung chủ quyền của mình trong quan hệ quốc tế, tuyên bố rõ với cộng đồng quốc tế những hành vi tố tụng riêng biệt không được tiến hành, những hành vi tố tụng được phép tiến hành, cũng như các quy chuẩn tối thiểu phải tuân theo trong thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp. Như vậy, dưới góc độ pháp luật quốc tế, việc cho phép tiến hành hoặc không tiến hành những hành vi tố tụng riêng biệt trong hoạt động tương trợ tư pháp chính là sự biểu hiện về mặt đối ngoại của chủ quyền quốc gia, không giản đơn là một nội dung của nghĩa vụ hợp tác quốc tế. Tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm trong thời đại ngày nay phải được nhìn nhận như một đòi hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trọng sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các trào lưu quan hệ quốc tế giữa các quốc gia nói chung, của các giao dịch dân sự, kinh tế - thương mại giữa các tổ chức, cá nhân các nước khác nhau nói riêng. Trong xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, thì nhu cầu tương trợ tư pháp càng trở nên bức thiết; mở rộng và tăng cường quan hệ tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự đã và đang trở thành vấn đề thời sự đối với những nước có số lượng khá lớn người nước ngoài xuất nhập cảnh, cư trú, làm ăn sinh sống, cũng như với các nước có nhiều công dân xuất nhập cảnh, cư trú, làm ăn sinh sống ở nước ngoài. Vì vậy, nhu cầu tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ngày càng trở nên bức thiết.Tương trợ tư pháp ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình hợp tác nhiều mặt giữa các nước. Điều đó được giải thích bởi xu hướng xích lại gần hơn trong đời sống kinh tế - xã hội của các nước, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có nhiều người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Ngày 24/10/1970 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc, các quốc gia - chủ thể cơ bản của Luật quốc tế, phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau. Về nghĩa vụ hợp tác có phạm vi rất rộng, bao gồm cả hợp tác tương trợ tư pháp về hình sự [27, tr.6]. 9 Hiện nay, trên thế giới vẫn tồn tại rất nhiều quan niệm, cơ sở lý luận khác nhau về tương trợ tư pháp. Thậm chí, trong pháp luật các nước vẫn thường gặp cái gọi là xung đột về danh pháp (Conflict of Qualifications), tức cùng một danh từ pháp lý nhưng nội hàm của chúng lại có thể rất khác nhau. Các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa về cơ bản có chung quan niệm về tương trợ tư pháp, điển hình ở Đức và Pháp, theo đó tương trợ tư pháp được hiểu là việc các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp và thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt để thu thập chứng cứ trong một vụ việc giải quyết một vụ án. Sau khi mở rộng hợp tác trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế châu Âu, quan niệm truyền thống tư pháp về tương trợ tư pháp được mở rộng, bao gồm việc trợ giúp lẫn nhau trong trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài, tống đạt tài liệu, giấy tờ bổ trợ hoạt động tư pháp, các thông báo của tòa án và của các cơ quan hữu quan khác... Các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ như Anh – Mỹ thì không có quan niệm chung về tương trợ tư pháp và trong hoạt động tố tụng như các nước châu Âu lục địa. Theo đó, tương trợ tư pháp được hiểu đơn giản là các hoạt động dịch vụ trong tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp và hoạt động thu thập chứng cứ ở nước ngoài. Trong thực tiễn tư pháp, tòa án các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ thường thực hiện việc lấy lời khai của người làm chứng ở nước ngoài thông qua một người được tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủy nhiệm làm việc đó. Khi thẩm vấn trực tiếp hoặc đối chất, lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, người có quyền và lợi ích liên quan phải có đại diện của các bên tham gia tố tụng cùng tiến hành các hoạt động này. Các biên bản lấy lời khai phải được gửi cho tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền đã chỉ định ủy nhiệm. Như vậy, tương trợ tư pháp trong thực tiễn tư pháp các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ được hiểu là việc tòa án, các cơ quan tư pháp giúp đỡ lẫn nhau tiến hành một số hoạt động tố tụng riêng biệt trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quan niệm về tương trợ tư pháp của Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cơ bản giống với quan niệm của các nước thuộc hệ thống pháp 10 luật châu Âu. Tùy thuộc vào phạm vi, nội dung các vấn đề được quy định trong pháp luật của các nước và các điều ước quốc tế liên quan, tương trợ tư pháp được hiểu là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước khác nhau trợ giúp lẫn nhau trong việc thực hiện hành vi tố tụng riêng biệt để thu thập chứng cứ trong vụ việc tố tụng, thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự và hình sự của tòa án nước ngoài, tống đạt giấy tờ... Trong khoa học pháp lý, tương trợ tư pháp chưa có khái niệm thống nhất và cụ thể. Một số nhà nghiên cứu khoa học luật tố tụng hình sự và luật hình sự quốc tế nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một số khái niệm về tương trợ tư pháp căn cứ vào phạm vi và cách tiếp cận khác nhau, GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh đưa ra khái niệm về tương trợ tư pháp khá cơ mở, hàm chứa nhiều nội dung: Tương trợ tư pháp về hình sự là thủ tục pháp lý quốc tế, trong đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập, cung cấp thông tin, chứng cứ, lời khai và các tài liệu khác có liên quan trên cơ sở điều ước quốc tế, pháp luật trong nước để điều tra xử lý vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài [4, tr.16]. Định nghĩa này không chỉ nêu lên đặc điểm của tương trợ tư pháp mà còn bao gồm cả chủ thể, phạm vi và nội dung của hoạt động tương trợ tư pháp nội dung của nó khá phong phú do tác giả tiếp cận tương trợ tư pháp với tư cách là một thủ tục pháp lý trong luật hình sự quốc tế. Theo từ điển tiếng Việt “Tương trợ” là “sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, thể hiện tinh thần đoàn kết” [77, tr.987]. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt đối với các vụ án có yếu tố nước ngoài các vụ án có tội phạm xuyên quốc gia, tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, thì sự giúp đỡ, hỗ trợ của các quốc gia có liên quan có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn các vụ án hình sự. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của các quốc gia có liên quan trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, xử lý tội phạm chính là sự tương trợ tư pháp về hình sự hay còn gọi là tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong từ 11 điển tiếng Việt không có định nghĩa chính thức thế nào là tương trợ tư pháp do vậy cách hiểu như trên chưa thực sự là đầy đủ và chính xác. Hiện nay, qua nghiên cứu vấn đề này cho thấy, trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự đã được đề cập trong một số công trình, giáo trình và Từ điển khác như: Từ điển Bách khoa công an nhân dân Việt Nam năm 2005: “Tương trợ tư pháp về hình sự là một thủ tục tư pháp quốc tế trong lĩnh vực hình sự, trong đó các quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập chứng cứ, lời khai, cung cấp thông tin, vật chứng và các tài liệu khác có liên quan; tiến hành hoạt động dẫn độ tội phạm” [68, tr.1261]. Theo cách hiểu này, phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự được đề cập tương đối rộng đó là tất cả những biện pháp mà các quốc gia hữu quan có thể hỗ trợ cho nhau trong lĩnh vực hình sự bao gồm cả dẫn độ tội phạm; Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (2008), trường đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội nêu: “Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự là việc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước này thực hiện hành vi tố tụng hay hoạt động tố tụng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước khác trên cơ sở thỏa thuận của các quốc gia tương ứng” [64, tr.575]. Khái niệm này mới chỉ gói gọn phạm vi tương trợ tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự và xác định cơ sở để thực hiện là thỏa thuận giữa các quốc gia. Trên cơ sở tiếp thu những kết quả từ các công trình nghiên cứu và từ những phân tích nêu trên, theo chúng tôi khái niệm tương trợ tư pháp về hình sự có thể hiểu như sau: “Tương trợ tư pháp về hình sự là việc các quốc gia giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác trong các vấn đề hình sự thông qua Cơ quan trung ương của mỗi quốc gia trên cơ sở điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên tắc có đi có lại”. Xuất phát từ nội dung của khái niệm trên cho thấy, tương trợ tư pháp về hình sự là quá trình hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp hình sự của các quốc gia có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. 12 Việc tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự của nhau thuộc về phạm vi quyền tài phán của các quốc gia. Hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc quy định của các điều ước quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên hoặc được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại. 1.1.2. Đặc điểm của tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự Từ những phân tích về khái niệm trên đây, có thể rút ra các đặc điểm của tương trợ tư pháp. Cụ thể, như sau: Thứ nhất, tương trợ tư pháp về hình sự là một lĩnh vực của tương trợ pháp lý và là một trong những hình thức của hợp tác quốc tế trong TTHS. Trong những năm gần đây vấn đề về hợp tác quốc tế là một trong những vấn đề được các quốc gia trên thế giới quan tâm đặc biệt. Sự hợp tác quốc tế thể hiện trên rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ,… Trong đó lĩnh vực pháp lý là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu, bởi lẽ pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển và hợp tác giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực khác. Một trong những quan hệ quốc tế trong lĩnh vực pháp lý nổi bật chính là vấn đề tương trợ pháp lý, đặc biệt là tương trợ pháp lý về hình sự. Theo pháp luật quốc tế, cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều quy định rằng Bộ luật hình sự có hiệu lực đối với tất cả các hành vi phạm tội trong lãnh thổ quốc gia của mình cũng như hành vi phạm tội của công dân mình trên lãnh thổ nước ngoài… Tuy nhiên, hiệu lực của Bộ luật tố tụng quốc gia lại bó hẹp hơn so với Luật hình sự và chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia đó. Việc tiến hành tố tụng để giải quyết một vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Hành vi phạm tội sẽ không được xử lý kịp thời và chính xác nếu không có được sự hỗ trợ của các quốc gia có liên quan trong quá trình tiến hành tố tụng để giải quyết một vụ án hình sự. Chính vì vậy, việc ký kết các Hiệp định, tham gia các công ước tương trợ pháp tư pháp về hình sự là một trong vấn đề rất quan trọng và cần thiết để tạo điều kiện pháp lý cho mỗi quốc gia trong việc giải quyết nhanh chóng và chính xác các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, tăng cường sự hợp tác quốc tế. Tương trợ tư pháp cũng là một trong ba hình thức quan trọng của hợp tác quốc tế trong TTHS (Tương 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan